← Quay lại trang sách

PHẦN 12 PHÙ NGÔN Nguyên văn

An từ chính tĩnh, (1) kỳ bị tiết vô bất nhục. Thiện dữ nhi bất tĩnh, (2) hư tâm bình ý, (3) dĩ đãi khuynh tổn. (4) Hữu chủ vị.

Chú thích

1. An từ chính tĩnh: An hòa, thung dung, chính trực, trầm tĩnh. Dùng để chỉ việc tu dưỡng của con người.

2. Thiện dữ nhi bất tĩnh: Đối với thần dân tỏ ra thân thiện, nhưng xã hội vẫn không được thanh bình.

3. Hư tâm bất ý: Khiến cho tâm ý bình tĩnh trở lại.

4. Dĩ đãi khuynh tổn: Để phòng bị sự sụp đổ và tổn hại. Khuynh tổn, bại hoại.

Dịch nghĩa

Nhà vua nếu có thể đạt đến mức an hòa, thung dung, chính trực, trầm tĩnh thì rõ ràng đã có được sự đức hạnh và lương thiện, có được phong độ của người quân chủ. Nếu nhà vua có thể đối xử thân thiện với thần dân, nhưng xã hội vẫn không được thanh bình thì phải để cho tâm ý của bản thân được bình tĩnh trở lại, dùng thái độ này để phòng bị sự sụp đổ và tổn hại. Phần trên hướng dẫn cho nhà vua làm thế nào để được yên ổn trên ngôi vị.

Phù ngôn, là chỉ lời nói và sự thực hoàn toàn phù hợp giống như phù khế (vật làm tin) thời xưa. Tứ khố từng nói: “Phù ngôn giả, sủy ma chi sở quy dã. Bài hạp chi sở thủ dã, thiên thánh chi sở tông dã. Như phù nhiên, cố viết phù ngôn”. Phần này thực ra được dùng để dâng tặng nhà vua, chỉ dẫn cho nhà vua thuật tu dưỡng để trị quốc bình thiên hạ. Nó được chia làm chín phương diện, đó là: Làm thế nào để duy trì và bảo vệ ngôi vua, làm thế nào để tra xét rõ ràng, làm thế nào để nghe và lấy ý kiến, làm thế nào để thi hành thưởng phạt, làm thế nào để tìm hiểu và nghe ngóng tình hình, làm thế nào để quản lý quan lại, sứ thần trong từng tình thế khác nhau, làm thế nào để hiểu biết mọi việc được chu toàn, làm thế nào để nghiệm chứng được mọi việc một cách sáng suốt, làm thế nào để nắm bắt được tình hình. Đây là sách lược an dân trị quốc trong cuốn “Quỷ Cốc Tử”.

Nguyên văn

Mục quý minh, nhĩ quý thông, (1) tâm quý trí. Dĩ thiên hạ chi mục thị giả, (2) tắc vô bất kiến; Dĩ thiên hạ chi nhĩ thính giả, tắc vô bất văn; Dĩ thiên hạ chi tâm lự giả, tắc vô bất tri. Bức tấu (3) tính tiến, tắc minh bất khả sát. Hữu chủ minh. (4)

Chú thích

1. Minh: Sáng rõ, thị lực tốt. Thông: nhạy bén, thính lực tốt.

2. Dĩ thiên hạ chi mục thị giả: Dựa vào đôi mắt của người thiên hạ để quan sát. Thiên hạ chi mục, có nghĩa là nhà vua phải biết nhìn xa trông rộng, như vậy mới có thể quan sát rõ ràng, tường tận.

3. Bức tấu: Trông giống như những chiếc nan hoa tập trung vào phần giữa của bánh xe.

4. Minh: Xem xét rõ ràng.

Dịch nghĩa

Đôi mắt quan trọng nhất là cần sáng tỏ, đôi tai quan trọng nhất là cần thính nhạy, tâm trí quan trọng nhất là cần thông minh. Nhà vua dùng đôi mắt của thiên hạ để quan sát, như vậy thì không có gì là không thể nhìn thấy được; dùng đôi tai của thiên hạ để nghe, như vậy thì không có gì là không nghe được; Dùng tâm tư của người thiên hạ để suy nghĩ thì không có gì là không biết. Nếu nhân tâm tụ hợp, giống như những chiếc nan hoa đều tập trung hướng vào trung tâm bánh xe, vậy thì đôi mắt của nhà vua sẽ không bị mê muội. Phần trên hướng dẫn cho nhà vua cách suy xét rõ ràng.

“An từ chính tĩnh, kỳ bị tiết tiên nhục. Thiện dữ nhi bất tĩnh, hư tâm bình ý, dĩ đãi khuynh tổn”. Đối với nhà vua mà nói, muốn duy trì được nền thống trị của bản thân thì trước tiên phải biết khéo léo điều tiết tâm thái của bản thân. Yên tĩnh để có thể nhìn xa, vô tư để có thể sáng suốt. Tâm bình ý tĩnh thì mới có thể đối phó tốt hơn với các nguy cơ đang xuất hiện. Có thể thấy rằng, một tâm lý tốt là tố chất vô cùng quan trọng đối với nhà vua để xử lý sự việc một cách bình ổn.

Nguyên văn

Đức chi thuật (1) viết: Vật kiên nhi cự chi. (2) Hứa chi tắc phòng thủ, (3) cự chi tắc bế sát. (4) Cao sơn ngưỡng (5) chi khả cực, (6) thâm uyên độ chi khả trắc. (7) Thần minh chi vị thuật chính tĩnh, (8) kỳ mạc chi cực dư. (9) Hữu chủ đức.

Chú thích

1. Đức chi thuật: chữ “đức” ở đây đáng lẽ phải là chữ “thính” (nghe). Câu này có nghĩa là phương pháp tiếp nhận lời góp ý. Chúng tôi đồng ý với giả thuyết này.

2. Vật kiên nhi cự chi: Không được giữ ý kiến của mình một cách bảo thủ, từ chối lắng nghe những lời góp ý.

3. Hứa chi tắc phòng thủ: Tiếp nhận lời góp ý nhưng cũng muốn có một sự phòng thủ nhất định.

4. Cự chi tắc bế sát: Từ chối lắng nghe lời góp ý sẽ làm cho tai, mắt như bị bịt chặt, làm trở ngại tới việc nghe, nhìn của nhà vua.

5. Ngưỡng: Ngước nhìn.

6. Khả cực: Có thể nhìn thấy đỉnh điểm.

7. Khả tắc: Có thể ước lượng độ nông sâu.

8. Thần minh chi vị thuật chính tĩnh: Phương pháp xử sự của người sáng suốt là điềm tĩnh, không để lộ tâm tư.

9. Kỳ mạc chi cực dư: Khiến người khác không thể nắm chắc tình hình.

Dịch nghĩa

Phương pháp tiếp nhận lời góp ý là: Không được giữ ý kiến của mình một cách bảo thủ mà từ chối lắng nghe những lời góp ý. Nên tiếp nhận lời góp ý của người khác nhưng cũng cần có sự phòng thủ nhất định, còn nếu từ chối nghe lời góp ý của người khác thì sẽ khiến cho tai, mắt như bị bịt chặt, gây trở ngại đến việc nghe, nhìn. Ngước nhìn núi cao sẽ có thể nhìn thấy đỉnh núi; Nhìn xuống dưới đáy vực thẳm có thể ước lượng độ nông sâu. Thánh nhân (người sáng suốt) xử sự thường điềm tĩnh, không để lộ tâm tư, khiến người khác không thể nắm bắt tình hình. Phần trên hướng dẫn nhà vua cách tiếp thu lời góp ý.

Biết cách tiếp nhận lời can gián và biết cách can gián chính xác cũng là một biểu hiện trong năng lực thống trị của nhà vua. “Vật kiên nhi cự chi, hứa chi tắc phòng thủy cự chi tắc bế sát”. Phải mở rộng cánh cửa đón nhận những ý kiến đóng góp, nhưng cũng phải phân biệt được mức độ đúng sai của những lời can gián. Điều quan trọng nhất là không được từ chối những lời can gián, từ chối lắng nghe ý kiến chỉ có thể gây trở ngại cho việc nghe, nhìn của bản thân, từ đó dẩn đến phát sinh nhiều hơn những sai lầm. Nếu nhà vua có thể trở thành nhân tài biết cách thu nạp lời can gián thì sẽ thực sự xứng đáng được dân chúng yêu thích.

