PHẦN 2 PHẢN ỨNG(1) (CÓ ĐƯỢC THÔNG TIN TỪ ĐỐI PHƯƠNG ĐỂ ĐƯA RA HÀNH ĐỘNG ĐÚNG ĐẮN) Nguyên văn
Cổ chi đại hóa giả, (2) nãi dữ vô hình (3) câu sinh. Phản dĩ quan vãng, phục dĩ nghiệm lai; (4) Phản dĩ tri cổ, phục dĩ tri kim; Phản dĩ tri bỉ, phục dĩ tri kỷ. Động tĩnh hư thực chi đạo, bất hợp lai kim, phản cổ nhi cầu chi. (5) Sự hữu phản nhi đắc phục giả, thánh nhân chi ý dã, bất khả bất sát.
Chú thích
1. Phản ứng: Phản có nghĩa là trở về, ứng có nghĩa là trả lời, “phản ứng” ở đây là chỉ đã có được thông tin khi trở về từ chỗ đối phương.
2. Đại hóa: Dùng đạo lớn để hóa vật, tức những diễn biến sâu sắc và trong phạm vi rộng. Người đại hóa là những thánh nhân thời cổ đại có khả năng ảnh hưởng tới xã hội, chuyển hóa lòng người, dùng đạo lớn để giáo hóa chúng sinh.
3. Vô hình: Không để lại dấu vết.
4. Phản dĩ quan vãng, phục dĩ nghiệm lai: Phản và phục đều có nghĩa là quay trở lại, làm lại. Câu này có nghĩa là hồi tưởng lại những sự việc, kinh nghiệm đã qua và dựa vào những trải nghiệm giáo huấn trước đây để đối mặt với vấn đề hiện tại, từ đó nghĩ ra cách giải quyết.
5. Động tĩnh hư thực chi đạo, bất hợp lai kim, phản cổ nhi cầu chi: “Động tĩnh” là chỉ hành động và lời nói. “Hư thực” là chỉ suy nghĩ. “Bất hợp” tức là không hợp với lẽ thường. “Lai kim” tức tương lai và hiện tại. Cả câu này có nghĩa là: Nếu đối phương có hành động, lời nói và suy nghĩ không hợp với lẽ thường thì có thể nghiên cứu tìm hiểu bằng sự việc xung quanh hoặc sự việc đã qua.
Phần này cũng là một thuật du thuyết, hàm ý chính của thuật này là: Thông qua việc quan sát, lý giải, biện luận nhiều lần trên cả hai phương diện tích cực và tiêu cực để nắm vững một cách chính xác phản ứng của đối phương, bao gồm phản ứng về tâm lý và ngôn ngữ, từ đó hiểu rõ về đối phương, cũng như xác định chính xác chiến lược trọng tâm của bản thân. “Phản” là một kỹ xảo và phương pháp du thuyết, còn gọi là “phản quan”, là đứng trên lập trường, góc độ quan sát sự vật của đối phương để quan sát đối phương, mục đích của việc làm này chính là để hiểu rõ hơn nữa về đối phương và những việc đã qua. “Phục” đối lập với “phản” còn gọi là “phục nghiệm” là xem xét lại bản thân nhiều lần, đây cũng là một kỹ xảo và phương pháp du thuyết, mục đích của việc làm này chính là làm rõ xem bản thân mình đang muốn gì, hiểu rõ về mình, cũng chính là hiểu rõ tình hình thực tế của đối phương.
Dịch nghĩa
Thánh nhân thời cổ đại được giáo hóa sâu sắc, họ cùng sinh ra với cái đạo tự nhiên vô hình (quy luật tự nhiên). Hồi tưởng lại lịch sử đã biết, sau đó dựa vào những kinh nghiệm đã trải qua để đoán định tương lai; hồi tưởng lại lịch sử, rồi dựa vào đó để hiểu về hiện tại; hồi tưởng về người mình đã quen biết, rồi dựa vào đó để hiểu về bản thân. Nếu đạo lý “động tĩnh, hư thực” không phù hợp với hiện tại thì quay ngược lại lịch sử để cùng xem người xưa đã từng trải nghiệm qua những gì. Có một số sự việc phải hồi tưởng lại nhiều lần mới có thể nắm vững, đây là kiến giải của thánh nhân, cần suy xét cẩn thận.
Nguyên văn
Nhân ngôn giả, động dã. Kỷ mặc giả, tĩnh dã. (1) Nhân kỳ ngôn, thính kỳ từ. Ngôn hữu bất hợp giả, phản nhi cầu chi, kỳ ứng tất xuất. (2) Ngôn hữu tượng, sự hữu tỷ; Kỳ hữu tượng tỷ, dĩ quan kỳ thứ. (3) Tượng giả, tượng kỳ sự. Tỷ giả, tỷ kỳ từ dã. Dĩ vô hình cầu hữu thanh. (4) Kỳ điếu ngữ hợp sự, đắc nhân thực dã. (5) Kỳ trương thư võng nhi thủ thú dã, đa trương kỳ hội nhi tư chi. (6) Đạo hợp kỳ sự, bỉ tự xuất chi, thử điếu nhân chi võng dã. Thường đặc kỳ võng khu chi. (7) Kỳ ngôn vô tỷ, nãi vi chi biến. Dĩ tượng động chi, dĩ báo kỳ tâm, kiến kỳ tình, tùy nhi mục (8) chi. Kỷ phản vãng, bỉ phục lai, ngôn hữu tượng tỷ, nhân nhi định cơ. (9) Trùng chi tập chi, (10) phản chi phục chi, vạn sự bất thất kỳ từ. Thánh nhân sở dụ ngu trí, sự giai bất nghi.
Chú thích
1. Nhân ngôn giả, động dã: Nhân ngôn là chỉ đối phương phát ngôn, có nghĩa là để đối phương nói, tức là để anh ta ở thế động. Kỷ mặc giả, tĩnh dã: Kỷ mặc, chỉ bản thân im lặng không nói, có nghĩa là để bản thân ở thế tĩnh.
2. Ý nghĩa của cả câu là: Nếu lời nói của đối phương không hợp với tình hình thực tế thì bạn có thể hỏi đi hỏi lại những câu hỏi khó, như vậy đối phương nhất định sẽ nói ra sự thực.
3. Tượng là mô phỏng, tỷ là so sánh. Tượng tỷ là chỉ trong khi nói chuyện, khiến đối phương hiểu rõ vấn đề thông qua những hình tượng so sánh cụ thể.
4. Dĩ vô hình cầu hữu thanh: Dựa vào đạo lý vô hình để hiểu rõ ngôn ngữ âm thanh.
5. Điếu ngữ: Giống như thả mồi khi câu cá, kích thích đối phương nói ra sự thực bằng việc cố ý nói ra những lời đả kích, châm chọc đối phương. Hợp sự: Phù hợp với đạo lý, sự thực. Đắc nhân sự: Có được sự thực từ đối phương.
6. Thư: Lưới bẫy thú hoang như thỏ. Võng: Dụng cụ bắt động vật dưới nước như cá. Thủ: Bắt giữ. Hội: Tụ hội, ở đây là chỉ nơi động vật hoang dã tụ họp. Tư: trông ngóng.
7. Khu chi: Điều khiển đối phương. Kỳ ngôn vô tỷ, nãi vi chi biến, nghĩa là nếu thấy đối phương nói không hợp lý thì thay đổi biện pháp để đối phó.
8. Mục: Sai khiến, chế ngự.
9. Kỷ phản vãng, bỉ phục lai: Ta quay trở về, đối phương quay trở lại. Có ý nói, hai người thay phiên nhau nói, khiến buổi nói chuyện diễn ra rôm rả. Ngôn hữu tượng tỷ, nhân nhi định cơ: Trong câu chuyện, có đưa ra nhiều ví dụ và sự so sánh, do đó rất đáng tin cậy.
10. Trùng: Lặp lại. Tập: cũng có nghĩa là lặp lại, mang ý “bắt chước làm theo”.
Phần này chia thành 4 tầng nghĩa. Tầng thứ nhất nói về việc cần phải vận dụng phương pháp “phản phục”, tức là cần hiểu rõ quá khứ, hiện tại; hiểu bản thân và đối phương; nhìn hiện tại, hồi tưởng về quá khứ, biết mình biết địch. Tầng thứ hai nói về việc khéo dụ dỗ đối phương nói ra suy nghĩ thực, lắng nghe đối phương nói, hỏi đi hỏi lại nhiều lần để xác định mưu lược của bản thân. Tầng thứ ba đề cập tới việc khi vận dụng thuật Phản ứng, cần giỏi biến hóa, giỏi lấy nhu khắc cương, từ đó đạt được mục đích “hiểu thấu mọi việc”. Tầng thứ tư nói về việc cần hiểu rõ về người khác. Muốn vậy thì trước hết phải hiểu bản thân, có định kiến rồi mới có thể vận dụng linh hoạt, chính xác và nhuần nhuyễn các sách lược. Tóm lại, nội dung của phần này là đề cập tới nguyên tắc thuyết phục đối phương bằng cách “phán đoán thăm dò nhiều lần”, “lấy tĩnh chế động”, “bắt đầu từ việc hiểu rõ về bản thân”.
