PHẦN 11 QUYẾT THIÊN (QUYẾT ĐOÁN SỰ VẬT) Nguyên văn
Phàm quyết vật, tất thác vu nghi giả. (1) Thiện kỳ dụng phúc, (2) ác kỳ hữu hoạn; (3) thiện chí vu dụ dã, trung vô hoặc thiên. (4) Hữu lợi yên, khứ kỳ lợi, tắc bất thọ dã, kỳ (5) chi sở thác. Nhược hữu lợi vu thiện giả, ẩn thác vu ác, tắc bất thọ hĩ, trí sơ viễn. Cố kỳ hữu sử thất lợi giả, hữu sử ly hại giả, thử sự chi thất. (6)
Chú thích
1. Quyết vật: Quyết đoán sự tình. Thác: Gửi gắm, nhờ vào.
2. Thiện kỳ dụng phúc: Có được hạnh phúc là thiện, có nghĩa là thích có hạnh phúc.
3. Ác kỳ hữu hoạn: Ghét có họa hoạn.
4. Dụ: Khuyên bảo, dạy dỗ. Hoặc: nghi hoặc. Thiên: Nghiêng, lệch.
5. Kỳ: Chỉ mưu kế kỳ diệu.
6. Thất lợi: Mất đi lợi ích. Ly hại: Gặp tai họa. Sự chi thất: Sai lầm khi quyết đoán sự vật.
Phần này chủ yếu thảo luận về vấn đề liên quan tới quyết đoán sự vật, nói rõ tầm quan trọng của việc quyết đoán, và dạy chúng ta phải quyết đoán thế nào. Phần này cho rằng “quyết tình định nghi, vạn sự chi cơ, dĩ chính trị loạn, quyết thành bại, nan vi giả”, (quyết đoán sự tình, giải quyết nghi ngờ là điểm mấu chốt để xử lý mọi chuyện. Nó liên quan tới sự thái bình hay biến động trong xã hội, liên quan tới sự thành công hay thất bại trong sự nghiệp của một người, đây là một việc rất khó làm tốt) đã cho thấy ý nghĩa quan trọng của việc quyết đoán, quyết sách đóng vai trò quan trọng trong hoạt động xã hội. Quyết sách rất khó làm, song lại có sức ảnh hưởng rất lớn, do đó cần hết sức thận trọng.
Dịch nghĩa
Phàm là quyết đoán sự vật đều nhằm vào người đang nghi ngờ. Con người luôn muốn gặp hạnh phúc, mà không muốn gặp tai họa; nếu giỏi khuyên bảo, thì sẽ có thể xóa tan mọi nghi ngờ và thiên kiến. Khi quyết đoán giúp người khác thì nền xem quyết đoán như vậy có mang lại ích lợi không, bởi vì nếu mất đi ích lợi thì sẽ không được tiếp nhận, cũng chính là dựa vào đó để vạch ra kỳ sách. Bất cứ sự quyết đoán nào đều nên có lợi cho người được gửi gắm, song nếu trong đó ẩn chứa nhân tố bất lợi thì người được gửi gắm sẽ không chấp nhận, quan hệ giữa hai bên sẽ trở nên lạnh nhạt. Bởi vậy, về mặt quyết sách, nếu khiến đối phương mất đi lợi ích nào đó, hoặc khiến đối phương gặp tổn hại thì đó là sai lầm trong việc đưa ra quyết sách.
Nguyên văn
Thánh nhân sở dĩ năng thành kỳ sự giả hữu ngũ: Hữu dĩ dương đức chi (1) giả, hữu dĩ âm tặc chi (2) giả, hữu dĩ ngôn thành chi (3) giả, hữu dĩ tế nặc chi (4) giả, hữu dĩ bình tố chi (5) giả. Dương lệ vu nhất ngôn, âm lệ vu nhị ngôn, bình tố, khu cơ dĩ dụng tứ giả, vi nhi thi chi. (6) Vu thị độ dĩ vãng sự, nghiệm chi lai sự, tham chi bình tố, khả tắc quyết chi; (7) Công vương đại nhân chi sự dã, (8) nguy nhi mỹ danh giả, khả tắc quyết chi; bất dụng phí lực nhi dị thành giả, khả tắc quyết chi; dụng lực phạm cần khổ, nhiên bất đắc dĩ nhi vi chi giả, khả tắc quyết chi; khứ hoạn giả, khả tắc quyết chi; tùng phúc giả, khả tắc quyết chi.