Nguyên văn

Dùng thưởng quý tín, dùng hình quý chính. Thưởng tứ quý tín, tất nghiệm nhĩ mục chi sở văn kiến, kỳ sở bất văn kiến giả, mạc bất ám hóa (1) hĩ. Thành (2) sướng vu thiên hạ thần minh, nhi huống gian giả can (3) quân? Hữu chủ thưởng.

Chú thích

1. Ám hóa: Tức chuyển hóa ngấm ngầm, chịu ảnh hưởng một cách vô thức mà dẫn đến thay đổi.

2. Thành: Chân thành, rất chân thành.

3. Can: Mạo phạm.

Dịch nghĩa

Điều quan trọng nhất trong ban thưởng là phải giữ chữ tín, điều quan trọng nhất trong sử dụng hình phạt là phải công bằng. Ban thưởng phải giữ chữ tín, hình phạt phải công bằng, điều này phải bắt đầu ngay từ những người thường xuyên tiếp xúc với nhà vua, như vậy với có tác động thay đổi một cách ngấm ngầm cho những người không được mắt thấy tai nghe. Sự chân thành của nhà vua nếu có thể thấu suốt đến thiên hạ thì sẽ có được sự bảo vệ của cả các vị thần, còn lo sợ gì sự mạo phạm của những kẻ gian tà? Phần trên dạy cho nhà vua phải giữ chữ tín trong thưởng phạt.

“Dụng thưởng quý tín, dụng hình quý chính” việc ban thưởng đối với thần dân quý ở chỗ giữ được chữ tín; còn việc trừng phạt quan trọng nhất lại ở sự công bằng, vô tư. Đối với nhà vua, việc thưởng phạt xem ra có vẻ đơn giản, nhưng để làm được hai việc này là điều rất khó. Chỉ khi làm được hai việc này thì mới có được uy tín trước thần dân, mới có thể giáo hóa và khích lệ nhân dân.

Nguyên văn

Nhất viết thiên chi, nhị viết địa chi, tam viết nhân chi. (1) Tứ phương thương hạ, tả hữu tiền hậu, huỳnh hoặc (2) chi xứ an tại? Hữu chủ vấn.

Chú thích

1. Câu văn này chỉ về phạm vi mà nhà vua tìm hiểu, bao gồm trên trời, dưới đất và nhân gian.

2. Huỳnh hoặc: Có ý là mông muội, mê hoặc.

Dịch nghĩa

Nhà vua thứ nhất nên biết về Thiên thời, thứ hai nên biết về Địa lợi, thứ ba nên biết về Nhân hòa. Cần phải hiểu biết rõ ràng về sự việc ở các phương trên dưới, trước sau, trái phải, như vậy thì làm sao có thể xảy ra những chuyện mông muội, mê hoặc đây? Phần trên dạy cho nhà vua biết tìm hiểu trên nhiều phương diện.

Nguyên văn

Tâm vi cửu khiếu (1) chi trị, (2) quân vi ngũ quan (3) chi trưởng. Vi thiện giả, quân dữ chi thưởng; vi phi giả, quân dữ chi phạt. Quân nhân kỳ chính chi sở dĩ cầu, nhân dữ chi, tắc bất lao. (4) Thánh nhân dụng chi, cố năng thưởng chi. Nhân chi tuần lý, cố năng trường cửu. Hữu chủ nhân. (5)

Chú thích

1. Cửu khiếu: Khiếu là lỗ nhỏ để không khí ra vào. Trên cơ thể con người có tổng cộng chín khiếu (lỗ) nhỏ, đó là miệng, hai tai, hai mắt, hai lỗ mũi, lỗ tiểu tiện, lỗ đại tiện, nhưng người ta thường bỏ đi lỗ tiểu tiện và lỗ đại tiện nên còn bảy khiếu.

2. Trị: Thống lĩnh.

3. Ngũ quan: Thời cổ đại có năm loại quan chức quan trọng, đó là: tư đồ, tư mã, tư không, tư sĩ, tư khấu. Sau từ này dùng để phiếm chỉ các quan.

4. Quân nhân kỳ chính chi sở dĩ cầu: ý nói nhà vua phải căn cứ vào những thành tựu trong lĩnh vực chính trị của thần dân để bổ nhiệm sử dụng, suy xét tình hình thực tế để ban thưởng, như vậy thần dân mới không còn cảm thấy quá mệt nhọc. “Nhân” nghĩa là thuận theo. “Cầu” là nhu cầu về mặt tâm lý. “Lao” là khó khăn, lo lắng.

5. Chủ nhân: Chỉ việc biết cách thuận theo, tôn trọng nhu cầu tâm lý của đối phương.

Dịch nghĩa

Tim là cơ quan thống trị chín khiếu trong cơ thể con người, nhà vua là người đứng đầu của bách quan. Đối với những thần dân làm việc tốt, nhà vua có thể ban thưởng cho họ; Đối với những thần dân làm việc xấu, nhà vua có thể trừng phạt họ. Nhà vua căn cứ vào những thành tích về chính trị của thần dân để bổ nhiệm sử dụng, suy xét tình hình thực tế để ban thưởng, như vậy thần dân mới không còn cảm thấy quá mệt nhọc. Người sáng suốt biết vận dụng thưởng phạt để khống chế người khác, đồng thời phải tuân thủ các quy luật khách quan hoặc phép tắc, như vậy mới có thể duy trì sự thống trị lâu dài. Phần trên giảng giải cho nhà vua về vấn đề tuân theo quy luật và đạo lý cũng như khống chế thần dân.

Nguyên văn

Nhân chủ bất khả bất chu, (1) nhân chủ bất chu, tắc quần thần sinh loạn. Tịch hồ kỳ vô thường dã, (2) nội ngoại bất thông, an chi sở khai? Khai bế bất thiện, bất kiến nguyên (3) dã. Hữu chủ chu. (4)

Chú thích

1. Chu: Chu đáo, kín kẽ, chỉ suy nghĩ về một vấn đề một cách toàn diện mà không phiến diện.

2. Tịch hồ kỳ vô thường dã: Mọi sự vật đều đang ngấm ngầm thay đổi không ngừng.

3. Bất kiến nguyên: Không thể thông hiểu đạo lý của sự việc, phát hiện căn nguyên.

4. Chủ chu: Ý nói biết cách suy nghĩ một cách toàn diện, tìm hiểu mọi việc một cách chu toàn.

Dịch nghĩa

Nhà vua suy nghĩ sự việc không thể không chu toàn, nếu không chu toàn, quần thần sẽ phát sinh náo loạn. Mọi sự vật đều ngấm ngầm thay đổi không ngừng, nếu trong ngoài không thông, làm sao có thể hiểu biết về những thay đổi này? Nếu không biết đóng mở đúng lúc thì không thể thông hiểu được đạo lý sự việc, phát hiện căn nguyên. Phần trên giảng cho nhà vua cách thông hiểu đạo lý sự việc, suy nghĩ chu toàn.

“Nhân chủ bất khả bất chu…nội ngoại bất thống, an tri sở khai? Khai bế bất thiện, bất kiến nguyên dã”. Đoạn văn trên chỉ ra rằng Nhà vua suy xét sự việc cần phải chu toàn, nghiêm ngặt. Nếu không chu toàn sẽ làm phát sinh náo loạn trong quần thần. Mọi sự việc đều đang tự ngầm thay đổi không ngừng. Nếu trong ngoài không thông thì sao có thể hiểu biết được sự thay đổi đó đây? Việc “mở” và “đóng” nếu không được vận dụng một cách thích hợp thì sẽ không thể phát hiện được sự bắt đầu và căn nguyên của sự vật. Đã là nhà vua thì tối kỵ suy nghĩ không chu toàn.

Nguyên văn

Nhất viết trường mục, (1) nhị viết phi nhĩ, (2) tam viết thụ minh. (3) Minh tri thiên lý chi ngoại, ẩn vi (4) chi trung, thị vị động (5) thiên hạ gian, mạc bất ám biến canh. (6) Hữu chủ cung.