Dịch nghĩa
Người khác nói, là ở trạng thái động, bản thân im lặng, là ở trạng thái tĩnh. Lấy tĩnh quan sát động thì có thể đoán được ý đồ thực sự của đối phương. Nếu trong lời nói của đối phương có mâu thuẫn thì dựa vào những mâu thuẫn này mà đặt ra những câu hỏi liên tiếp cho đối phương thì có thể tìm ra được đáp án chính xác từ đối phương. Ngôn ngữ có hình thái mô phỏng, sự vật có quy phạm so sánh. Do có “hình tượng” và “sự so sánh” nên cần quan sát trong sự im lặng. Nói chung, hình tượng có thể mô phỏng sự vật, sự so sánh có thể sánh với ngôn từ, lấy quy luật “vô hình” để tìm ra được ngôn từ hữu thanh, dụ đối phương nói ra những việc mà mình cần phải biết, từ đó hiểu rõ được chân tướng của người và vật có liên quan. Đây chính là một kiểu giăng lưới bắt thú hoang, giăng nhiều lưới, rồi ngồi đợi thú hoang tới, nhờ thế mà bắt được chúng. Nếu áp đụng biện pháp bắt thú hoang vào trong “người thực việc thực”, thì chỉ cần có biện pháp hợp lý thì đối phương nhất định sẽ “xuất hiện”, đây chính là “lưới” để dụ người. Chúng ta có thể thường xuyên dùng “lưới” để dụ dỗ đối phương, nếu không thể phán đoán, cân nhắc ngôn từ của đối phương thì lúc này cần tìm biện pháp trò chuyện khác, đưa ra một vài ví dụ cụ thể để làm lung lạc đối phương, từ đó nhìn thấu đáy lòng đối phương, nắm vững ý đồ thực sự của đối phương, như vậy sẽ dễ dàng kiểm soát đối phương. Khi biện pháp của chúng ta khác với đối phương thì đối phương nhất thiết sẽ đưa ra ý kiến trái ngược. Nếu ngôn từ hai bên đều hình tượng, đều ví von so sánh thì chính là suy nghĩ của hai bên đã có điểm tương đồng. Quan sát cẩn thận nhiều lần, kiểm nghiệm nhiều lần, dù sự vật có thay đổi song sẽ không mất đi “ngôn từ”, dùng “ngôn từ” để nói ra đạo lớn. Thánh nhân đã dựa vào điều này để dụ dỗ, cảm hóa người tài giỏi, lẫn kẻ ngu ngốc, do đó có được thành công là điều đương nhiên, không phải bàn cãi.
Nguyên văn
Cố thiện phản thính giả, nãi biến quỷ thần (1) dĩ đắc kỳ tình. Kỳ biến đương dã, nhi mục chi thẩm dã. (2) Mục chi bất thẩm, đắc tình bất minh. Đắc tình bất minh, định cơ bất thẩm. (3) Biến tượng tỷ, tất hữu phản từ, dĩ hoàn thính chi. (4) Dục văn kỳ thanh, phản mặc; Dục trương, phản liễm; Dục cao, phản hạ; Dục thủ, phản dữ. Dục khai tình giả, tượng nhi tỷ chi, (5) dĩ mục kỳ từ. (6) Đồng thanh tương hô, thực lý đồng quy. (7) Hoặc nhân thử, hoặc nhân bỉ, hoặc dĩ sự thượng, hoặc dĩ mục hạ. Thử thính chân ngụy, tri đồng dị, đắc kỳ tình trá dã. Động tác ngôn mặc, dữ thử xuất nhập, hỉ nộ do thử dĩ kiến kỳ thức, (8) giai dĩ tiên định vi chi pháp tắc. (9) Dĩ phản cầu phục, quan kỳ sở thác, (10) cố dụng thử giả.
Chú thích
1. Nãi biến quỷ thần: Có nghĩa là sử dụng mọi biện pháp kỳ bí để phán đoán.
2. Kỳ biến đương dã, nhi mục chi thẩm dã: Nếu có biện pháp thỏa đáng thì có thể điều khiển được người nói. Biến: chỉ “biến quỷ thần” ở câu trên. Thẩm: tỉ mỉ, kỹ càng.
3. Định cơ bất thẩm: Có nghĩa không thể đặt nền tảng sự việc một cách cố định.
4. Dĩ hoàn thính chi: Hỏi đi hỏi lại rồi lắng nghe. Hoàn: hết một vòng lại quay lại từ đầu.
5. Tượng nhi tỷ chi: Đưa ra những so sánh bằng hình tượng và ví dụ cụ thể.
6. Dĩ mục kỳ từ: Như vậy thì có thể kiểm soát được ngôn từ của đối phương.
7. Thực lý đồng quy: Sự thực và tình lý đều do bản thân kiểm soát.
8. Hỉ nộ do thử dĩ kiến kỳ thức: Do vậy mà thể hiện rõ quy luật “hỉ, nộ, ai, lạc”. Thức: quy luật, quy cách.
9. Giai dĩ tiên định vi chi pháp tắc: Đây đều là phép tắc được quyết định bởi bản tính của một người.
10. Quan kỳ sở thác: Quan sát xem đối phương gửi tình vào đâu. Có thể lý giải là quan sát điểm xuất phát và mục đích của đối phương.
Khi vận dụng hai kỹ xảo và phương pháp “phản quan” và “phục nghiệm”, cần chú ý đến ba vấn đề sau: Thứ nhất, ngắm đúng mục tiêu, hướng đến mục đích. Mục đích ở đây chỉ có một, đó là làm rõ sự thực, nhận biết chính xác để tiến hành quyết sách đúng đắn, không được để cho hai phương pháp phản và phục làm mụ mị đầu óc trong khi du thuyết, cần bỏ qua những chi tiết nhỏ, không được để xảy ra sai sót gì. Thứ hai, chọn nhiều phương pháp “phản quan” và “phục nghiệm” khác nhau, về “phản quan” thì có các phương pháp như: hỏi vặn, hỏi xoáy, trách cứ, hỏi khó,… Về “phục nghiệm” thì có các phương pháp như: tự kiểm điểm bản thân, tự phê bình bản thân, tiếp thu ý kiến,… Thứ ba, chú ý đến sự khác biệt của đối tượng “phản quan” và đối tượng “phục nghiệm”. Đối tượng phục nghiệm là chủ thể, tức là chủ thể mưu lược, là bản thân người du thuyết, còn đối tượng phản quan là khách thể, tức là mục tiêu của mưu lược, của du thuyết. Cần biết rằng, do xã hội quá phức tạp nên đối tượng tấn cống cũng rất phức tạp, vậy nên, cần có thái độ và phương pháp khác nhau đối với từng đối tượng cụ thể.
Dịch nghĩa
Người cổ đại tìm hiểu ý đồ của người khác bằng cách hỏi đi hỏi lại vấn đề, họ có thể nắm bắt được sự thự, nhờ vào biện pháp thần bí. Đối phương thay đổi là một chuyện hoàn toàn hợp lý, do đó, phải cẩn thận kỹ càng thì mới nắm vững tình hình của đối phương. Nếu không cẩn thận kỹ càng thì sẽ nhận được thông tin sai lệch, mà thông tin sai lệch sẽ không thể thiết lập “cơ sở” vững chắc. Diện mạo của đối phương, cũng như nội dung trò chuyện liên tục thay đổi trong quá trình nói chuyện, do đó nhất thiết phải tạo nên sự tương phản. Để đối phương nói trước, còn mình lắng nghe. Muốn đối phương nói thì mình phải giữ im lặng, muốn đối phương cởi mở tấm lòng thì mình phải tỏ ý tiếp thu, muốn lên cao thì cần hạ thấp, muốn nhận được thì phải cho đi. Muốn đối phương nói thật lòng mình, thì cần làm rung động đối phương bằng sự so sánh, ví von hình tượng, rồi tiếp tục quan sát đối phương thông qua lời nói của anh ta, khi cảm thấy tâm lý của đối phương thoải mái, phù hợp với tâm tư của mình thì chính là đã nắm chắc tình hình thực sự. Có thể bắt đầu từ “mắt xích” này, cũng có thể bắt đầu từ “mắt xích” kia, có thể bắt đầu từ chuyện sùng bái hoàng đế, cũng có thể bắt đầu từ chuyện trị vì đất nước. Làm vậy là để phân biệt rõ thật giả, tìm ra điểm giống nhau và khác nhau trong quá trình nói chuyện, và cũng là để hiểu rõ tình hình có thực hay chỉ là giả. Mọi cử chỉ khác lạ, lời nói mâu thuẫn đều có thể nhận ra, tâm tư vui buồn hay phẫn nộ cũng sẽ lộ ra ở đây. Làm đi làm lại, quan sát xem đối phương gửi tình vào đâu, chính là dùng cách này.