Chú thích
1. Dĩ dương đức chi: Công khai cảm hóa người khác bằng đạo đức.
2. Dĩ âm tặc chi: Ngấm ngầm sát hại người khác bằng thủ đoạn độc ác, nguy hiểm. Chính là ngầm hại người.
3. Dĩ ngôn thành chi: Thu phục đối thủ bằng thái độ trung thực.
4. Dĩ tế nặc chi: Che chở và bảo vệ người khác bằng phương pháp giấu kín tung tích.
5. Dĩ bình tố chi: cảm hóa một bên bằng sự liêm khiết.
6. Dương lệ vu nhất ngôn, âm lệ vu nhị ngôn: Làm việc công khai thì ngôn từ phải nhất trí; ngấm ngầm làm việc, thì phải giỏi hai kiểu nói chuyện. Bình tố, khu cơ dĩ dụng: Vừa dùng biện pháp công bằng, lại vừa dùng biện pháp khéo léo, linh hoạt. Tứ giả: Chỉ nhất ngôn, nhị ngôn, bình tố và khu cơ. Vi nhi thi chi: Sử dụng tinh tế và khéo léo.
7. Cả câu này có nghĩa là: Đánh giá dựa vào sự việc đã qua, kiểm nghiệm bằng sự việc sắp tới, kiểm chứng bằng sự việc thường xuyên xảy ra, nếu có thể thì quyết đoán ngay.
8. Công vương đại nhân chi sự dã: Tức là hậu hạ, cung phụng vương công, đại nhân, vạch mưu kế giúp họ.
Những việc hệ trọng nào của quân vương chư hầu mới đáng để mưu thần sách sĩ quyết đoán nghi hoặc đây? Tác giả đã đưa ra những nguyên tắc như sau: Thứ nhất, việc tao nhã, có thể tạo danh tiếng tốt đẹp; thứ hai, việc dễ thành công mà không hao tổn sức lực; thứ ba, việc khó khăn, mất nhiều công sức, song bắt buộc phải làm; thứ tư, việc có thể làm mà không phải lo lắng; thứ năm, việc có thể mang lại hạnh phúc. Chỉ cần là một trong năm sự việc ở trên thì có thể quyết đoán ngay. Quyết đoán nghi ngờ giúp người khác, giống như là dắt nhà vua tới ngã ba đường, nếu bước nhầm đường thì sẽ phải đối mặt với khó khăn, tai họa; còn nếu bước đúng đường thì có thể giúp vua hoàn thành nghiệp đế vương.
Dịch nghĩa
Sở dĩ thánh nhân có thể hoàn thành đại sự là vì họ dựa vào năm cách chính: Công khai cảm hóa người khác bằng đạo đức; ngấm ngầm hại người khác bằng mưu kế; thu phục đối phương bằng thái độ trung thực; che chở và bảo vệ người khác bằng phương pháp giấu kín tung tích; cảm hóa một bên bằng sự liêm khiết. Làm việc công khai thì ngôn từ phải nhất trí; làm việc giấu kín thì phải giỏi hai kiểu nói chuyện. Vừa dùng biện pháp công khai, lại vừa dùng biện pháp linh hoạt, cả bốn cách làm này đều cần phải sử dụng tinh tế và khéo léo. Khi quyết đoán sự vật, cần đánh giá dựa vào sự việc đã qua, kiểm nghiệm bằng sự việc sắp tới, kiểm chứng bằng sự việc thường xuyên xảy ra. Nếu có thể được thì quyết đoán ngay. Khi vạch mưu kế cho vương công, đại nhân, nếu thấy sự việc tao nhã, lại có thể tạo danh tiếng tốt đẹp, mà có thể thực thi thì nên lập tức quyết đoán ngay; nếu thấy sự việc dễ dàng thành công mà không phải hao tốn sức lực thì lập tức quyết đoán ngay; nếu thấy sự việc khó khăn, mất nhiều công sức, song không thể dừng lại được mà vẫn phải làm tiếp thì nên lập tức quyết đoán ngay nếu thấy vẫn có thể làm được; nếu sự việc có thể thực thi mà không phải lo lắng thì lập tức quyết đoán ngay; nếu sự việc có thể mang lại hạnh phúc mà có thể thực thi thì lập tức quyết đoán ngay.
Quyết đoán sự vật nên được tiến hành theo quy luật. Trước hết, hiểu rõ sự thực rồi mới quyết đoán; Cần dựa vào “kỳ”, dĩ kỳ mưu sự; lấy thuật Âm Dương làm chính đế phụ cho “bình tố”, “khu cơ”; Cần “độ dĩ vãng sự, nghiệm chi lai sự, tham chi bình tố” có nghĩa là đánh giá dựa vào sự việc đã qua, kiểm nghiệm bằng sự việc sắp tới, kiểm chứng bằng sự việc thường xuyên xảy ra. Nếu có thể được thì quyết đoán ngay. Dù thế nào, người quyết sách cũng cần thận trọng và cẩn thận, để đưa ra sự quyết đoán chính xác.
Nguyên văn
Cố phu quyết tình định nghi, (1) vạn sự chi cơ. (2) Dĩ chính trị loạn, quyết thành bại, nan vi (3) giả. Cố tiên vương nãi dụng thi quy (4) giả, dĩ tự quyết (5) dã.