Chú thích

1. Trường mục: Mắt nhìn xa

2. Phi nhĩ: Tai nghe xa

3. Thụ minh: Có thể tra xét rõ ràng đến từng sợi tơ kẽ tóc.

4. Ẩn vi: Những sự việc vi tế như có như không.

5. Động: Đi sâu quan sát tường tận.

6. Mạc bất ám biến canh: Không ai không tự ngầm thay đổi.

Dịch nghĩa

Nhà vua trước hết phải biết nhìn xa trông rộng, thứ hai phải biết nghe tin từ xa, thứ ba phải biết tra xét sự việc rõ ràng đến từng sợi tơ kẽ tóc. Có thể hiểu được những việc xa ngoài ngàn dặm, có thể thấy được những việc ẩn vi, như vậy được gọi là quan sát tường tận, tỉ mỉ. Nhà vua biết quan sát tường tận, tỉ mỉ thì sẽ không còn kẻ gian tà nào trong thiên hạ không tự động thay đổi hành vi sai trái của bản thân. Phần trên giảng cho nhà vua cách thu thập thông tin, nhìn thấu gian tà.

Nguyên văn

Tuần danh nhi vi, (1) thực an nhi hoàn. (2) Danh thực tương sinh, phản tương vi tình. (3) Cố viết: Danh đáng (4) tắc sinh vu thực, thực sinh vu lý, (5) lý sinh vu danh thực chi đức, (6) đức sinh vu hòa, (7) hòa sinh vu đáng. Hữu chủ danh.

Chú thích

1. Tuần danh nhi vi: Tùy theo tình hình mà làm.

2. Thực an nhi hoàn: Thực ra là an toàn mà hoàn hảo.

3. Danh thực tương sinh, phản tương vi tình: Danh và thực nương tựa lẫn nhau, sinh thành lẫn nhau, hơn nữa còn hợp tình hợp lý.

4. Danh đáng: Danh phận phù hợp.

5. Lý: Đạo lý.

6. Đức: Đạo đức.

7. Hòa: Hài hòa.

Dịch nghĩa

Tùy theo danh phận để làm việc thực ra là rất an toàn mà hoàn hảo. Danh và thực nương tựa lẫn nhau, sinh thành lẫn nhau, hơn nữa còn hợp tình hợp lý. Vì vậy mới nói, danh phận phù hợp là tình hình nảy sinh từ thực tại, mà thực tại lại nảy sinh từ đạo lý, đạo lý nảy sinh từ trong đạo đức mà danh thực hòa hợp với nhau, đạo đức lại nảy sinh từ sự hòa hợp, sự hòa hợp nảy sinh từ sự thích đáng. Phần trên giảng cho nhà vua cách nắm bắt tình hình.

ĐIỂN CỐ MƯU LƯỢC

Hán Thiệu Đế suy xét thị phi, tin dùng Hoắc Quang

Không tin lời sàm tấu, không nghe lời phỉ báng là biểu hiện của sự dẹp bỏ lòng nghi ngờ của bản thân và tín nhiệm người khác. Hán Thiệu Đế thông minh, sáng suốt và trí tuệ là người biết phân tích một cách tinh tường, suy nghĩ một cách điềm tĩnh, biết suy xét thị phi, khiến cho âm mưu của những kẻ muốn phỉ báng Hoắc Quang phải nếm mùi thất bại.

Khi Hán Vũ Đế qua đời, Hán Thiệu Đế chưa được 8 tuổi, vẩn còn là một đứa trẻ. Hán Vũ Đế không yên tâm nên đã gửi ấu chúa cho bốn cận thần là Hoắc Quang, Thượng Quan Kiệt, Tang Hoằng Dương và công chúa Cái Trưởng. Trong bốn người đó, Hoắc Quang là đại tư mã, đại tướng quân, có địa vị cao nhất, nắm quyền lớn trong triều đình.

Hoắc Quang luôn ở bên cạnh và hết sức trung thành với Hán Thiệu Đế, xử lý mọi công việc của đất nước một cách gọn gàng, chỉn chu, vì vậy uy tín ngày càng được nâng cao. Nhưng Hoắc Quang là người ngay thẳng, chính trực, khi làm việc thì không biết giữ thể diện cho người khác, vì vậy đã đắc tội với một số người như Thương Quan Kiệt, Tang Hoằng Dương và công chúa Cái Trưởng (chị cả của Hán Thiệu Đế). Những người này vốn đã đố kỵ với Hoắc Quang, khi đó, vì quyền lợi cá nhân không được thỏa mãn nên càng căm hận ông. Cũng vào lúc đó, Hán Vương Lưu Đan (anh trai của Hán Thiệu Đế) vì âm mưu giành ngôi vị không thành nên cũng vô cùng bất mãn với Hoắc Quang, một số người trong đó có Thượng Quan Kiệt đã cấu kết với Hán Vương Lưu Đan để bày mưu tính kế trừ khử Hoắc Quang.

Khi Hán Thiệu Đế 14 tuổi, nhóm người Thượng Quan Kiệt nhân cơ hội triều đình cho Hoắc Quang nghỉ phép, đã giả viết một bức thư của Lưu Đan, cho người mạo xưng là sứ giả của Lưu Đan đem thư tới giao tận tay Hán Thiệu Đế. Hán Thiệu Đế nhận bức thư, thấy trên đó có viết: “Hoắc Quang ra ngoài kiểm tra Vũ Lâm quân, tự ý dùng nghi trượng riêng của nhà vua, ăn những loại thức ăn mà chỉ có nhà vua mới được hưởng thụ, không tuân thủ phép tắc triều đình, ngang ngược, huênh hoang, chưa được phép của triều đình đã tự ý điều động thêm quan võ cho phủ tướng quân, như vậy rõ ràng là độc đoán, chuyên quyền, thật là không còn coi nhà vua ra gì. Thần lo hắn có âm mưu, gây bất lợi cho nhà vua. Nên nguyện từ bỏ Vương vị, vào cung để bảo vệ nhà vua, đề phòng kẻ gian thần làm loạn”. Một nhóm người trong đó có Thương Quan Kiệt, Tang Hoằng Dương chuẩn bị kỹ lưỡng, chỉ đợi Hán Thiệu Đế ra lệnh một tiếng là bắt Hoắc Quang. Không ngờ Hán Thiệu Đế lại chẳng có động tĩnh gì.

Hoắc Quang

Hoắc Quang, tự Tử Mạnh, sinh ra vào niên hiệu Nguyên Quang thời Hán Vũ Đế, mất vào năm Địa Tiết thứ 2 thời Hán Tuyên Đế, là người Bình Dương, Hà Đông. Ông theo Hán Vũ Đế gần 30 năm, là mưu thần được trọng dụng trong thời Vũ Đế. Sau khi Hán Vũ Đế qua đời, ông nhận lệnh là đại thần phò tá Hán Thiệu Đế xử lý chính sự, nắm quyền lực cao nhất trong cung nhà Hán gần 20 năm, có công lớn trong việc làm yên ổn và khôi phục Hán thất, trở thành nhân vật chính trị quan trọng trong lịch sử phát triển của Tây Hán.

Sáng sớm ngày hôm sau, Hoắc Quang vào triều, nghe được câu chuyện này liền đứng ở điện bên chờ nhà vua xử trí. Hán Thiệu Đế không thấy Hoắc Quang liền hỏi: “Đại tướng quân đâu rồi?” Thượng Quan Kiệt đáp: “Đại tướng quân vì bị Yên vương chỉ điểm nên không dám tới”. Hoắc Quang bước vào, tự bỏ mũ, quỳ xuống khấu đầu thỉnh tội. Hán Thiệu Đế nói: “Đại tướng quân hãy đội mũ lên. Ta biết bức thư đó là giả, khanh không có tội”. Hoắc Quang vừa vui mừng, vừa ngạc nhiên, hỏi: “Tại sao hoàng thượng lại biết?” Hán Thiệu Đế nói: “Đại tướng quân kiểm tra Vũ Lâm quân là việc gần đây, việc tăng cường quan võ cho tới nay cũng chưa tới mười ngày, Yên vương ở tận phương bắc, làm sao có thể biết nhanh như vậy? Hơn nữa, nếu tướng quân muốn tạo phản, cũng không cần dựa vào quan võ”. Đám người Thượng Quan Kiệt và các văn võ bá quan trong triều nghe thấy vậy đều vô cùng kinh ngạc, cảm thấy vị Hoàng đế nay tuy nhỏ tuổi nhưng thực không hề đơn giản chút nào.