Nguyên văn
Kỷ dục bình tĩnh, dĩ thính kỳ từ, sát kỳ sự, luận vạn sự, biệt hùng thư. Tuy phi kỳ sự, kiến vi tri loại. Nhược thám nhân nhi cư kỳ nội, lượng kỳ năng, xạ kỳ ý; phù ứng bất thất, như đằng xà chi sở chỉ, nhược nghệ chi dẫn thỉ. Cổ tri chi thủy kỷ, tự tri nhi hậu tri nhân dã. Kỳ tương tri dã, nhược tỉ mục chí ngư; (1) Kỳ kiến hình dã, nhược quang chi dữ ảnh; (2) kỳ sát ngôn (3) dã bất thất, nhược từ thạch chi thủ thiết; nhược thiệt chi thủ phiền cốt. (4) Kỳ dữ nhân dã vi, (5) kỳ kiến tình dã tật; (6) Như Âm dữ Dương, như viên dữ phương. Vị kiến hình, viên dĩ đạo chi; (7) ký kiến hình, phương dĩ sự chi. (8) Tiến thoái tả hữu, (9) dĩ thị tư chi. Kỷ bất tiên định, mục nhân bất chính, sự dụng bất xảo, thị vị vong tình thất đạo. Kỷ thẩm tiên định dĩ mục nhân, sách nhi vô hình dung, mạc kiến kỳ môn, thị vị thiên thần. (10)
Chú thích
1. Tỷ mục chi ngư là loài cá thân bẹt với hai con mắt nằm cùng một bên. Người xưa cho rằng, loài cá này chỉ có một mắt, nên phải sống thành cặp mới sinh tồn được. Ở đây có nghĩa là hai người hiểu nhau, gắn bó không tách rời giống như đôi cá thân bẹt.
2. Kỳ kiến hình dã, nhược quang chi dư ảnh: Tiếp câu trên, vẫn là nói về mối quan hệ giữa con người với nhau, mối quan hệ này được ví như ánh nắng và bóng, không thể tách rời nhau.
3. Sát ngôn: Nắm bắt tình hình thực tế dựa vào việc quan sát lời nói của đối phương.
4. Phiên cốt: Xương đã được hỏa thiêu.
5. Vi: Rất nhỏ, không nhìn thấy hình sắc.
6. Tật: Tốc độ nhanh, nhạy bén.
7. Vi kiến hình, viên dĩ đạo chi: Khi hình thù chưa hiện rõ thì cần dẫn dắt nó bằng phương pháp “tròn”.
8. Tức kiến hình, phương dĩ sự chi: Sau khi hình thù đã hiện rõ thì cần đối đãi nó bằng phương pháp “Vuông”.
9. Tiến thoái tả hữu: Ở đây là chỉ cách dùng người, tiến lên, thụt lùi, sang phải, sang trái.
10. Thiên thần: Chỉ người giỏi thăm dò và quan sát tình hình thực tế, đạt đến độ nhuần nhuyễn.
Nội dung của phần này là làm thế nào để dụ dỗ, thuyết phục đối phương trong khi du thuyết, phần này còn đề cập tới hai danh từ chuyên dùng đó là “tượng tỷ” và “điếu ngữ”. “Tượng” mang nghĩa “hình tượng”, “tượng trưng”, “tượng kỳ sự” chính là dùng ngôn ngữ hình tượng cụ thể như ví von so sánh, tượng trưng để miêu tả sự việc trừu tượng. “Tỷ” chính là làm cho đối phương tin phục bằng những ví dụ mang tính chất so sánh cụ thể. Vận dụng “tượng tỷ” có nghĩa là mượn ngôn ngữ hình tượng và khả năng thuyết phục để biểu đạt ra những điều vô hình sâu kín, từ đó thuyết phục được đối phương, ngôn ngữ này được gọi là “điếu ngữ”. Phần này nói về lý, không chỉ mang nhiều tầng ý nghĩa, mà còn hình tượng, sinh động, vận dụng rất nhiều kiểu so sánh độc đáo, như điếu nhân chi võng, tỷ mục chi ngư, hưởng chi tùy thanh, ảnh chi tùy quang, Hậu Nghệ xạ nhật,…
Dịch nghĩa
Muốn áp dụng phương pháp này thì bản thân trước hết phải bình tĩnh, lắng nghe lời nói của đối phương, từ đó nắm bắt được ý nghĩa thực sự trong mỗi lời nói, biết được đâu là chuyện đáng mừng, đáng buồn, đâu là thật, đâu là giả. Dù đối phương đề cập tới những thông tin mà chúng ta không quan tâm, song chúng ta vẫn phải lấy đó làm căn cứ để phát hiện ra dấu hiệu thay đổi của một số sự vật nào đó, từ đó suy luận ra thông tin quan trọng mà chúng ta cần. Cũng giống như thăm kẻ địch trước, rồi mới tiến vào sào huyệt của chúng. Đầu tiên, phán đoán năng lực của kẻ địch, tiếp đến thăm dò ý đồ của kẻ địch, có vậy mới nắm vững chính xác tình hình của địch, như vậy cũng giống như rắn lao tới mục tiêu một cách chính xác, như Hậu Nghệ giương cung ngắm bắn thì “bách phát bách trúng”, bởi vậy muốn nắm vững tình hình thì trước hết cần bắt đầu từ bản thân, chỉ có hiểu rõ về bản thân rồi thì mới hiểu được người khác. Sau khi đã hiểu rõ về người khác rồi thì hai bên mới trở nên thân thiết, gần gũi, không thể cách xa như đôi cá thân bẹt; Nhìn thấu ngoại hình của đối phương thì có thể thấy được thế giới nội tâm của anh ta, cũng giống như ánh nắng và bóng lúc nào cũng gắn liền với nhau. Quan sát lời nói của đối phương, sẽ không sợ xảy ra sai xót, có thể hình dung mức độ của nó giống như là nam châm hút sắt, như đầu lưỡi chạm vào miếng xương nướng. Mối quan hệ của con người cũng tuyệt diệu như vậy, chỉ cần quan sát đối phương cặn kẽ, hiểu rõ dụng ý của đối phương thì sẽ có được mối quan thân thiết, gắn bó giống như mối quan hệ Âm Dương, vuông tròn. Khi tình hình còn chưa rõ ràng thì có thể dụ dỗ, làm mê hoặc đối phương bằng trí tuệ, sau khi đã hiểu rõ tình hình thì lại cần chiến thắng đối phương dựa vào mưu lược. Dù tiến lên hay thụt lùi, dù sang trái hay sang phải thì đều có thể dùng biện pháp này. Nếu vẫn chưa chấn chỉnh tốt phẩm hạnh của bản thân thì sẽ rất khó lãnh đạo và quản lý người khác chính xác. Làm việc không nghiên cứu biện pháp và kỹ xảo thì gọi là “quên đi tình cảm, mất đi đạo lý chính nghĩa”. Nếu đã chấn chỉnh tốt phẩm hạnh của bản thân trước tiên thì có thể “ra uy mà không lộ liệu”, ngấm ngầm điều khiển mọi chuyện, thì cũng giống như là để mọi người nhìn thấy cánh cổng lớn, song lại không biết phải vào bằng cách nào, người như vậy mới được gọi là “thiên thần”.
ĐIỂN CỐ MƯU LƯỢC
Ngô Dụng dùng mưu cướp lễ vật
Ngô Dụng đưa ba anh em họ Nguyễn tới thôn Đông Khê gặp mặt Tiều Cái và Lưu Đường. Vừa hay gặp Nhập Vân Long Công Tôn Thắng người Kình Châu cũng tới đây để bàn với Tiều Cái chuyện “cướp lễ vật sinh nhật”, thế là bảy vị hảo hán cùng ngồi vạch kế sách ở bản doanh của Tiều Cái.