Chú thích
1. Quyết tình định nghi: Quyết đoán sự tình, giải quyết nghi ngờ.
2. Vạn sự chi cơ: Mấu chốt để xử lý mọi việc.
3. Nan vi: Rất khó làm tốt.
4. Thi quy: Vật để xem bói. Thi: tên một loại cỏ. Quy: mai rùa.
5. Tự quyết: Dùng để giúp bản thân quyết đoán.
Dịch nghĩa
Do vậy nói, quyết đoán sự tình, giải quyết nghi ngờ là điểm mấu chốt để xử lý mọi chuyện. Nó liên quan tới sự thái bình hay biến động trong xã hội, liên quan tới sự thành công hay thất bại trong sự nghiệp của một người, đây là một việc rất khó làm tốt. Bởi vậy, các tiên vương cổ đại thường dùng cỏ thi và mai rùa để xem bói, rồi dựa vào đó đưa ra sự quyết đoán của mình.
ĐIỂN CỐ MƯU LƯỢC
Trương Lương dựa vào tình thế để giải quyết nghi ngờ
Quỷ Cốc Tử nói: “Phàm quyết vật, tất thác vu nghi giả. Thiện kỳ dụng phúc, ác kỳ hữu hoạn; thiện chí vu dụ dã, trung vô hoặc thiên. Hữu lợi yên, khứ kỳ lợi, tắc bất thọ dã, kỳ chi sở thác”, “Vu thị độ dĩ vãng sự, nghiệm chi lai sự, tham chi bình tố, khả tắc quyết chi”
Chu Võ Vương là vị vua thế hệ đầu tiên của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông họ Cơ, tên Phát, là con thứ của Chu Văn Vương. Ông kế tục sự nghiệp của cha tiêu diệt triều Ân Thương vào thế kỷ 11 TCN, giành chính quyền toàn quốc, xây dựng triều Tây Chu. Ông đả trở thành vị vua nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc với tài năng quân sự, chính trị siêu việt của mình.
Năm Hán Cao Tổ thứ 2, Hán Vương Lưu Bang mắc sai lầm lớn trong chiến lược nên đã bị Hạng Vương đánh cho một trận thua tan tác ở Bành Thành, Lưu Bang chỉ dẫn theo vài chục tùy tùng trở về. Trong tình cảnh thất bại thảm hại này, Trương Lương đã vạch cho Lưu Bang một viễn cảnh tươi đẹp, lợi dụng mâu thuẫn, liên quân phá Sở. Đó chính là “Hạ Ấp chi mưu” nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc.
Không lâu sau “mưu kế Hạ Ấp”, Lưu Bang lại phạm vào một sai lầm nghiêm trọng, cũng may, nhờ vào tài của Trương Lương nên một lần nữa Lưu Bang lại cứu được đất nước.
Khi đó, quân Sở liên tục tập kích tuyến đường vận chuyển lương thực của quân Hán, khiến quân Hán thiếu lương thực nghiêm trọng, để giải quyết tình hình này, Hán Vương đã bàn với mưu sĩ Lịch Thực Kỳ xem nên làm thế nào để thực lực của quân Sở yếu đi.
Lịch Thực Kỳ hiến kế: “Trước đây, Thương Thang chinh phạt Hạ Kiệt, rồi phong đất Kỷ cho con cháu của Hạ Kiệt; Chu Võ vương chinh phạt Thương Trụ, rồi phong đất Tống cho con cháu Thương Trụ. Nếu ngày nay triều Tần làm việc thất đức, trái với đạo nghĩa, xâm chiếm các nước chư hầu, sau khi tiêu diệt sáu nước thì không cho con cháu của họ có chỗ dung thân. Nếu bệ hạ cấp đất cho con cháu của sáu nước này, để họ được nhận ấn tín của bệ hạ, thì quần thần, dân chúng của các nước này nhất định sẽ cảm tạ đại ân đại đức của bệ hạ, và ngưỡng mộ tài đức của bệ hạ, do đó sẽ cam tâm tình nguyện làm thần dân của bệ hạ. Nếu bệ hạ thực thi theo đạo nghĩa thì bệ hạ sẽ dễ dàng xưng bá thiên hạ, tới lúc đó, Sở Vương cũng sẽ mũ áo chỉnh tề tới bái kiến bệ hạ.”
Những lời nói này của Lịch Thực Kỳ như rót mật vào tai Lưu Bang, khiến Lưu Bang sung sướng, ngây ngất, Lưu Bang cười rất tươi nói với Lịch Thực: “Tiên sinh quả là cao kiến, mau tìm người khắc ấn tín, ta sẽ giao cho tiên sinh đi sứ sang sáu nước chư hầu!”