Hán Thiệu Đế nói: “Việc này chỉ cần hỏi người đưa thư là rõ, nhưng nếu trong việc làm này có điều gì mờ ám thì chắc hắn đã cao chạy xa bay rồi”. Mọi người lập tức nhìn quanh để tìm người đưa thư, nhưng quả đúng là hắn đã chạy rồi. Hán Thiệu Đế lập tức ra lệnh truy nã, và liên tục truy hỏi quân lính xem đã tìm ra thủ phạm hay chưa. Đám người Thượng Quan Kiệt sợ đến mất mật, liền khuyên can Hán Thiệu Đế: “Việc nhỏ này nhà vua không cần thiết phải truy cứu nữa”. Hán Thiệu Đế nói: “Việc này còn có thể coi là nhỏ ư?” Từ đó, ông càng tin dùng Hoắc Quang hơn và đâm ra hoài nghi đám người Thượng Quan Kiệt.

Sau đó, đám người Thượng Quan Kiệt còn nói xấu Hoắc Quang trước mặt Hán Thiệu Đế, Hán Thiệu Đế bực mình nói: “Đại tướng quân là một vị trung thần, tiên đế đã nhờ cậy ông phò tá ta. Ai còn dám vu oan cho Đại tướng quân ta sẽ xử tội kẻ đó!” Đám người Thượng Quan Kiệt thấy cách làm này không ổn liền thương lượng để công chúa Cái Trưởng mời Hoắc Quang uống rượu, cho quân lính mai phục nhằm sát hại Hoắc Quang, sau đó phế truất Hán Thiệu Đế, lập Yên Vương Lưu Đan lên ngôi Hoàng đế. Âm mưu này chưa kịp thực hiện đã bị Hán Thiệu Đế và Hoắc Quang phát giác. Toàn bộ đám người Thượng Quan Kiệt bị giết, Yên Vương Lưu Đan và công chúa Cái Trưởng cũng đành tự sát.

Lưu Phất Lăng

Lưu Phất Lăng, là Hoàng đế thời Tây Hán, là con trai của Hán Vũ Đế, mẹ là Triệu Tiệp dư, còn gọi là phu nhân Câu Dặc. Lên ngôi từ khi còn nhỏ, lúc đầu do Hoắc Quang, Tang Hoằng Dương cùng phò tá lo chính sự của đất nước, tiếp đó thực hiện các chính sách dưới thời Vũ Đế, từng nhiều lần đánh bại quân Hung Nô, Ô Hoàn, tăng cường phòng vệ cho phương bắc. Năm Nguyên Bình nguyên niên, bị bệnh qua đời, khi đó mới 21 tuổi.

Là một vị quân vương, cần phải biết nhìn, nghe và suy nghĩ. “Nhìn bằng đôi mắt của thiên hạ thì không có thứ gì là không nhìn thấy; nghe bằng đôi tai của thiên hạ thì không có thứ gì là không nghe thấy; suy nghĩ bằng tâm trí của thiên hạ thì không có thứ gì là không biết; Những yếu tố đó nếu được hội tụ thì không có điều gì là không được sáng rõ”. Dùng tai, mắt, tâm của thiên hạ để nghe, nhìn, suy nghĩ mới có thể tra xét rõ ràng mọi sự việc, mới không bị những kẻ xấu che mắt để trở thành kẻ ngu muội. Hán Thiệu Đế có thể phân biệt đúng sai, vì vậy được người đời coi là một vị vua anh minh, sáng suốt.

Triệu Khuông Dẫn dùng biện pháp mềm mỏng để tập trung quân quyền

Một vị quân vương, muốn bảo vệ được ngôi vị của mình, cho dù phải giải quyết bất kỳ vấn đề nào cũng đều không được dựa vào biện pháp tàn bạo, mà phải biết hóa giải vấn đề một cách điềm tĩnh, ôn hòa. Các câu chuyện về “được chim bẻ ná” không còn là điều mới mẻ trong lịch sử, trong khi đó, những vị vua biết dùng biện pháp “mềm” để giải quyết các vấn đề ảnh hưởng đến quyền lực của quân vương, để bảo vệ ngôi vị lại không phải là nhiều. Người làm được điều này mới được coi là có khí chất của quân vương. Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn chính là một người như vậy.

Triệu Khuông Dẫn

Triệu Khuông Dẫn, tức Tống Thái Tổ, còn gọi là Nghệ Tổ, người Trạc Châu, là người sáng lập nên triều Tống, chủ mưu của trận Trần Kiều binh biến, khoác hoàng bào, lên ngôi Hoàng đế. Triệu Khuông Dẫn gươm chưa dính máu đã được lên ngôi Hoàng đế, không những thống nhất được hơn một nửa đất nước Trung Quốc, mà sau này cũng rất có tài trong việc trị nước. Nền kinh tế và văn hóa của vương triều nhà Tống sở dĩ có thể một lần nữa đạt được đến đỉnh cao trong lịch sử Trung Quốc phần lớn là nhờ vào đường lối trị nước của Triệu Khuông Dẫn.

Làm thế nào để triều đình nhà Tống mới thiết lập không bị giẫm lên vết xe đổ cũ của các triều đại trước đó, không tiếp tục trở thành một vương triều “đoản mệnh” thứ sáu sau triều Hậu Chu? Làm thế nào để loại bỏ được thói kiêu ngạo, độc đoán, chuyên quyền của các phiên trấn? Làm thế nào để duy trì nền trị an dài lâu cho vương triều nhà Tống? Những vấn đề này luôn trở đi trở lại trong tâm tư Tống Thái Tổ, khiến cho ông ăn không ngon, ngủ không yên. Những cuộc phiến loạn liên tiếp của Tiết độ sứ Lý Quân và Lý Trọng Tiến đã chứng thực hơn nữa nhân tố nguy hiểm có thể gây nguy hại đến sự yên ổn của vương vị và vương triều nhà Tống. Thế lực của các phiên trấn phải kịp thời bị loại trừ.

Vậy phải làm thế nào mới có thể loại trừ? Sau khi bình ổn các cuộc phiến loạn của Lý Quân và Lý Trọng Tiến chưa được bao lâu, Tống Thái Tổ mời Triệu Phổ đến để bàn bạc về việc này. Triệu Phổ nghe Tống Thái Tổ nói đến vấn đề này, tỏ ra vô cùng vui sướng, ông nói: “Bệ hạ nghĩ đến vấn đề này, đúng là phúc khí của đất nước và dân chúng. Sự phát sinh của các cuộc chiến tranh và bạo loạn đó không có nguyên nhân nào khác, chủ yếu là do quyền thế quá lớn của các phiên trấn, là do “vua yếu tôi mạnh” tạo thành. Giờ muốn giải quyết vấn đề này cũng chẳng cần đến mưu lược kỳ diệu gì, chỉ cần đoạt lại quyền lực của họ, không chế tiền của và lương thực, thu hồi tinh binh mà họ đang có. Chỉ cần làm được những điều đó thì thiên hạ tự khắc được thái bình”. Không đợi cho Triệu Phổ nói xong, Tống Thái Tổ liền tiếp lời nói: “Khanh không cần phải nói nữa, ta hiểu rõ rồi”.

Là đại thần đắc lực của Tống Thái Tổ, Triệu Phổ suy nghĩ vấn đề sẽ sâu sắc hơn và thấu triệt hơn. Tống Thái Tổ sở dĩ trong nháy mắt đoạt được chính quyền phần lớn phải dựa vào sự trợ giúp của một nhóm anh em thân cận. Sau khi lên được ngôi vị Hoàng đế, Tống Thái Tổ một mặt không thể đối xử không tốt với những người anh em đó, nhưng mặt khác cũng không thể không đề phòng họ. Phải sắp xếp thế nào để khiến cho họ có thể tâm phục khẩu phục bảo vệ chế độ tập quyền của Thái Tổ, mà lại không dẫn đến sự hoài nghi làm nảy sinh những sự việc ngoài ý muốn và biến loạn? Triệu Phổ đã từng nhiều lần nhắc nhở Tống Thái Tổ về những vấn đề này, đề nghị áp dụng những biện pháp cần thiết để giải quyết một số vấn đề, tránh giẫm lên vết xe đổ của thời đại trước - hưng thịnh hay diệt vong là phụ thuộc vào binh sĩ.