Ngô Dụng dặn Lưu Đường sáng sớm hôm sau đi nghe ngóng tình hình xem đội quân áp tải lễ vật sinh nhật đi lối nào, Công Tôn Thắng bèn nói mình đã nghe ngóng kỹ tình hình rồi, đội quân áp tải lễ vật sẽ đi qua lối Hoàng Nê Cương. Tiều Cái nói: “Cách Hoàng Nê Cương mười dặm về phía đông là thôn An Lạc, trong thôn có một tay hảo hán gọi là Bạch Nhật Thử Bạch Thắng, cũng thường tới chỗ tôi chơi, người này đáng tin cậy, chúng ta có thể đợi sẵn ở nhà anh ta”. Tiều Cái lại hỏi Ngô Dụng xem nên cướp theo cách nhẹ nhàng hay dùng sức mạnh, Ngô Dụng nói: “Việc này, tôi đã tính toán kỹ rồi, chỉ cần nhìn vào thế họ đến là biết ngay, đáng dùng sức khỏe thì ta sẽ dùng sức khỏe, đáng lấy bằng trí tuệ thì ta lấy bằng trí tuệ. Tôi có một kế như thế này, không biết có hợp ý các vị không? Như thế này…”. Tiều Cái nghe xong mừng rỡ nói: “Diệu kế, diệu kế, chẳng trách mà có danh hiệu Trí Đa Tinh, thực là xứng đáng, dẫu là Gia Cát Lượng cũng chỉ đến thế mà thôi”.
Lại nói về đội quân áp tải lễ vật sinh nhật do Dương Chí dẫn đầu, sau khi từ biệt Lương Trung Thư thì đi thẳng về phía Đông Kinh. Dương Chí và Lão Đô Quản cải trang thành thương nhân, hai tên Ngu hầu cải trang thành tùy tùng đi theo, 11 tên cầm quân khỏe mạnh đóng giả những người phu khuân vác, gánh 11 gánh kim ngân châu báu rong ruổi tiến về phía trước. Từ khi bước ra khỏi thành Bắc Kinh, trong năm bảy ngày trời, hôm nào họ cũng đi từ canh năm cho mát, đến giữa trưa lại nghỉ. Sau dần đến những nơi nhà cửa lưa thưa, đường đi vắng vẻ, xung quanh toàn thấy núi non thì Dương Chí bắt đội quân đi từ giờ Thìn đến giờ Thân mới được nghỉ. 11 tên cầm quân gánh nặng è cổ, mà trời lại nóng bức như thiêu, chúng không sao chịu được, cứ thấy quãng rừng cây nào là đặt gánh xuống nghỉ. Dương Chí thấy vậy thì thúc giục bắt đi, nếu tên nào chậm trễ là bị roi mây quất đít ngay. Các tên cầm quân này đều tức giận mà không dám nói ra, Lão Đô Quản và hai tên Ngu hầu cũng lấy làm bực mình vì hành động thô bạo của Dương Chí.
Buổi trưa mồng 4 tháng 6, đội quân của Dương Chí tới Hoàng Nê Cương, mọi người vừa mệt vừa khát, nằm lăn quay dưới tán cây râm mát, Dương Chí cầm roi mây quất vào người họ, bắt dậy đi tiếp, song gọi được người này dậy thì người kia lại lăn ra ngủ. Dương Chí chẳng biết làm thế nào, đến Lão Đô Quản cũng bất bình, lớn tiếng mắng chửi anh ta.
Lúc này, bọn Tiều Cái bảy người đã đợi sẵn ở trong rừng thông. Lưu Đường vâng lệnh Ngô Dụng, giả vờ đứng lấp ló trong rừng thông, cố ý để cho Dương Chí nhìn thấy, thế là Dương Chí vác đao lao về phía khu rừng quát lớn: “Ngươi là ai mà to gan thế, dám tới dòm ngó hàng hóa của ta?”, khi Dương Chí chạy tới khu rừng thì thấy ở đó có một dẫy bảy chiếc xe một bánh kiểu Giang Châu, sáu người Tiều Cái đều đang cởi trần trùng trục, ngồi nghỉ mát, Lưu Đường cũng vừa hay chạy tới chỗ họ. Bọn Tiều Cái nhìn thấy Dương Chí thì giả vờ kinh ngạc, đồng thanh kêu lên và đứng bật cả dậy, Dương Chí quát lớn: “Các ngươi là ai? Chắc không phải là kẻ xấu chứ?” Bảy người không trả lời mà hỏi ngược lại: “Chúng tôi đang muốn hỏi anh là ai? Chúng tôi là những người buôn bán nhỏ lẻ, không có tiền cho anh đâu”, Dương Chi nói: “Các anh buôn bán nhỏ lẻ thì tôi buôn lớn chắc, rốt cuộc các anh buôn bán gì vậy?”. Bảy người hỏi: “Bảy anh em chúng tôi buôn táo ở Hàng Châu, đem sang Đông Kinh, thấy họ nói chỗ này là đồi Hoàng Nê, thường có trộm cướp lẩn lút để cướp bóc hàng hóa của người đi buôn, cho nên chúng tôi đi suốt nào có dám dừng chân. Nhưng nghĩ lại, thấy mình chỉ có mấy xe táo, mà không có của cải gì, vả chăng đi được đến đây, thì trời nắng quá, không sao chịu nổi, đành phải ngồi nghỉ, đợi khi trời mát mới đi. Vừa rồi nghe tiếng nói ở trên đồi, chúng tôi tưởng là cướp cho nên phải bảo người chạy ra nom xem sao”. Lúc này, Dương Chí mới yên tâm, quay trở về lệnh cho mọi người được phép nghỉ ngơi, đợi trời mát mẻ rồi mới đi tiếp, còn bản thân cũng tự tìm cho mình một gốc cây râm mát ngồi nghỉ.
Một lúc sau, xuất hiện một người vai gánh đôi thùng (người này chính là Bạch Thắng), chân bước lên đồi, miệng hát nghêu ngao: “Lửa trời nung nấu bấy lâu nay. Cháy lúa khô đồng héo cỏ cây. Thương nỗi nông phu như lửa đốt. Công tử vương tôn quạt mỏi tay”. Người này tới đồi thì đặt gánh xuống nghỉ chân. Quân của Dương Chí hỏi ra mới biết đây là người bán rượu, 5 quan tiền 1 thùng rượu, thế là chúng bàn với nhau rằng: “Chúng ta vừa nóng vừa khát, sao không mua một thùng uống nhỉ?”. Dương Chí thấy vậy liền quát: “Các ngươi chỉ tham ăn tục uống thôi, các ngươi không thấy là đã có biết bao hảo hán bị bỏ thuốc mê đó sao?”. Người bán rượu nghe vậy, nhìn Dương Chí cười khẩy rồi nói: “Anh này nói hay thật đấy! Tôi có bán cho anh uống đâu, mà anh dám nói những câu vô lý như thế”.