Lịch Thực Kỳ đang chuẩn bị lên đường thì đúng lúc này Trương Lương vào bái kiến Hán vương. Hán vương đang dùng bữa nên nói với Trương Lương: “Lại đây Tử Phòng, có một vị tân khách đã vạch cho ta một cách rất hay, có thể làm yếu đi thực lực của quân Sở”. Lưu Bang nói lại kế của Lịch Thực Kỳ cho Trương Lương nghe, rồi hỏi: “Ngươi thấy cách này hay chứ Tử Phòng?”
Trương Lương nghe xong, lắc đầu nói: “Đây là kế của người xưa, chỉ hợp với tình hình lúc đó, không hợp để áp dụng cho thời nay, nếu bệ hạ làm theo cách này thì đại nghiệp thống nhất thiên hạ của bệ hạ coi như là chấm hết!”.
Lưu Bang hoảng hốt, vội hỏi: “Sao lại như vậy?”
Trương Lương với tay lấy đôi đũa trên bàn mân mê rồi nói: “Xưa kia, sở dĩ Thang Thương, Chu Võ Vương phong đất cho con cháu Hạ Kiệt, Thương Trụ là vì thấy rằng mình có thể nắm vững được quyền sinh tử của họ trong tay. Còn hiện nay, Liệu bệ hạ có quyết định được vận mệnh của con cháu các chư hầu hay không? Đương nhiên là không thể. Đây là nguyên nhân thứ nhất khiến bệ hạ không thể phong đất cho con cháu sáu nước chư hầu. Xưa kia, Chu Võ vương tấn công kinh thành của Ân Thương, từng biểu dương đức hạnh của hiền nhân Thương Dung tại nhà ông ta, còn thả trung thần Cơ Tử đang bị cầm tù và tu sửa mộ phần của trung thần Tỷ Can, hiện nay liệu bệ hạ có làm được như vậy không? Đương nhiên là không thể. Đây là nguyên nhân thứ hai khiến bệ hạ không thể phong đất cho con cháu sáu nước chư hầu. Xưa kia, Chu Võ Vương có thể phát lương thực và tiền bạc cho Thương Trụ Vương để cứu giúp dân chúng đang trong cảnh khốn khó, còn hiện nay, liệu bệ hạ có thể làm như vậy không? Đương nhiên là không thể. Đây là nguyên nhân thứ ba khiến bệ hạ không thể phong đất cho con cháu sáu nước chư hầu. Xưa kia, sau khi tiêu diệt Ân Thương, Chu Võ Vương vứt bỏ xe chiến để dùng cỗ xe bình thường, vứt bỏ binh khí, rồi bẩm báo lên trời cao sẽ không dùng binh nữa, còn hiện nay bệ hạ có làm được điều đó không? Đương nhiên là không thể. Đây là nguyên nhân thứ tư khiến bệ hạ không thể phong đất cho con cháu sáu nước chư hầu. Xưa kia, Chu Võ Vương không chỉ vứt giáo mác vào kho, mà còn thả ngựa đầy Nam Sơn, và bẩm báo với trời cao sẽ không dùng tới giáo mác, chiến mã nữa, còn hiện nay bệ hạ có làm được điều đó không? Đương nhiên là không thể. Đây là nguyên nhân thứ năm khiến bệ hạ không thể phong đất cho con cháu sáu nước chư hầu. Xưa kia, Chu Võ Vương thả trâu bò chuyên vận chuyển lương thảo tới rừng đào ở phía bắc, và bẩm báo lên trời cao sẽ không dùng trâu bò để vận chuyển lương thảo nữa, còn hiện nay bệ hạ có làm được điều đó không? Đương nhiên là không thể. Đây là nguyên nhân thứ sáu khiến bệ hạ không thể phong đất cho con cháu sáu nước chư hầu. Cuối cùng, nguyên nhân quan trọng nhất là: sở dĩ mưu thần sách sĩ trong thiên hạ từ biệt bố mẹ, anh em mình, để lại vợ con nơi quê nhà, rời bỏ nơi chôn rau cắt rốn và tạm biệt bạn bè, người thân để theo bệ hạ chinh chiến khắp nơi, chẳng qua là vì muốn được phong một chút đất của triều đình. Hiện nay, lại thấy bệ hạ phong đất cho thế hệ con cháu của sáu nước, đã thế còn khiến mưu thần sách sĩ trong thiên hạ lũ lượt trở về quê hương để phụng dưỡng, hầu hạ quân vương của họ, lúc đó, bệ hạ còn dựa vào ai để chiếm đoạt thiên hạ đây? Đây là nguyên nhân thứ bảy khiến bệ hạ không thể phong đất cho con cháu của sáu nước chư hầu. Huống hồ, hiện tại chỉ có Hạng Vương mới là người có thực lực mạnh nhất, nếu khôi phục lại con cháu sáu nước, mà họ lại quay sang thần phục Hạng Vương thì bệ hạ còn khiến họ thần phục mình không? Đây là nguyên nhân thứ tám khiến bệ hạ không thể phong đất cho con cháu sáu nước chư hầu. Bởi vậy, thần mới nói, nếu bệ hạ nghe theo mưu kế của vị tân khách này thì nhất định đại kế thống nhất thiên hạ của bệ hạ sẽ tan thành mây khói”.