Triệu Phổ

Triệu Phổ, tự là Tắc Bình, sinh ở Kế Châu, những năm cuối thời Hậu Đường di cư đến Thường Châu, Lạc Dương. Triệu Phổ ít đọc sách, nhưng lại túc trí đa mưu, có thuyết “nửa bộ ‘Luận ngữ’ trị thiên hạ”. Tháng giêng năm Hiển Đức thứ 7 thời Hậu Chu, Triệu Phổ cùng với Triệu Khuông Nghĩa phát động Trần Kiều binh biến, lấy hoàng bào khoác lên người Triệu Khuông Dẫn, lật đổ Hậu Chu, lập nên triều Tống. Tống Thái Tổ dựa vào kế “chén rượu đoạt binh quyền” của Triệu Phổ mà đoạt được binh quyền của các tướng lĩnh trong triều, tăng cường tập quyền trung ương. Sau khi qua đời, Triệu Phổ được Thái Tông truy phong là Chân Định Vương, ban tặng tên thụy “Trung Hiến”.

Khi mới bắt đầu, Tống Thái Tổ coi trọng nghĩa khí thường cho rằng những công thần túc tướng nắm giữ và cai quản cấm quân như Thạch Thủ Tín, Vương Thẩm Kỳ sẽ không uy hiếp đến sự thống trị của bản thân, vì vậy, Triệu Phổ đã nhiều lần đề nghị Tống Thái Tổ để Thạch Thủ Tín, Vương Thẩm Kỳ rời bỏ cấm quân, thay đổi sang cai quản chức vị khác, nhưng Tống Thái Tổ trước sau không đồng ý. Ông giải thích với Triệu Phổ: “Những người như Thạch Thủ Tín, Vương Thẩm Kỳ chắc chắn không thể phản bội ta!”

Lần này, Triệu Phổ không còn chịu nổi, ông nói với Tống Thái Tổ một cách rõ ràng về vấn đề này: “Ý của thần không phải là sợ bản thân họ sẽ phản bội bệ hạ. Tuy nhiên, thần đã từng quan sát kỹ, những người này đều thiếu khả năng quản lý và chế ngự thuộc hạ, e rằng không đủ sức khống chế đội quân mà họ dẫn đầu, trong trường hợp sĩ binh dưới tay họ làm loạn sinh sự, cố ý đoạt quyền, lúc đó họ sẽ phụ thuộc vào sự điều khiển của sĩ binh”. Qua sự gợi ý và nhắc nhở trực tiếp như vậy của Triệu Phổ, cuối cùng, Tống Thái Tổ đã liên tưởng tới những ví dụ dựa vào binh quyền đoạt thiên hạ từ thời kỳ Ngu đại tới nay, đặc biệt là trận Trần Kiều binh biến mà bản thân ông đã đích thân trải qua trước đó không lâu, từ đó dần dần ý thức được tính nghiêm trọng của vấn đề này, giải trừ binh quyền thống soái cấm quân, không thể tiếp tục kéo dài thêm nữa.

Thạch Thủ Tín

Thạch Thủ Tín là cộng sự lâu năm của Triệu Khuông Dẫn ở trong cung, vừa là thuộc hạ, vừa là người thân tín của Triệu Khuông Dẫn, cuối thời Hậu Chu trở thành trợ lý và có quan hệ mật thiết nhất với Triệu Khuông Dẫn. Sau khi Triệu Khuông Dẫn thực hiện kế “chén rượu đoạt binh quyền”, Thạch Thủ Tín đảm nhận chức Thiên Bình quân Tiết độ sứ, “Suốt mười bảy năm không đổi, chuyên gom góp tích tụ, tích lũy tiền của nhiều đến muốn vàn”. Thạch Thủ Tín sùng phụng Phật giáo, cho xây chùa Sùng Đức ở Tây Kinh, chiêu mộ dân chúng khuân vác vận chuyển vật liệu xây dựng. “Thúc giục cực gấp, mà tiền công không trả, mọi người đều than khổ”.

Một ngày đầu tháng 7 năm đó, giống như bình thường, Tống Thái Tổ mời một số tướng lĩnh cấp cao trong đó có Thạch Thủ Tín, Vương Thẩm Kỳ tới họp mặt uống rượu. Nhân cơ hội họ đã ngà ngà say, Tống Thái Tổ đuổi hết đám tùy tùng ra ngoài và nói với các công thần một cách hết sức thâm tình: “Nếu ta không có được sự dốc lòng giúp sức của các khanh thì chắc chắn không thể có được ngày hôm nay. Công đức của các khanh cả đời này ta không bao giờ quên được”. Nói đoạn, Tống Thái Tổ liền chuyển giọng thở than: “Làm Thiên tử thật quá là gian nan, không hề vui vẻ như khi làm tiết độ sứ, nhiều năm tháng qua, ta không có đêm nào được ngủ yên giấc cả!”

Đám khanh tướng không hiểu được ý đồ của Tống Thái Tổ liền hỏi: “Bệ hạ gặp phải khó khăn gì mà không ngủ được?” Tống Thái Tổ bình tĩnh trả lời: “Thực ra lý do cũng không khó hiểu, các khanh thử nghĩ xem, cái ngôi vị Thiên tử, ai chẳng muốn được ngồi thử!”

Đám người Thạch Thủ Tín nghe Nhà vua nói vậy, bất giác sợ hãi đến toát mồ hôi, không khí của buổi tiệc rượu lập tức trở nên căng thẳng. Họ lập tức khấu đầu nói: “Sao bệ hạ lại nói như vậy ạ? Mọi việc như ngày hôm nay mệnh Trời đã định, ai còn dám có ý khác nữa?”

Tống Thái Tổ bèn cười nói: “Không thể nói như vậy, các khanh tuy không có ý gì khác, nhưng trong đám thuộc hạ của các khanh nếu có kẻ có mưu đồ tham lam phú quý thì làm sao? Nếu hoàng bào đã được khoác lên người các khanh, cho dù các khanh không muốn làm hoàng đế, cũng có làm được gì không?”

Lúc này, đám người Thạch Thủ Tín mới quay ra nhìn nhau, cuối cùng thì họ cũng đã hiểu được ý đồ thực sự của Tống Thái Tổ, thế là họ vừa khóc lớn, vừa khấu đầu cúi lạy nói: “Chúng thần ngu đần, không nghĩ đến sự việc này, xin bệ hạ tỏ lòng thương xót, chỉ cho chúng thần một con đường sống”.

Tống Thái Tổ thấy tình hình như vậy, biết được thời cơ đã chín muồi, nhân cơ hội đó đưa ra biện pháp mà bản thân đã suy nghĩ vô cùng kỹ lưỡng. Nhà vua cười nói: “Đời người ngắn ngủi, thoáng cái đã đến lúc phải từ giã trần thế, sao các khanh không từ bỏ binh quyền, về làm chức quan lớn ở địa phương, chọn mua lấy một mảnh ruộng và một ngôi nhà tốt, gây dựng một cơ nghiệp vững chắc muôn đời để lại cho con cháu đời sau, rồi tổ chức thêm nhiều cuộc vui, ca hát nhảy múa, ngày ngày uống rượu, cùng với con cháu vui vẻ lúc tuổi già?”

Đám người Thạch Thủ Tín nghe Thái Tổ nói vậy, cảm giác sợ hãi, kinh hoàng dần dần biến mất, tự nhiên lại nảy sinh niềm biết ơn đối với ân đức của nhà vua, thế là lại một lần nữa khấu đầu cảm tạ nói: “Bệ hạ đã biết nghĩ chu toàn như vậy cho chúng thần, thật đúng là tình cảm sống chết có nhau, chẳng khác nào cốt nhục tình thân!”