Bảy người Tiều Cái nghe thấy tiếng cãi nhau ỏm tỏi vội chạy đến hỏi có chuyện gì. Bạch Thắng liền đáp: “Tôi gánh rượu vào làng bán, đi qua đây trời nắng ngồi nghỉ mát, mấy người kia đến hỏi mua rượu uống. Tôi cũng chưa bán, thế mà anh này lại bảo rằng, rượu tôi có thuốc mê. Các anh tính xem, nói như vậy có vô lý không cơ chứ?”. Bọn Tiều Cái nói: “Thế mà chúng tôi cứ tưởng là có cướp đến. Thôi hai người đừng cãi nhau nữa. Chúng tôi cũng đang muốn mua rượu giải khát đây, họ có ý nghi ngờ thì anh bán cho chúng tôi một thùng vậy”. Anh chàng bán rượu khăng khăng từ chối. Bọn Tiều Cái nói: “Cái anh này rõ là vô lý, anh mang đi đâu bán chẳng phải là tiền? Anh bán cho chúng tôi cũng là giúp chúng tôi giải cơn khát này”. Bạch Thắng nói: “Bán cho các anh một thùng thì cũng chả vấn đề gì, nhưng bị họ nói thế, tức lắm! Hơn nữa, ở đây cũng không có chén bát gì, uống làm sao được?”. Nhóm Tiều Cái nói: “Họ nói mặc họ chứ, anh cứ bán đã sao? Chúng tôi đã có gáo để uống rồi đây”. Nói xong một người chạy ra xe lấy gáo, một người chạy đi bê táo lại, bảy người túm lại ngồi quanh thùng rượu, múc rượu uống lần lượt với nhau, rồi lấy táo ra nhắm, chỉ một lát đã hết sạch thùng rượu. Bảy người quay sang hỏi bao nhiêu tiền, Bạch Thắng nói: “Năm quan một thùng, mười quan một gánh đầy, không bớt một xu”. Lưu Đường nói: “Năm quan thì năm quan, nhưng anh thêm cho chúng tôi một gáo”. Bạch Thắng nói: “Giá tiền đã định rồi, không thêm được”. Nhân lúc Bạch Thắng nhận tiền, Lưu Đường mở nắp thùng rượu đầy, múc lấy một gáo uống. Anh chàng bán rượu vội vàng chạy đến giằng lấy, thì Lưu Đường đã uống hết một nửa rồi, còn một nửa trong gáo thì cầm chạy phăng sang bên rừng bên kia. Bạch Thắng lật đật chạy đuổi theo, thì Ngô Dụng lại chạy lại múc luôn một gáo làm bộ đưa lên miệng chuẩn bị uống. Bạch Thắng nhìn thấy, vội chạy lại giật lấy gáo rượu đổ vào thùng, đậy lại cẩn thận, rồi vứt gáo xuống đất, miệng nói lẩm bẩm: “Trong bộ mặt thì rõ là những người quân tử, vậy mà hành động chẳng giống người quân tử chút nào!”.
Đám quân của Dương Chí chứng kiến từ đầu tới cuối cảnh tượng này, thấy đám người kia uống rượu tới tấp thì trong bụng nóng ran như có kiến đốt, thèm rượu không tả nổi, liền cầu cứu Lão Đô Quản; Lão Đô Quản cũng cảm thấy thương tình, hơn nữa bụng cũng muốn uống, liền xin Dương Chí cho đám quân mua rượu uống. Dương Chí nghĩ thầm: “Bọn bán táo nó uống hết thùng rượu, cũng không việc gì, mà thùng kia, bọn chúng cũng đã uống nửa gáo rồi, có thấy sao đâu” thế là đồng ý. Đám quân liền quyên tiền mua rượu, lúc này Bạch Thắng nói: “Rượu này có thuốc mê, tôi không bán cho các anh đâu”. Đám quân lính nghe vậy thì làm bộ cười nịnh nói: “Người anh em nói như vậy làm gì”. Bạch Thắng nói: “Không bán đâu, đừng lôi thôi nữa”. Đám người Tiều Cái thấy vậy, bảo với Bạch Thắng rằng: “Anh là người hảo hán, vừa nãy cái anh kia (chỉ Dương Chí) nói liều thế thì mặc anh ta, anh chấp làm gì chứ? Chúng tôi đã uống một thùng, có việc gì đâu, thôi anh bán cho họ đi”. Bạch Thắng nói: “Không phải việc của các anh, các anh xía vào làm gì cho mệt?”. Đám người Tiều Cái nghe vậy tức mình đứng đậy, đẩy anh hàng rượu ra, rồi xách thùng rượu đưa cho đám quân Dương Chí uống. Đám quân mừng rỡ, vội mở nắp thùng rượu ra, nhưng không có thứ gì để múc rượu, bèn hỏi mượn đám Tiều Cái gáo dừa để uống. Đám Tiều Cái cho mượn gáo, lại còn cho thêm đám quân lính một ít táo để nhắm rượu. Đám quân lính hết lời cám ơn, đám Tiều Cái nói: “Chúng ta đều là khách đi đường cả, có gì đâu mà phải khách khí”. Đám quân lính đỡ lấy gáo, thay phiên nhau múc rượu uống, Dương Chí thấy đám quân uống không việc gì, cũng uống nửa gáo và cắn qua loa một vài miếng táo cho đỡ khát. Bạch Thắng nhận tiền, rồi quảy đôi thùng rỗng, hát nghêu ngao đi xuống dưới đồi.
Một lát sau thì đám người Dương Chí đau đầu chóng mặt, tay chân mềm nhũn, đổ vật xuống đất. Bọn Tiều Cái liền đổ hết táo xuống đất, rồi khuân 11 gánh lễ vật lên xe, đậy lại cẩn thận, rồi kéo xe xuống đồi. Đám Dương Chí trông thấy thế, tức giận vô cùng, song chân tay mềm rũ không thể làm gì được.
Ở đây, bảy người Tiều Cái và người gánh rượu Bạch Thắng đã diễn kịch trước mặt đám người Dương Chí, mục đích chính là làm mê hoặc Dương Chí, để đám người Dương Chí phán đoán sai, tin tưởng vào họ mà uống rượu có chứa thuốc độc. Có thể thấy, Ngô Dụng đã vận dụng thuật “phản ứng” để chiếm đoạt 11 gánh vàng bạc châu báu của Lương Trung Thư một cách dễ dàng mà không cần dùng tới sức.
Khổng Minh nghĩ kế bắt Trương Nhiệm
Trong phần “Quỷ Cốc Tử - Phản ứng” chỉ ra rằng: “Kỷ bất tiên định, mục nhân bất chính, sự dụng bất xảo, thị vị vong tình thất đạo”, có nghĩa là nếu bản thân không tự lập sách lược từ trước thì sẽ không thể đoán định đối phương một cách chính xác, làm việc mà không có kỹ xảo, sẽ bị gọi là “vong tình thất đạo” (quên đi tình cảm, mất đi đạo lý chính nghĩa). Chỉ có “biết mình biết người” mới có thể đạt tới trình độ cao nhất trong việc vận dụng thuật Phản ứng - Thiên thần. Thời Tam Quốc, Gia Cát Lượng chính là “cao thủ” vận dụng thuật Phản ứng.
Khổng Minh kinh hoàng khi nhận được tin Bàng Thống bị tướng Thục là Trương Nhiệm bắn chết, bèn tức tốc dẫn quân tới Tứ Xuyên báo thù. Khổng Minh cử Trương Phi đi trước mở đường. Trương Phi tới đâu quân Thục nghe tiếng đều quy thuận. Sau khi Trương Phi tới Lạc Thành thì gặp Lưu Bị ở đó. Lưu Bị và Trương Phi đã nhiều lần giao chiến với tướng giữ Lạc Thành là Trương Nhiệm, hai bên đều có thắng có bại, song Lạc Thành vẫn nằm trong tay của Trương Nhiệm.
Lúc này, Khổng Minh đã dẫn quân tới Lạc Thành, hỏi thăm tình hình Lạc Thành thì viên hàng tướng là Ngô Ý nói: “Tướng giữ thành Trương Nhiệm là người quận Thục, rất gan dạ mưu trí, không thể xem nhẹ”. Khổng Minh quyết định bắt Trương Nhiệm trước, sau đó mới tấn công Lạc Thành.
Phía Đông Lạc Thành có một chiếc cầu gọi là cầu “Kim Nhạn”. Khổng Minh cưỡi ngựa tới bên cầu, đi vòng quanh sông quan sát một lượt, rồi trở về doanh trại nói với Hoàng Trung và Ngụy Diên rằng: “Hai bên bờ sông cách cầu Kim Nhạn khoảng 5, 6 dặm về phía nam đều là các bụi lau sậy, có thể mai phục ở đó. Ngụy Diên dẫn 1000 tay cung mai phục bên trái, đối chọi với địch. Hoàng Trung dẫn 1000 tay đao mai phục bên phải, làm nhiệm vụ chém quân kỵ, làm rối loạn hàng ngũ giặc. Trương Nhiệm nhất định sẽ chạy trốn bằng con đường nhỏ ở phía đông nam. Trương Phi dẫn 1000 binh mã mai phục ở con đường ấy bắt sống Trương Nhiệm”, tiếp theo lại ra lệnh cho Triệu Vân mai phục ở phía bắc cầu Kim Nhạn: “Đợi tới khi dụ được Trượng Nhiệm thì phá sập cầu, sau đó dàn quân ở phía bắc cầu, khiến cho Trương Nhiệm không dám chạy lên phía bắc mà phải rút lui về phía nam, sa vào vòng mai phục của quân ta ở đó”. Phân công xong, Khổng Minh đích thân đi dụ địch.