Hán vương nghe vậy chợt bừng tỉnh, không nuốt trôi nổi miếng cơm nào nữa, quát lớn: “Tên tân khách này quả là ngốc nghếch, suýt làm hỏng việc lớn của ta!” Nói xong thì hạ lệnh dừng việc khắc ấn tín lại.
Trương Lương quả là có con mắt tinh đời, ông phân tích tình hình rất cụ thể và chi tiết. Ông hiểu rõ sự khác biệt của thời thế, do đó không thể dùng cách của “cổ thánh tiên hiền” để áp dụng cho thời nay được. Nhà chính luận Tuân Duyệt cuối năm Đông Hán đã Chú thích và phân tích việc này như sau:
“Có ba yếu tố quan trọng quyết định quyết sách thắng lợi hay thất bại: Thứ nhất là hình, thứ hai là thế và thứ ba là tình. Hình là chỉ xu hướng được và mất về đại thể; Thế là chỉ tình thế ứng phó linh hoạt và tùy cơ ứng biến khi xảy ra vấn đề; Tình là chỉ trạng thái tâm lý kiên cường, có ý chí hay là mệt mỏi, rệu rã. Bởi vậy, cùng là một sách lược, cùng là một sự việc song hiệu quả thu về lại khác nhau, đó chính là do có sự khác biệt trong việc vận dụng ba yếu tố quan trọng này.
Mới đầu, Trương Nhĩ, Trần Dư khuyên Trần Thắng kiếm cớ khôi phục sáu nước để mở rộng vây cánh của mình, Lịch Thực Kỳ cũng khuyên Hán Vương Lưu Bang như vậy. Sở dĩ cùng khuyên giống nhau, song kết quả có được lại khác khau là vì, khi Trần Thắng khởi binh làm phản chống Tần thì người trong thiên hạ đều muốn tiêu diệt triều Tần. Còn hiện tại, Tần và Hán còn chưa phân định tình thế, người trong thiên hạ chưa chắc đã muốn tiêu diệt Hạng Vũ. Bởi vậy, khôi phục lại thế hệ con cháu sáu nước, đối với Trần Thắng mà nói thì chính là mở rộng vây cánh của mình và làm lớn mạnh kẻ địch của triều Tần. Huống hồ, khi đó Trần Thắng còn chưa có đất trong thiên hạ, thì chính là đem tặng những thứ không phải của mình cho người khác, do đó lấy được lòng người khác. Còn việc khôi phục lại thế hệ con cháu sáu nước đối với Hán Vương mà nói thì lại là đem tặng đồ vật của mình cho quân địch, tưởng là tạo được tiếng thơm, song thực tế là chịu tổn thất. Đây chính là ví dụ cho thấy sự tình giống nhau mà kết quả khác nhau.
Có thể nói, không thể dự đoán trước được sự thay đổi của thời thế, không thể lường trước được sự thay đổi của trạng thái sự vật, cần phải biến đổi theo sự biến đổi của thời thế, thay đổi theo sự thay đổi của trạng thái sự vật, đó là điểm mấu chốt của việc vạch định sách lược”.
Lưu Bá Ôn tùy cơ ứng biến, tính toán như thần
Người có thể tùy cơ ứng biến phải có tố chất linh hoạt, giỏi ứng phó với mọi tình huống xảy ra, chứ không thể ngồi ỳ một chỗ, bị động nhìn sự việc xảy ra mà không có bất cứ phản ứng nào. Khi thời cơ tới, cần phải tập trung tinh thần, mới có thể nghĩ ra được mưu kế kỳ diệu, mới có được quyết sách chính xác. Lưu Bá Ôn có khả năng tính toán như thần, được mọi người cho là sánh ngang với Gia Cát Lượng. Ông là người mưu trí, giỏi lường trước sự thay đổi thế cục, biết nắm bắt thời cơ để từ đó đưa ra quyết sách đúng đắn.
Năm Chí Chính thứ 20, Lưu Bá Ôn tới Ứng Thiên, lúc này danh tiếng của ông đã được nhiều người biết đến. Chu Nguyên Chương đã sai người mang lễ vật tới mời Lưu Bá Ôn tới gặp mặt. Đây là một cuộc gặp gỡ hết sức quan trọng, là mưu sĩ thì cần trổ hết tài năng của mình để cho minh chủ thấy rõ.