Ngày hôm sau, nhóm công thần Thạch Thủ Tín lần lượt dâng sớ tâu trong người có bệnh, không thích hợp cầm quân chiến đấu, xin được trả lại quân quyền. Tống Thái Tổ vô cùng vui sướng, lập tức đồng ý theo thỉnh cầu của họ, tước bỏ quyền thống soái cấm quân của họ, ngoài ra còn thưởng cho họ rất nhiều tiền của, vàng bạc. Việc Tống Thái Tổ dựa vào mưu lược của Triệu Phổ để tước quyền thống soái cấm quân của các công thần một cách thành công được các nhà lịch sử gọi là “bôi tửu thích binh quyền” (chén rượu giải binh quyền). Tống Thái Tổ không giải quyết vấn đề này bằng biện pháp quen dùng của một số vị Hoàng đế trước trong lịch sử là giết hại các công thần. Nguyên nhân là vì ông không muốn đánh mất tình cảm thân thiết với những người anh em đã từng cùng ông vào sinh ra tử, hoạn nạn có nhau. Áp dụng biện pháp hòa bình như vậy để họ giao lại binh quyền, về mặt tình cảm, dễ được các vị tướng lĩnh tình nguyện chấp nhận, vừa có lợi cho việc làm yên ổn lòng người, củng cố lại trật tự thống trị, lại vừa có lợi cho việc tăng cường hơn nữa việc tập trung quân quyền, đẩy mạnh đi sâu cải cách quân sự. Nếu không, những vị tướng lĩnh ấy sẽ không dễ dàng giao lại binh quyền, như vậy sẽ có thể dẫn đến xung đột đổ máu.

Xét từ góc độ thành công học, biện pháp mềm mỏng “chén rượu tước binh quyền” của Triệu Khuông Dẫn có thể gọi là “lấy nhu khắc cương”, không dùng đến đao kiếm nhưng còn lợi hại hơn cả đao kiếm!

Khang Hy suy tính hợp lòng dân

Việc nhà, việc nước, việc thiên hạ, suy cho cùng đều là việc của con người, thiểu số dù sao cũng không thể áp đảo được đa số. Vì vậy, khi làm việc cần phải suy nghĩ trên lập trường của số đông, nếu không, người khác sẽ không tin phục. Hoàng đế Khang Hy khi làm việc thường chú ý đến số đông, loại bỏ luật lệnh và tôn sùng Nho học chính là hai ví dụ rõ rệt nhất cho điều này.

Khang Hy

Thanh Thánh Tổ Khang Hy, tên thật là Ái Tân Giác La Huyền Diệp, là con trai của Đông Phi. Khang Hy kế vị khi mới lên 8 tuổi, là con trai thứ ba của Thuận Trị. Cái tên Khang Hy được xuất phát từ niên hiệu. Khang Hy mất năm 69 tuổi, giữ ngai vàng trong 61 năm, là vị Hoàng đế có thời gian tại vị dài nhất trong lịch sử Trung Quốc.

Trong những năm đầu khi Khang Hy mới lên ngôi, do phong trào kháng Thanh mang tính quần chúng với quy mô lớn đã bị dàn áp, tầng lớp quý tộc dân tộc Mãn với đại diện là bốn vị đại thần tiếp tục đẩy mạnh những pháp lệnh chính sách mang tính phân biệt đối xử với Hán tộc như “vây đất”, “nô bộc trốn chạy”, “giao nộp nô lệ”, từ đó làm cho mâu thuẫn Mãn Hán đang có chiều hướng hòa hoãn lại một lần nữa trở nên gay gắt. Khang Hy đã xuất phát từ bài học kinh nghiệm của Mãn tộc khi thống nhất Liêu Đông và sa mạc phía Nam Mông cổ, hiểu rõ rằng nếu chỉ dựa vào vũ lực thì sẽ không thể duy trì cục diện thống nhất được dài lâu, cần phải tranh thủ được lòng dân, hơn nữa, phải tin tưởng sâu sắc vào những kinh điển Nho gia như Tứ thư Ngũ kinh và những sĩ đại phu người Hán tinh thông kinh điển Nho gia, sẽ rất có ích cho việc cai trị, vì vậy, sau khi bắt đầu đích thân xử lý chính sự, ông đã tích cực áp dụng biện pháp lung lạc sĩ đại phu Hán tộc, đồng thời từng bước sửa đổi các chính sách lạc hậu như “vây đất”.

“Luật nô bộc trốn chạy” là pháp lệnh quy định việc truy bắt nô bộc trốn nhà chủ do tầng lớp quý tộc Mãn Châu thiết lập nên nhằm duy trì tàn dư sự thống trị trong chế độ nô lệ của họ, được đẩy mạnh vào đầu đời nhà Thanh, đặc biệt là “Luật nô bộc trốn chạy thời Thuận Trị”, mang đặc trưng rõ rệt của sự áp bức dân tộc. Ví dụ như quy định người bỏ trốn 2-3 lần trở lên sẽ bị xử tử, nếu vào thời gian đại xá thì được miễn tội, người chứa chấp nếu bị phát hiện sẽ bị xử tội, vợ con, gia sản đều bị tịch thu trả lại cho chủ, gặp đại xá cũng không được miễn tội, hàng xóm, thập gia trưởng (người đứng đầu cụm 10 nhà) cũng bị liên đới trừng phạt, nếu người chứa chấp là người Mãn chỉ bị đánh trăm roi, phạt năm lượng vàng. Điều này khiến cho người Hán, cho dù là địa chủ hay dân thường đều chịu thiệt hại lớn, trở nên bất mãn, tạo ra mâu thuẫn nghiêm trọng giữa hai dân tộc Mãn Hán.

Tháng giêng năm Khang Hy thứ 4, để “Luật nô bộc trốn chạy” vừa bảo vệ được quyền lợi vốn có của quý tộc Mãn Châu, vừa có thể phù hợp với yêu cầu chính đáng của địa chủ Hán tộc, cũng như để thể hiện tinh thần phạt nặng kẻ điêu ngoa, xử nhẹ người chứa chấp, người ta bắt đầu sửa đổi luật này. Sau năm Khang Hy thứ 11 có quy định, các vụ liên quan đến nô bộc chạy trốn, ngoài Ninh Cổ Tháp vẫn do tướng quân tiếp tục thẩm lý ra, các tỉnh khác sẽ do tổng đốc và tuần lý địa phương thẩm lý. Do các quan địa phương như tổng đốc và tuần lý phần lớn là do người trong quân đội nhà Hán hoặc người Hán đảm nhiệm nên họ khá chú ý đến sự ổn đinh của an ninh xã hội, rất ít khi có hành vi cưỡng bức hoặc xử nặng đối với người trốn chạy nhà chủ, vì vậy, có được sự hoan nghênh và ủng hộ của đông đảo địa chủ Hán tộc và rất được lòng dân.

Tới những năm đầu thời Khang Hy, cùng với việc cho ngừng hoạt động vây đất, những sửa đổi trong “Luật nô bộc trốn chạy” mới cơ bản được dừng lại.

Từ sau chủ trương “bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật” thời Hán Vũ Đế, các học thuyết Nho gia đại diện cho tư tưởng Khổng Tử đã trở thành tư tưởng chính thống được tôn sùng qua các vương triều trong lịch sử xã hội phong kiến Trung Quốc. Thanh Thái Tông Hoàng Thái Cực và Thanh Thế Tổ Phúc Lâm đều đẩy mạnh chính sách tôn sùng Khổng Tử và Nho gia, vẫn giữ nguyên danh hiệu Chí Thánh Tiên Sư của Khổng Tử được tôn xưng vào năm Gia Tĩnh đời Minh. Còn những người như Hiếu Trang Hoàng Thái Hậu thì ngược lại, họ cho rằng “phong tục Hán thịnh thì vận của người ngoại bang sẽ suy”, do bị “ngăn trở o ép”, họ đã không tôn sùng Khổng Tử và Nho gia, cũng không mời thầy giảng dạy. Tuy nhiên, vua Khang Hy xuất phát từ nhu cầu thực tế trong việc trị nước, tin tưởng sâu sắc rằng, học thuyết Nho gia rất có ích cho cai trị, vì vậy rất mong muốn và thích thú với việc học tập văn hóa truyền thống của dân tộc Hán, chủ động học chữ nghĩa, kinh thư từ các Thái giám họ Trương, họ Lâm, tìm hiểu về chế độ điển chương và sự tích cung đình thời Minh.