Gia Cát Lượng
Gia Cát Lượng, tự Khổng Minh, hiệu Ngọa Long, là vị quân sư và đại thần của nước Thục thời hậu Hán. Ông là một chính trị gia, nhà quân sự, chiến lược, tản văn, ngoại giao kiệt xuất trong thời kỳ Tam Quốc. Gia Cát Lượng sinh ra trong một gia đình quan sử ở Dương Đô, Lang Nha vào niên hiệu Quang Hòa thứ 4 triều Hán Linh Đế. Họ Gia Cát là gia tộc có tiếng tăm ở Lang Nha, ông tổ Gia Cát Phong từng làm Tư lệ hiệu úy dưới thời Tây Hán Nguyên Đế. Bố của Gia Cát Lượng là Gia Cát Khuê, tự Quân Cống, từng làm quận thừa Thái Sơn cuối thời Đông Hán.
Trương Nhiệm biết tin Khổng Minh đến đánh thành, vội báo cho bọn Trương Dực giữ thành, còn mình và Trác Ưng lần lượt dẫn đội tiên phong và đội hậu vệ ra thành nghênh chiến. Khổng Minh dẫn một đội quân “xộc xệch” đối mặt với Trương Nhiệm ở cầu Kim Nhạn. Khổng Minh ngồi trên xe 4 bánh, đầu đội khăn lượt, tay phe phẩy quạt lông, hai bên có hơn 100 kỵ binh vây quanh, từ đằng xa chỉ vào Trương Nhiệm nói: “Tào Tháo có hàng chục vạn quân, nghe thấy tiếng tăm của ta còn sợ mà chuồn. Ngươi là ai mà dám không đầu hàng ta?”.
Trương Nhiệm thấy hàng ngũ của Khổng Minh lộn xộn cười khẩy nói: “Người ta nói Gia Cát Lượng dụng binh như thần, té ra là hữu danh vô thực. Nói xong vung giáo lên, dẫn quân xông về phía Khổng Minh. Khổng Minh vứt bỏ xe, nhảy lên ngựa chạy về phía cầu. Trương Nhiệm đuổi theo sau, vượt qua cầu Kim Nhạn. Ngay lúc này, chỉ nghe 1 tiếng hét lớn, Lưu Bị từ bên trái, Nghiêm Nhan từ bên phải cùng xông tới. Trương Nhiệm biết mình trúng kế vội vàng thu quân, thì thấy cầu Kim Nhạn đã bị đánh sập. Đang định rút lui về phía bắc, lại thấy Triệu Vân dẫn quân xông tới, thì không dám chạy theo hướng bắc nữa, đành phải chạy về hướng nam.
Đi chưa được mấy dặm thì tới nơi có bụi lau sậy, từ bên trái, quân của Ngụy Diên từ trong các bụi lau sậy nhảy ra, vung giáo đâm tới tấp về phía quân của Trương Nhiệm; phía bên phải, quân của Hoàng Trung cũng nhảy ra, dùng đao chém vào vó ngựa, quân của Trương Nhiệm lần lượt bị đánh ngã. Bộ binh thấy thế bất lợi, không dám tới nữa. Trương Nhiệm dẫn mấy chục kỵ binh chạy theo đường núi thì gặp Trương Phi đang đợi ở đó. Trương Nhiệm đang định tìm đường tẩu thoát, Trương Phi hét lớn. Toàn quân xông lên bắt sống Trương Nhiệm. Quân tướng của Trác Ưng thấy Trương Nhiệm bị bắt, cũng đã sớm đầu hàng Triệu Vân.
Trương Phi áp giải Trương Nhiệm tới lều của Lưu Bị. Khổng Minh đã ngồi sẵn ở đó rồi. Lưu Bị nói với Trương Nhiệm: “Các tướng Thục khác đều đã đầu hàng cả rồi, sao ngươi vẫn không chịu hàng?”. Trương Nhiệm giận dữ hét lớn: “Có trung thần nào mà lại thờ hai chủ không?”. Lưu Bị nói: “Chỉ có đầu hàng thì mới tránh được tội chết”. Trương Nhiệm lại đáp: “Hôm nay, ta có hàng thì sau này ta cũng sẽ làm phản thôi. Ngươi mau giết ta đi”. Lưu Bị và Khổng Minh đành để quân mang Trương Nhiệm đi chém, và cho Trương Nhiệm được vẹn toàn danh tiết. Lưu Bị cho người gói xác của Trương Nhiệm lại chôn ở cạnh cầu Kim Nhạn và biểu dương sự trung thành của anh ta.
Để có được mưu kế này, Gia Cát Lượng trước hết phải hiểu rõ tính cách của Trương Nhiệm, hơn nữa nắm bắt rõ đặc điểm địa hình nơi này, ông đã nghĩ ra mưu kế trong hoàn cảnh “biết mình biết người”. Trong quá trình dụ địch, Gia Cát Lượng đã dùng lời lẽ để trêu tức Trương Nhiệm, còn cố tình tạo ra đội quân thiếu chỉnh tề. Ông đã đoán trước được phản ứng của Trương Nhiệm sẽ là liều lĩnh xông lên. Và quả như Gia Cát Lượng dự đoán, Trương Nhiệm đã sập bẫy và bị bắt sống giải về.
Trương Nghi tới nước Sở, thật giả lẫn lộn
Trong phần “Quỷ Cốc Tử - Phản ứng” chỉ ra rằng: “Dục văn kỳ thanh, phản mặc; Dục trương, phản liễm; Dục cao, phản hạ; Dục thủ, phản dữ”, ý nói, muốn đối phương nói thì mình phải giữ im lặng, muốn đối phương cởi mở tấm lòng thì mình phải tỏ ý tiếp thu, muốn lên cao thì bản thân cần phải hạ thấp, muốn nhận được thì phải cho đi. Ở đây, chúng tôi chỉ đề cập tới ý “dục thủ, phản dữ”. Có rất nhiều cách “dục thủ, phản dữ” (muốn nhận thì phải cho đi), thời Chiến Quốc, nhờ nắm rõ bản tính tham lam của Sở Hoài Vương, Trương Nghi đã bày kế thật giả lẫn lộn, vừa phá vỡ liên minh Tề Sở, lại vừa chiếm được thành ấp của nước Sở.
Trương Nghi có tài ngoại giao, điều này ai ai cũng biết. Ông và Tô Tần là những nhà du thuyết rất nổi tiếng trong thời Chiến Quốc. Nghe nói, sau khi thu phục được hai nước láng giềng ở phía Đông là Ngụy và Hán thì nước Tần thực thi chính sách mở cửa, cho đi lại tự do về phía đông. Lúc này, ngoài nước Tần thì còn có hai nước lớn khác là Tề và Sở, hai nước này đã liên minh với nhau để cùng chống Tần. Do đó, có thể thấy, chia rẽ liên minh này là nhiệm vụ cấp thiết của nước Tần.
Năm 313 TCN, theo kế của Trương Nghi, Tần Huệ Văn Vương giả vờ bãi chức thừa tướng của Trương Nghi, để Trương Nghi ở chỗ Chu Noãn Vương hai năm, rồi làm ra vẻ bất mãn mà chạy tới nước Sở.
Trương Nghi
Trương Nghi là bạn thân của Tô Tần, nghe nói, ông là con cháu của quý tộc nước Ngụy thời Chiến Quốc. Ông cùng Tô Tần tới bái kiến Quỷ Cốc Tử xin được làm đồ đệ của Quỷ Cốc Tử, Sau khi Tô Tần sáng tạo nên thuật Hợp tung và đi du thuyết 6 nước Hợp tung chống Tần, thì Trương Nghi lại thực thi thuật Liên hoành, du thuyết 6 nước kết thân với Tần, để chống lại việc Hợp tung của Tô Tần.