Lưu Bá Ôn ôm ấp hoài bão lớn, nắm vững “Trần thời vụ thập bát sách” (18 sách lược vận dụng trong tình thế đương thời), quyết tới giúp Chu Nguyên Chương tạo dựng sự nghiệp. Buổi gặp mặt diễn ra vui vẻ, có chút hơi men trong người, Chu Nguyên Chương vô cùng cao hứng, chưa vội đề cập tới sách lược ngay mà chỉ hỏi Lưu Bá Ôn: “Tiên sinh có biết làm thơ không?”. Lưu Bá Ôn trả lời: “Nho gia lắm tài vặt, có gì mà không thể làm được”. Chu Nguyên Chương chỉ vào đôi đũa trước mặt nói: “Lấy đôi đũa làm chủ đề nhé”.
Lưu Bá Ôn suy nghĩ một lát, rồi ngâm: “Nhất song Tương Giang ngọc tính khan; Nhị phi tằng sái lệ ngân ban” (Một đôi ngọc Tương Giang cùng xem; Hai nàng phi từng nhỏ lệ còn in dấu nước mắt), câu này chính là nhắc tới điển cố hai cung phi của vua Thuấn là Nga Hoàng và Nữ Anh khóc thương vua khi vua chết, nước mắt của họ vẩy lên cây trúc tạo thành những vết đốm, sau này được gọi là trúc đốm tương phi. Chu Nguyên Chương nghe vậy tấm tắc khen: “Quả là phong cách của văn nhân!”.
Lưu Bá Ôn thấy vậy đổi ngay đề tài, ngâm tiếp: “Hán gia tứ bách niên thiên hạ; Tận tại Trương Lương nhất tá gian” (thiên hạ bốn trăm năm của nhà Hán, đều là nhờ vào một lần mượn đũa của Trương Lương), câu này chính là nhắc tới điển cố Lưu hầu Trương Lương mượn đũa làm kế giúp nhà Hán diệt nhà Tần. Do đó, hai câu thơ này đã thể hiện được hoài bão của Lưu Bá Ôn, hơn nữa còn gãi đúng chỗ ngứa của Chu Nguyên Chương.
Chu Nguyên Chương sung sướng vô cùng, hận vì đã gặp Lưu Bá Ôn quá muộn, vội vàng hỏi Lưu Bá Ôn xem bình định thiên hạ ra sao. Lúc này, Lưu Bá Ôn mới vận dụng “Trần thời vụ thập bát sách”. Làm thơ chỉ là sự mào đầu, không phải là vấn đề chính, song nó lại vô cùng quan trọng để tạo ấn tượng tốt đẹp trong lần đầu gặp mặt. Sau khi Lưu Bá Ôn nghe thấy Chu Nguyên Chương khen mình có phong cách bậc văn nhân thì hiểu ngay rằng, sự nghiệp bình định thiên hạ không phải việc của nhà văn, nhà thơ bình thường, mà là của nhà mưu lược.
Khi đó, Chu Nguyên Chương đã có Lý Thiện Trường giỏi sánh ngang Tiêu Hà, lại có Từ Đạt giỏi sánh ngang Hàn Tín, chỉ đang thiếu mưu thần sánh ngang Trương Lương mà thôi. Bởi vậy, sự nhanh trí, giỏi tùy cơ ứng biến của Lưu Bá Ôn trong lần đầu gặp Chu Nguyên Chương đã cho thấy rõ, ông có thể trở thành một Trương Lương tài ba xuất chúng, đúng là người mà Chu Nguyên Chương đang cần.
Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương
Chu Nguyên Chương thuở nhỏ tên là Trọng Bát, còn gọi là Hưng Tông, tự là Quốc Đoan. Ông là người Chung Ly, Hào Châu, xuất thân trong gia cảnh khốn khó, thời niên thiếu từng làm sư ở chùa Hoàng Giác. Cuối nhà Nguyên, ông tham gia đội quân Khăn Đỏ do Quách Tử Hưng làm thủ lĩnh tiến đánh nhà Nguyên, xưng là Ngô Quốc Công, sau xưng là Ngô Vương, sau này ông còn tiêu diệt Trần Hữu Lượng và Trương Sĩ Thành. Ông xuất binh bắc phạt triều Nguyên và tấn công kinh thành triều Nguyên và hoàn thành đế nghiệp sau 15 năm. Năm 1368, Chu Nguyên Chương lấy phủ Ứng Thiên làm kinh đô, lập nên triều Minh với quốc hiệu là Đại Minh, niên hiệu là Hồng Vũ.
Chỉ mưu trí không thôi chưa đủ, còn cần sự kiên nghị và thận trọng, Trước các biến đổi, cần phải nắm bắt thời cơ, hơn nữa còn cần thận trọng suy nghĩ, không được hành động nông nổi.