Trung tuần tháng tư năm Khang Hy thứ 8, tức hơn một tháng trước khi xử tử Ngao Bái, Khang Hy áp dụng đề nghị của các quan lại người Hán, tổ chức hoạt động tế Khổng Tử trong nhà Thái học một cách long trọng. Với tấm lòng hết sức thành tâm, ông ở trong cung ăn chay một vài ngày, sau đó cùng với đoàn tùy tùng bao gồm các đại vương, đại thần đi tới nhà Thái học cung kính cúi lễ trước bài vị Khổng Tử, hành “đại lễ”, quỳ gối ba lần, khấu đầu sáu lần, đồng thời tới Di Luân đường để nghe các quan Tư nghiệp và Tế tửu người Mãn, người Hán giảng giải về ý nghĩa tinh túy của “Kinh Dịch” và “Ức kinh”.

Tháng 12 năm Khang Hy thứ 16, ông còn đích thân biên soạn “Nhật giảng tứ thư giải nghĩa tự” (bài tựa Tứ thư giải nghĩa), nâng cao hơn nữa địa vị và vai trò của Khổng Tử và Mạnh Tử, thống nhất hoàn toàn giữa đạo thống và trị thống, trong đó có nói: “Đạo thống ở đây, trị thống cũng ở đây. Các thế hệ hoàng đế thánh hiền lập nghiệp, giữ nghiệp, không ai không tôn sùng biểu chương, giảng rõ đạo này”, tỏ rõ quyết tâm của bản thân dựa vào học thuyết Nho gia để trị nước.

Tháng 11 năm Khang Hy thứ 23, trên đường trở về trong lần đầu tiên đi Nam tuần, ông đã đi qua Khúc Phụ, Sơn Đông, cung kính tới miếu Khổng Tử tế lễ, thực hiện nghi lễ ba quỳ sáu lạy, đích thân viết tấm hoành phi “Vạn thế sư biểu” treo ở điện Đại Thành, quyết định trùng tu miếu Khổng Tử, lập bia trong miếu, đồng thời đích thân soạn văn bia: “để làm rõ thành ý kính ngưỡng tôn trọng”.

Những hoạt động tôn sùng Khổng Tử và thái độ thành tâm của Khang Hy rõ ràng đã khiến cho đại sĩ phu Hán tộc cảm thấy vô cùng thân thiện, dân chúng hài lòng.

Không chỉ tiến hành các hoạt động tôn thờ Khổng Tử, Khang Hy còn áp dụng một loạt các biện pháp thực tế thể hiện sự tôn sùng đối với Nho học.

Sau khi Khang Hy đích thân xử lý chính sự, Đám Nghi chế Viên ngoại lang Vương Sĩ Trinh một lần nữa thỉnh cầu khôi phục chế độ cũ “thi văn Bát cổ”, Khang Hy liền ra hiệu triệu “Lung lạc chí sĩ, tìm kiếm anh tài”, thỏa mãn yêu cầu của sĩ đại phu Hán tộc: “Sau này vẫn theo những tiền lệ trước năm thứ nhất, vẫn dùng văn Bát cổ để tiến hành thi cử.” Những biện pháp này có tác dụng quan trọng trong việc tranh thủ sự ủng hộ của sĩ đại phu Hán tộc. “Thanh triều dã sử đại quan” thậm chí còn có câu “Từ đó về sau, người Hán bắt đầu an định, đế nghiệp bắt đầu vững vàng”.

Cùng với đó, Khang Hy còn khôi phục hoạt động giảng dạy hàng ngày đã bị đứt đoạn bấy lâu nay. Hoạt động này được tổ chức lần đầu ở Doanh Đài, do học sĩ Hùng Tứ Lữ giảng dạy.

Hoạt động này được bắt đầu từ tháng tư năm Khang Hy thứ 10, do các học sĩ người Mãn, Hán thuộc viện hàn lâm đảm nhiệm, từ tháng 8 cùng năm, đã giao lại cho quan nhận giảng kiêm khởi cư chú. Do quan khởi cư chú tiếp xúc nhiều nhất với Hoàng đế nên rất được tín nhiệm, thăng tiến cũng nhanh.

Có người đã thống kê, từ tháng 4 năm Khang Hy thứ 10 đến tháng 9 năm Khang Hy thứ 23, trước khi Khang Hy đi tuần thú phương nam lần đầu tiên, tổng cộng có tới 42 người Hán đã đảm nhận chức này, trong đó người Giang Nam là nhiều nhất, có tới hơn 18 vị. Nếu nói về khu vực Giang Nam theo nghĩa rộng thì gồm có các vùng đất như Giang Tô, An Huy, Chiết Giang, Giang Tây, Phúc Kiến và Hồ Quảng,… tức là có tới hơn 32 người, chiếm trên 75% tổng số. Điều này nói lên rằng, trước khi đi tuần thú về phương Nam, Khang Hy đã rất quan tâm tới các sĩ phu Giang Nam, cũng tạo điều kiện thuận lợi để ổn định lòng dân và nhân sĩ khu vực Giang Nam.

Nhà vua phải biết cách giải quyết công việc theo đúng đạo lý của sự việc, vì có tuân theo đạo lý thì mới giữ được sự ổn định lâu dài, chỉ khi làm được như vậy thì sự thống trị của nhà vua mới có thể yên ổn dài lâu. Nhà vua cần phải hiểu đạo lý sự việc, thuận theo lòng dân, thưởng công phạt tội, tận dụng sức dân. Về những điều này, có thể nói Khang Hy đã thực hành một cách vô cùng hoàn hảo.

Lý Thế Dân coi những lời can gián là liều thuốc bổ

Mọi việc trong cuộc sống, thường là trái phải đan xen, đúng sai tương hợp. Người có trí tuệ phải biết cách coi lời góp ý là liều thuốc bổ, sửa đổi sai trái của bản thân. Nhưng để làm được điều này quả thực không hề dễ dàng, bởi vì đằng sau đó lại bao hàm vấn đề về thể diện. Lý Thế Dân là người rộng lượng, không coi trọng sĩ diện, mà thường coi trọng đại cục, vui vẻ nghe ý kiến đóng góp phê bình của người khác, để bản thân mình ngày càng trở nên sáng suốt, vững vàng trong công việc.

Lý Thế Dân

Trong thời gian Lý Thế Dân thống trị, triều đình nhà Đường quốc lực cường thịnh, sử sách gọi là “đời trị Trinh Quán”. Cuốn sách “Đế phạm” mà ông biên soạn vào những năm cuối đời được dùng để giáo dục Thái tử, trong đó tổng kết lại những kinh nghiệm về chính trị trong suốt cuộc đời ông, bên cạnh đó là sự trần thuật và phân tích về những công lao thành tích đã qua của bản thân ông. Năm 649 sau công nguyên, Đường Thái Tông mắc bệnh lỵ, điều trị không khỏi. Ông đã qua đời tại điện Hàm Phong, Trường An vào tháng 7 năm 649.

Như chúng ta đều biết lời góp ý thẳng thắn, chân thành và lời nói xấu, phỉ báng vốn rất khó phân biệt. Khi đó, nếu Lý Thế Dân trong lòng phân vân, lưỡng lự, không biết phân biệt đúng sai, hiểu lầm lời nói xấu thành lời nói tốt thì chắc chắn sẽ dẫn đến hậu quả là tiểu nhân đắc chí, người tốt bị tổn thương, tất không có lợi cho việc trị nước.

Vậy thế nào là một lời nói tốt, thế nào là một lời góp ý vô ích? Lý Thế Dân hiểu rõ ý nghĩa của điều này. Nhưng để có được kết quả tốt thì phải làm thế nào? Điều này không thuộc về bản chất của việc trị nước. Bỏ qua cái nhỏ để có được cái lớn, đồng thời lại có được danh tiếng tốt, Lý Thế Dân đã chứng tỏ được trí tuệ hơn người của mình ở chỗ đó.