Mặc dù nước Sở khi đó đất rộng, quân đông, song lại chỉ hùng mạnh ở vẻ bề ngoài, còn chế độ chính trị bên trong mục nát, Trương Nghi sớm đã nhận ra sự suy yếu của nước Sở. Sau khi tới nước Sở, Trương Nghi dùng nhiều vàng bạc để mua chuộc những người thân tín chung quanh Sở Hoài Vương, rồi nhờ những người này giới thiệu mình lên Sở Hoài Vương. Sở Hoài Vương nghe nói Trương Nghi là người tài giỏi, danh tiếng lẫy lừng nên đã tiếp đãi rất long trọng, còn khiêm nhường hỏi rằng: “Tiên sinh hạ cố tới đây, chắc có điều gì dạy bảo?”. Trước hết, Trương Nghi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Sở Hoài Vương, tiếp đến nịnh nọt, tâng bốc Sở Hoài Vương, rồi bắt đầu nói với giọng vô cùng tiếc nuối: “Tần vương sai tôi tới đây là để thiết lập quan hệ với nước Sở, nhưng tiếc quá, tôi tới muộn rồi”. Sở Hoài Vương xưa nay hễ nghe nói tới nước Tần đã sợ rồi, nay lại thấy Tần Vương chủ động sai người tới thiết lập quan hệ thì vô cùng ngạc nhiên, vội hỏi: “Sao lại muộn cơ chứ?”. Trương Nghi thở dài một tiếng nói: “Chẳng phải đại vương đã liên minh với vua Tề sao?”. Vua Sở sững lại giây lát rồi nói: “Sở dĩ nước Sở và nước Tề liên minh với nhau là để đề phòng nước khác tới tấn công lại mà thôi. Lẽ nào tiên sinh không cho rằng mối nguy hiểm này luôn rình rập?”. Trương Nghi chậm rãi nói: “Đương nhiên mối nguy này đang rình rập, hơn nữa nó sẽ càng nguy hiểm hơn do hai nước Sở và Tề liên minh với nhau. Rõ ràng, liên minh Tề Sở là để chống lại nước Tần. Vua Tần vốn kết giao rộng khắp, nay thấy có người cố ý coi mình là địch, thì chắc chắn sẽ rất tức giận, không chịu ngồi yên đâu”.
Trương Nghi quan sát thấy nét mặt đầy lo lắng cửa Sở Hoài Vương bèn nói tiếp: “Vua Tề xưa nay luôn nung nấu quyết tâm trừ khử vua Tần, ông ta liên mình với đại vương, chẳng qua chỉ là muốn lợi dụng đại vương mà thôi. Thử nghĩ xem, nếu hai nước Sở và Tần giao chiến thì vua Tề liệu có mang binh lính tới cứu nước Sở không? Chắc chắn là không rồi. Vua Tề sẽ ngồi đó nhìn hai nước đánh nhau, khi hai nước sức tàn lực kiệt thì sẽ đứng lên làm bá chủ. Đại vương thử nghĩ xem, tới khi đó nước Sở sẽ thế nào?” Sở Hoài Vương phút chốc trở nên mụ mị, không biết phải làm thế nào, bèn hỏi Trương Nghi: “Theo tiên sinh thì nên làm thế nào đây?”.
Trương Nghi nói: “Kỳ thực, vua Tần và tôi yêu quý nhất vua Sở và ghét nhất vua Tề. Nếu đại vương có thể tuyệt giao với nước Tề, không liên minh với nước Tề nữa thì Tần vương sẵn sàng tặng nước Sở 600 dặm thuộc vùng đất Thương Ư, còn gả con gái nước Tần cho con trai nước Sở, để hai nước ngày càng gắn bó hơn. Như vậy thì nước Sở sẽ làm nước Tề ở phía Bắc yếu đi, còn mạnh mẽ lên nhờ kết giao với nước Tần ở phía Tây, quả là vô cùng có lợi”. Sở Hoài Vương thấy lợi nên cười híp mắt, hoàn toàn không biết đây là mưu kế của Trương Nghi. Chỉ vui vẻ nói: “Được lắm, sẽ làm theo cách của ngươi”.
Nhà vua dương dương tự đắc, cho rằng sáu trăm dặm đất ở Thương Ư đã lọt vào tay của mình. Đại thần trong triều phần lớn đều là phường tầm thường, đều đến chúc mừng Sở Hoài Vương, chỉ riêng có mưu thần Trần Chẩn là cật lực phản đối chuyện đó. Trần Chẩn khuyên Sở Hoài Vương rằng: “Hiện nay, nước Tần sở dĩ coi trọng nước Sở, là do nước Sở đã liên minh với nước Tề. Nếu tuyệt giao với Tề, thì Sở sẽ bị cô lập, chẳng những có lỗi với Tề, mà cũng không còn được Tần coi trọng nữa. Lời nói của Trương Nghi là không đáng tin. Nếu làm theo Trương Nghi, thì nước Sở chắc chắn sẽ có lỗi với nước Tề. Như vậy, Tề và Tần sẽ cùng phát binh tấn công Sở. Hậu quả sẽ khó lường. Theo ý thần thì bề ngoài ta vẫn làm như cắt đứt quan hệ với nước Tề, song bên trong vẫn ngấm ngầm hợp tác, đồng thời cho người đi theo Trương Nghi về nước Tần. Nếu quả thực vua Tần giao đất Thương Ư cho chúng ta thì lúc đó cắt đứt quan hệ với nước Tề cũng chưa muộn.”
Sở Hoài Vương do hám lợi nên mất trí khôn, hoàn toàn không nghe lọt tai ý kiến đúng đắn của Trần Chẩn, chỉ nói rằng: “Ngươi đừng nhiều lời nữa, hãy ngồi xem 600 dặm đất Thương Ư lọt vào tay ta thế nào”. Trần Chẩn chỉ biết thở dài, không biết phải khuyên can thế nào nữa.
Sở Hoài Vương sợ Trương Nghi đổi ý, mất đi cơ hội tốt này nên đã trọng thưởng hậu hĩnh Trương Nghi, còn lập tức phát đi thông báo, nước Sở cắt đứt quan hệ với nước Tề. Sau đó phái tướng quân Phùng Sửu Phu theo Trương Nghi sang Tần để nhận lại số đất do Tần chiếm được trước kia.
Sở Hoài Vương
Sở Hoài Vương, vốn tên là Mễ Hòe, con trai của Sở Uy Vương, là một vị vua đa tình, ngu dốt trong việc trị nước, trọng dụng gian thần Lệnh Doãn Tử Lan, Thượng quan đại phu Ngận Thượng, sủng ái Nam Hậu Trịnh Tụ, bài xích Tả đồ Khuất Nguyên, do đó dưới thời kỳ Sở Hoài Vương trị vì, chính sự ngày thêm mục nát. Về mặt ngoại giao, Sở Hoài Vương không có chính kiến gì của riêng mình, lúc thì theo Tề, lúc thì theo Tần. Năm 299 TCN, vua Tần tiến đánh nước Sở chiếm được 8 thành quách, Sở Hoài Vương bị bắt giam, cuối cùng chết ở nước Tần.
Nào ngờ Trương Nghi sau khi trở lại nước Tần, thì giả vờ say rượu ngã xe, bị gẫy chân, rồi cáo bệnh ba tháng nằm ở nhà, Phùng Sửu Phu đợi mãi vẫn chưa nhận được đất. Thế là, Phùng Sửu Phu gửi thư lên vua Tần, nhắc lại lời hứa trước. Vua Tần nói: “Nếu đúng có lời hứa thật thì phải đợi khi nào Tề và Sở tuyệt giao thì mới giao đất”. Phùng Sửu Phu không biết làm thế nào, đành phải cho người về bẩm báo lại với Sở Hoài Vương, Sở Hoài Vương cho rằng do Tần còn hoài nghi Sở chưa có thái độ tuyệt giao hẳn với Tề nên phái ngay một dũng sĩ tới Tề mắng chửi, nhục mạ Tề. Tề Tuyên Vương thấy vậy vô cùng tức giận, quyết phải phục thù mối nhục này. Tuy nhiên, Tề Tuyên Vương hiểu rõ rằng, nếu chỉ dựa vào sức mạnh của nước Tề thì sẽ không thể chiến thắng nổi nước Sở. Dù không hề muốn liên minh với nước Tần, nhưng Tề Tuyên Vương không còn sự lựa chọn nào khác. Nhà vua hiểu rằng, muốn đánh thắng nước Sở thì trước hết phải thiết lập quan hệ với nước Tần, cùng nước Tần liên minh đánh nước Sở.
Chờ cho Tề và Sở cắt đứt hẳn quan hệ thì Trương Nghi mới trở lại làm việc. Ông nói với Phùng Sửu Phu lúc này đang rất nóng ruột rằng: “Sao ngươi còn đứng ở đây mãi thế, không đi nhận đất à?”. Phùng Sửu Phu mừng rỡ nói: “Đất ở đâu?”. Trương Nghi làm ra vẻ ngạc nhiên nói: “Ta được tặng 6 dặm đất thành ấp, chẳng phải đã tặng cho vua Sở rồi sao?”. Phùng Sửu Phu bất ngờ, choáng váng, song vẫn cố cãi lý: “Tôi vâng mệnh vua Sở, tới đây lấy 600 dặm đất Thương Ư mà vua Tần đã hứa trao cho vua Sở, chuyện mới xảy ra trong vòng 3 tháng, làm sao lại có thể là 6 dặm đất thành ấp được chứ?”.