Năm Long Phượng thứ 6, Trần Hữu Lượng dẫn quân tiến đánh Thái Bình, đội quân của Trần Hữu Lượng hùng dũng tiến vào thành Nam Kinh, ông ta còn phái sứ giả tới gặp Trương Sĩ Thành, nói rằng hẹn Trương Sĩ Thành tiến đánh Nam Kinh từ phía sau. Quân của Trần Hữu Lượng lúc này rất mạnh và tràn đầy khí thế, bởi vậy rất nhiều tướng lĩnh của Chu Nguyên Chương tỏ ra sợ hãi, có người khuyên nên đầu hàng, có người khuyên nên từ bỏ Nam Kinh, kiên trì trấn giữ Chung sơn ở Thành Đông là được. Rất nhiều ý kiến được đưa ra trong cuộc họp trước trận chiến, duy chỉ có Lưu Bá Ôn là không nói gì. Chu Nguyên Chương gọi ông vào trong phòng, hỏi ý kiến của ông. Có lẽ, đây vừa là thử thách, cũng là cơ hội đối với Lưu Bá Ôn. Trước kẻ địch lớn mạnh, nếu hoảng sợ thì quả là xấu hổ trước Chu Nguyên Chương, còn nếu tìm ra được kế sách hay đẩy lui được quân địch thì sẽ tạo được niềm tin rất lớn đối với Chu Nguyên Chương. Do đó, Lưu Bá Ôn nói với giọng kích động: “Ai chủ trương đầu hàng và bỏ chạy thì sẽ chém đầu”.
Lưu Bá Ôn không dám liều lĩnh làm gương, cũng không phải đủ dũng cảm, song ông đã đủ bình tĩnh để phân tích tình thế hỗn loạn trước mắt và phát hiện thấy điểm yếu của kẻ địch và điểm mạnh của phe mình. Bởi vậy, trước hết ông thể hiện rõ quyết tâm “chống cự đến cùng”, để lấy lại tinh thần cho những người có chủ trương hàng. Trước kẻ địch mạnh, còn chưa đọ binh đao, mà đã nói tới chuyện đầu hàng thì sẽ không thể làm lật ngược được tình thế. Lưu Bá Ôn đã kiên quyết nói rằng “kẻ nào chủ trương hàng và bỏ chạy thì sẽ chém đầu”, điều này có tác dụng ổn định cục thế, yên ổn lòng quân. Tiếp đến, ông chỉ ra điểm yếu của kẻ địch và đề ra sách lược quân sự chống lại kẻ địch; Kẻ địch đang kiêu căng, nôn nóng, sức khỏe lại giảm sút do từ xa tới. Bên ta có thể lợi dụng điểm yếu này của kẻ địch để “dĩ dật đãi lao”, dụ kẻ địch vào sâu, rồi mai phục và tiêu diệt. Kế nữa, Lưu Bá ôn để ra sách lược chính trị chống lại kẻ địch dựa vào sự đoàn kết nhất trí của quân ta: Mở kho tàng, thưởng cho tướng sĩ, cứu tế dân nghèo, tuyên bố toàn dân đoàn kết, nhất trí một lòng cùng giúp đất nước. Có thể thấy, những lời phân tích này của Lưu Bá Ôn quả là rõ ràng và chính xác, cho thấy rõ tài năng của ông không kém gì so với Chu Du trong trận Xích Bích, lại sánh ngang với Gia Cát Lượng khẩu chiến quần nho.
Không hoang mang, nao núng trước sự biến đổi, đó là điều kiện tiên quyết của việc nhận biết thời cơ. Khi thời cơ tới thì phải nắm bắt ngay, quyết đoán quyết sách, dụng binh thần tốc, không được lề mề chậm trễ, đáng quyết mà không quyết.
Sau khi đánh bại Trần Hữu Lượng trong cuộc chiến Long Loan, một năm sau đó, Chu Nguyên Chương mới bắt đầu tiến đánh đội quân còn sót lại của Trần Hữu Lượng. Tháng 8 năm Chí Chính thứ 21, Chu Nguyên Chương chinh chiến phía tây, cuộc chiến giữa hai bên đã diễn ra ác liệt tại An Khánh.
Lý Thiện Trường
Lý Thiện Trường là đại thần đầu thời Minh, tự là Bách Thất, người Định Viễn. Năm Chí Chính thứ 14, ông tới làm việc cho Chu Nguyên Chương, nắm giữ giấy tờ, sổ sách, trợ giúp Chu Nguyên Chương bình định thiên hạ, làm quan tới chức tả thừa tướng, được phong Hàn Quốc Công, sau này, bị xử chết do liên quan tới vụ án Hồ Duy Dung.
Đội quân giữ thành kiên quyết không ra, liều chết giữ thành tới cùng. Từ sáng sớm tới tối mịt, tình hình vẫn không có gì tiến triển, hai bên đều bị thương nặng nề. Lưu Bá Ôn phân tích cho Chu Nguyên Chương thấy rằng: Thực lực của Trần Hữu Lượng rất mạnh, hơn nữa đội quân của Trương Sĩ Thành có thể tập kích từ phía sau bất cứ lúc nào, quân ta đang ở trong tình thế khó khăn, cứ để tình hình này kéo dài thì rất dễ gặp nguy hiểm, do vậy cần đánh nhanh quyết nhanh thì mới có thể khiến Trần Hữu Lượng hoảng sợ, khiến Trương Sĩ Thành nhụt chí, cũng chính là cần phải kiểm soát kẻ địch để giành phần thắng. Lưu Bá Ôn khuyên Chu Nguyên Chương từ bỏ kế hoạch tấn công thành, thực hiện chiến lược “lục quân và cánh quân vây thành” để nghi binh, hối thúc thủy binh mau chóng tiến lên, đánh thẳng vào sào huyệt của Trần Hữu Lượng ở Giang Châu.