Năm Trinh Quán thứ 7, cha vợ của Lý Huân Thục Vương là Dương Dự có hành vi tranh giành nô tì ở địa phương, Đô quan lang trung Tiết Nhân Phương bắt giữ ông ta để tra hỏi, nhưng chưa kịp xử lý. Con trai của Dương Dự khi đó đang nhậm chức Thiên ngưu vệ tướng quân, bẩm báo trước điện đường của triều đình: “Đối với quan ngũ phẩm trở lên, nếu không mắc tội phản bội triều đình thì không được phép bắt giữ. Vì cha của thần là Hoàng thân quốc thích, Tiết Nhân Phương lại vì vấn đề này mà gây rắc rối, không muốn giải quyết dứt điểm sớm mà kéo dài thời gian cho đến ngày hôm nay”. Lý Thế Dân nghe nói có sự việc như vậy, bực tức nói rằng: “Đã biết là người thân thích với ta mà còn cố ý gây khó dễ như vậy!” Sau đó, ông lập tức ra lệnh đánh Tiết Nhân Phương một trăm gậy, rồi buộc miễn chức quan mà Tiết Nhân Phương đang đảm nhận.

Ngụy Trưng

Ngụy Trưng, tự Huyền Thành, là người Hạ Khúc Dương, Cự Lộc, nguyên là quan cấp dưới của Thái tử Lý kiến Thành, đã từng nhiều lần khuyên Thái tử Kiến Thành trừ khử Lý Thế Dân, tức hành động trước để khống chế đối phương. Sau biến động Huyền Vũ môn, Lý Thế Dân coi trọng lòng can đảm và tài hiểu biết của ông ta, đã không trách tội ông ta, còn bổ nhiệm giữ chức gián quan, hơn nữa còn thường xuyên đưa ông ta vào triều để hỏi han tình hình được mất trong chính sự. Ngụy Trưng vui mừng vì có được người chủ giống như người bạn tri kỷ, dốc hết tấm lòng thành để phò tá, điều gì biết cũng đều nói, mà đã nói là nói hết. Thêm vào đó là tính cách thẳng thắn, thường đấu tranh cho lẽ phải, không bao giờ có hành động khom lưng cầu toàn.

Ngụy Trưng bèn can gián: “Cáo trong động, chuột ở nhà thờ đều là những động vật nhỏ, nhưng bởi vì chúng có chỗ ẩn náu nên rất khó có thể tiêu diệt. Huống hồ là cao môn đại tộc, Hoàng thân quốc thích, quả thực vốn rất khó xử lý. Từ thời Hán Tần cho tới nay, những sự việc kiểu này không thể cấm đoán, hạn chế. Trong những năm Vũ Đức, cũng vì lý do này mà có rất nhiều kẻ luôn tỏ ra kiêu ngạo, phóng túng. Kể từ khi bệ hạ kế vị, tình hình này mới có phần giảm đi. Tiết Nhân Phương đã thực hiện đúng chức trách của bản thân, tuân thủ và làm theo quy định của triều đình, sao có thể vì chuyện đó mà bắt giam và để ông ta phải chịu hình phạt, như vậy chẳng phải khuyến khích cho những mong muốn lợi ích cá nhân của ngoại thích sao! Nếu đã có tiền lệ này thì tương lai sẽ liên tục nảy sinh những sự việc tranh chấp tương tự, và chắc chắn sau này chúng ta sẽ phải hối hận, những sự việc muốn sửa đổi sẽ càng trở nên khó khăn hơn. Từ xưa tới nay, chỉ có bệ hạ là người duy nhất có thể cấm tiệt ngoại thích hoành hành, ngạo mạn. Đề phòng những sự việc phát sinh ngoài ý muốn là nguyên tắc cơ bản trong việc trị nước, sao có thể chỉ vì một chút rắc rối mà tự hủy bỏ chức tước của người mà bệ hạ từng đề bạt? Thần có ý riêng đóng góp như vậy, không biết có thể thực hiện được không”.

Lý Thế Dân ngập ngừng một lát rồi nói: “Quả đúng những gì khanh nói trước đây ta chưa từng nghĩ đến, nhưng Tiết Nhân Phương tự ý bắt giam Hoàng thân quốc thích mà không hề bẩm tấu, rõ ràng là rất lộng hành, tuy không nên trị tội nặng, nhưng cũng nên trừng phạt chút ít để coi như cảnh cáo”. Thế là nhà vua ra lệnh đánh Tiết Nhân Phương 20 gậy, sau đó lại xá miễn cho ông.

Ngụy Trưng có thể coi là anh kiệt trong đám trung thần của nhà vua, mỗi khi nói ra những lời vàng ngọc, ông thường phê phán chính xác tới những điểm quan trọng của sự việc. Mặc dù vậy, nhưng Lý Thế Dân lại chưa từng vì thế mà quá tin tưởng những lời nói của Ngụy Trưng, mà chỉ coi đó là ý kiến để tham khảo. Do đó, một vị vua có trí lớn, khi phải đối diện với những điều thị phi, nếu giữ được ý kiến của riêng mình thì sẽ có thể phân biệt được thiện ác, đồng thời có thể hiểu rõ tấm lòng của các tướng thần.

Tháng 7 năm Trinh Quán thứ nhất, Lý Thế Dân hỏi các công khanh về kế sách trị nước lâu dài, Tiêu Vũ đã kiến nghị thực hiện chế độ phân phong, ông đã đưa ra sự kiện lịch sử “thời Tam đại phân phong mà được lâu dài, thời Tần độc quyền mà sớm mất”, đề xuất “phép phân phong, thực sự có thể tuân thủ”. Lý Thế Dân cho là hợp lý, vui vẻ tiếp thu.

Năm Trinh quán thứ mười hai, Lý Thế Dân nói với Ngụy Trưng: “Những biện pháp giáo hóa chính trị đang được tiến hành gần đây so với trước đây như thế nào?” Ngụy Trưng đáp: “Nếu nói dùng đồng thời ân và uy, các nước vùng biên giới xa xôi triều cống thì không thể so với đầu thời Trinh Quán. Nếu nói là dùng đạo đức, nhân nghĩa để tiềm di mặc hóa, lòng dân vui vẻ, tín phục, nếu so với đầu thời Trinh Quán thì có khoảng cách rất xa”. Lý Thế Dân nói: “Việc các nước vùng biên giới xa xôi tới thần phục nên là kết quả của đạo đức nhân nghĩa. Những thành tích trước đây vì sao lại có thể lớn hơn?” Ngụy Trưng đáp: “Trước đây bốn phương không được bình an, đạo đức nhân nghĩa thường gắn chặt trong lòng. Ít lâu sau, vì thiên hạ được thái bình nên dần trở nên kiêu căng, tự mãn. Vì vậy, thành tích tuy lớn, nhưng không bao giờ có thể giống với trước đây”. Lý Thế Dân lại hỏi: “Những điều đang được thực hiện có những gì khác với trước đây?”

Ngụy Trưng thấy rằng, do vài năm gần đây xã hội được ổn định, yên bình, triều đình đã tạo dựng nên được cảnh tượng thái bình, vì vậy, Lý Thế Dân có phần xao nhãng việc chính trị, vì vậy đã đáp rằng: “Đầu thời Trinh Quán, bệ hạ thường khuyên bảo các đại thần phải góp ý thẳng thắn, trong vòng ba năm đầu, khi thấy những ý kiến đóng góp thẳng thắn này, bệ hạ thường vui vẻ đón nhận. Nhưng một hai năm gần đây, tuy bệ hạ vẫn miễn cưỡng tiếp nhận những ý kiến đóng góp đó, nhưng trên nét mặt thường tỏ ra không vui, tâm lý cũng thường bị kích động, không giữ được sự bình tĩnh”. Lý Thế Dân vốn nghĩ, các đại thần sẽ ca tụng công đức của ông, nên lời nói của Ngụy Trưng khiến ông cảm thấy hết sức bất ngờ, ông nói: “Khanh nói như vậy có căn cứ gì không?”

Ngụy Trưng đáp: “Khi bệ hạ mới lên ngôi, có người mắc tội chết, ngự sử Tôn Phục Gia thẳng thắn nói: ‘Theo pháp luật thì chưa đến nỗi mắc tội chết, không nên lạm dụng hình phạt tàn khốc như v