Trương Nghi vẫn thản nhiên nói: “Thế thì vua Sở của ngươi nghe sai rồi. Ta nói là sẽ tặng vua Sở 6 dặm đất mà ta được tặng. Chứ làm gì có chuyện vua Tần tặng đất cho người khác, 60 dặm còn khó nữa là 600 dặm”.
Lúc này, Phùng Sửu Phu mới biết là bị lừa, song chẳng biết làm thế nào, chỉ còn biết quay về báo lại mọi việc với vua Sở. Lúc này, Sở Hoài Vương mới bừng tỉnh giấc mộng 600 dặm đất, biết rằng mình đã bị Trương Nghi lừa. Sở Hoài Vương tức giận vô cùng, xuống lệnh cắt đứt quan hệ với Tần, và lập tức phát binh đi đánh Tần. Lúc bây giờ Trần Chẩn lại ra mặt khuyên ngăn, cho rằng lúc này xuất binh đánh Tần, chắc chắn sẽ bị bại trận. Nhưng Sở Hoài Vương vẫn làm theo ý mình, tiếp tục tiến binh. Kết quả quân Tần và quân Sở giao chiến tại Đơn Dương, quân Sở đại bại, hơn tám vạn binh sĩ bị giết hại, đại tướng nước Sở là Khuất Cái, cùng với hơn bảy mươi người khác bị bắt làm tù binh, quận Hán Trung bị quân Tần chiếm lĩnh. Sau khi thất thủ Đan Dương, Hán Trung, Sở Hoài Vương vừa xấu hổ, vừa tức giận, lại tiếp tục điều động binh lực toàn quốc, thọc sâu vào tận Lam Điền của nước Tần, quyết chiến với quân chủ lực của Tần tại đây, song lại thất bại. Hai nước Hán và Ngụy cũng nhân lúc này tấn công phía nam nước Sở. Thất bại liên tiếp, nước Sở không còn sức lực để chống đỡ, đành phải nhượng lại hai thành ấp, và ngậm bồ hòn làm ngọt giảng hòa với nước Tần.
Chỉ một chuyến đi tới nước Sở mà Trương Nghi đã giúp Vua Tần giải được mối lo (liên minh Tề Sở) canh cánh trong lòng mà không hề tốn chút sức lực nào, hơn nữa còn giúp vua Tần nhân cơ hội này chiếm đoạt được thành ấp của nước Sở.
Cách Trương Nghi du thuyết vua Sở chính là lợi dụng tâm lý tham lam của vua Sở, nói là sẽ nhượng lại 600 dặm đất cho nước Sở, song lại nuốt lời, mặc dù cách làm này không hợp đạo người quân tử, song lại có thể phá vỡ một cách hiệu quả liên minh Tề Sở, khiến vua Tần ngồi không mà hưởng lợi. Xem ra muốn có được lợi từ đối phương thì trước hết phải cho đi lợi ích của mình, dù cho cuối cùng sự cho đi này là thật hay giả thì bạn vẫn sẽ nhận được cái mà mình muốn. Cho trước nhận sau quả là rất hiệu nghiệm trong trường hợp trên.
Triệu Cao lập mưu thành công nhờ vào tài ăn nói
Năm 210 TCN, sau khi thống nhất đất nước, Tần Thủy Hoàng tiến hành hoạt động đi tuần thú lần thứ 5 của mình, đi cùng vua Tần còn có thừa tướng Lý Tư, trung xa phủ lệnh Triệu Cao và các quan quân khác.
Lý Tư là một trong những thừa tướng nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, thời niên thiếu từng là học trò của Tuân Tử, học cách giúp vua trị quốc, khi từ biệt sư phụ Tuân Tử lên đường sang nước Tần lập nghiệp, ông đã nói với thầy rằng: “Con nghe nói cơ hội đến thì phải nắm lấy, nhất thiết không được bỏ lỡ. Hiện đang là thời kỳ rối ren, loạn lạc, chỉ có đi tới các nước, gặp gỡ các vua để thuyết trình chủ trương của mình thì mới có thể thực thi cách trị quốc đã được học. Con nghe nói vua Tần đang muốn thôn tính các nước để thống nhất thiên hạ, đây cũng chính là mong muốn của con và của dân chúng, con thiết nghĩ đây chính là cơ hội không thể bỏ qua. Con sắp tới phía Tây, bái kiến Tần vương để thực hiện mong ước của mình”.
Tần Thủy Hoàng
Tần Thủy Hoàng họ Doanh, tên Chính, là con trai của Tần Trang Tương Vương (có thuyết cho rằng ông là con của Lã Bất Vi), ông lên ngôi năm 13 tuổi, 39 tuổi xưng đế. Tần Thủy Hoàng là nhà quân sự, nhà chính trị, thống soái kiệt xuất trong lịch sử Trung Quốc. Từ năm 230 TCN tới năm 221 TCN, ông lần lượt tiêu diệt sáu nước Hàn, Ngụy, Sở, Yên, Triệu, Tề và thành lập nên đế quốc Trung Hoa rộng lớn đa dân tộc đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc - triều Tần.
Sau khi chào tạm biệt Tuân Tử, Lý Tư tới nước Tần. Tới đây, trước hết ông xin làm môn hạ của thừa tướng Lã Bất Vi, và rất được Lã Bất Vi yêu quý, sau ông được bổ nhiệm làm Thị lang của Tần vương, từ đó bắt đầu làm mưa gió trên vũ đài chính trị. Trái ngược với Lý Tư, thân thế của Triệu Cao lại vô cùng phức tạp, mang trong mình dòng máu quý tộc nước Triệu, cha mẹ của ông vốn là tù binh của nước Tần trong cuộc chiến vua Tần thống nhất thiên hạ, cha ông phải chịu cung hình (thiến) tại nước Tần, còn mẹ ông làm nô tỳ trong cung, anh em Triệu Cao đều là những đứa con hoang, sinh ra đã làm nô tỳ. Có thể nói, Triệu Cao xuất thân hèn kém, bị mọi người coi thường. Sau này, Tần Thủy Hoàng nghe nói Triệu Cao khỏe mạnh lực lưỡng, hơn nữa tinh thông “ngục pháp” nên đã cất nhắc ông làm trung xa phủ lệnh, tức chức Thái giám quản lý chuyên quản lý xe cộ trong nội cung và giữ ấn tín, sách vở. Tần Thủy Hoàng còn cho Triệu Cao dạy pháp luật cho con trai nhỏ của mình là Hồ Hợi. Mỗi khi Tần Thủy Hoàng đi tuần thú thì Triệu Cao có nhiệm vụ truyền đạt mệnh lệnh của vua. Mặc dù công việc không có gì nhiều, nhưng vô cùng quan trọng và cần thiết.
Lý Tư
Lý Tư là người Thượng Sái nước Sở, là thừa tướng dưới thời Tần Thủy Hoàng. Ông là người có công lớn trong sự nghiệp thống nhất đất nước của Tần Thủy Hoàng. Thuở nhỏ, ông từng là học trò của Tuân Tử, học về thuật đế vương và đạo trị quốc. Năm 210 TCN, sau khi Tần Thủy Hoàng chết, vì để bảo toàn lợi ích của mình, Lý Tư đã cùng Triệu Cao lập chiếu thư giả, lập con trai nhỏ của Tần Thủy Hoàng là Hồ Hợi lên làm hoàng đế. Sau này, Triệu Cao vu cho Lý Tư làm phản, xử tru di tam tộc, ông và họ hàng bị xử chém, bêu đầu tại cổng thành.
Trong một chuyến tuần thú, do trên đường đi lao lực nên tới Bình Nguyên thì Tần Thủy Hoàng đổ bệnh. Triệu Cao phụng mệnh viết di chiếu, trong di chiếu, Tần Thủy Hoàng có dặn con trai trưởng là Giám quân Hà Thao Phù Tô “mau về chôn cha ở Hàm Dương”, thư đã viết xong, chưa kịp gửi thì Tần Thủy Hoàng đã chết ở Hành cung Sa Khâu. Thừa tướng Lý Tư thấy Tần Thủy Hoàng chết ở bên ngoài cung, hai con trai thì một đang là Giám quân bên ngoài và một đang đi tuần thú cùng Tần Thủy Hoàng, do đó chưa vội lập thái tử, để ổn định chính cục, Lý Tư quyết định chưa vội phát tang ra ngoài, mà coi như không có chuyện gì xảy ra, chuyện này chỉ có 5, 6 người biết.
Triệu Cao giữ lại bức thư và ngọc tỷ mà Tần Th?