Chu Nguyên Chương cứ theo kế mà làm. Trước sự uy hiếp của đại quân Chu Nguyên Chương, cánh quân được bố trí dọc sông của Trần Hữu Lượng sợ hãi bỏ chạy tan tác, thủy quân của Chu Nguyên Chương thừa thắng xông lên, tiến tới thành Giang Châu. Có nằm mơ, Trần Hữu Lượng cũng không ngờ rằng kẻ địch lại bất ngờ tấn công như vậy, ông ta vội vã đưa vợ con chạy trốn ngay trong đêm tới Võ Xương. Giang Châu là kinh thành của chính quyền Trần Hán, vùng đất này vừa bị mất thì gây chấn động khắp Giang Tây, An Khánh cũng chẳng cần đánh mà vẫn chiếm được.
Không nằm ngoài dự đoán của Lưu Bá Ôn, khi Trương Sĩ Thành nhận được tin Chu Nguyên Chương tấn công phía tây, sau một hồi do dự đã điều động chục vạn binh, kết hợp với thủy lục, cùng tấn công thành Trường Hưng - vị trí quan trọng nối liền bờ tây Thái Hồ tới Ứng Thiên. Lúc này, lính giữ thành Trường An không quá 7 nghìn, tình hình cực kỳ nguy cấp. Tuy nhiên, Lưu Bá Ôn và Chu Nguyên Chương đã dụng binh thần tốc, quyết đoán quyết sách, hiểu rõ sự lề mề chậm chạp trong việc bày binh bố trận của Trương Sĩ Thành, do vậy khi quân của Trương Sĩ Thành tới được Trường Hưng, thì Chu Nguyên Chương sớm đã thắng trận ở tuyến tây. Trương Sĩ Thành tưởng tới đánh úp từ phía sau, nào ngờ lại phải đối diện với quân địch đang ở thế thắng, bởi vậy đành phải mau chóng lui binh.
Khi còn sống, Lưu Bá Ôn đã được coi là nhân vật có tài tiên đoán, lường trước mọi sự việc xảy ra. Những việc ông dự đoán đa phần đều xảy ra đúng như vậy, ngoài ra, ông còn am hiểu Âm Dương Ngũ hành, được người đời cho là nắm vững thiên cơ. Kỳ thực, điều này ở ông chính là thứ mà Chu Nguyên Chương cần, mọi người cũng tin rằng chính quyền trong tay ông đại diện cho ý trời.
Lưu Bá Ôn
Lưu Bá Ôn tên là Lưu Cơ, tự Bá Ôn, là một trong những công thần khai quốc triều Minh. Ông có tài quân sự, mưu lược, rất được Chu Nguyên Chương trọng dụng. Ông không chỉ là nhà mưu lược tài ba, mà còn là nhà văn, học giả xuất chúng. Ông để lại cho đời rất nhiều tác phẩm như 10 tập “Úc Ly Tử”, 20 tập “Thành Ý Bá văn tập”. Trong đó, bộ “Úc Ly Tử” chiếm vị trí quan trọng trong lịch sử văn học và tư tưởng của người Trung Quốc.
Những dự đoán của Lưu Bá Ôn đại thể có thể chia làm ba loại: Thứ nhất là dự đoán lâu dài, mang ý nghĩa chiến lược, thuộc về phạm trù mưu lược. Quyết sách và sự dự đoán chiến lược của ông đối với Trần Hữu Lượng và Trương Sĩ Thành thuộc loại này. Thứ hai, dự đoán mang tính đề phòng, chỉ ra khả năng ở một giai đoạn nào đó sẽ xảy ra tai họa và nguy hiểm. Đây cũng chính là tiến hành dự đoán cục diện dựa trên sự nắm bắt và cảm nhận. Con người nhờ dự đoán trước mà có thể tránh được tai họa hoặc giảm bớt áp lực về mặt tâm lý. Con người thường ghi nhớ sự dự đoán trước để kiểm chứng thực tế, từ đó loại bỏ đi những nhân tố không đúng. Thứ ba là dự đoán sự biến đổi của sự vật và hành vi trong thời gian ngắn.
Nghe nói, trong đại chiến hồ Phồn Dương, Lưu Bá Ôn đột nhiên dự đoán trước được tình hình xấu, đã đổi thuyền cho Chu Nguyên Chương. Không lâu sau đó, quả nhiên thuyền mà Chu Nguyên Chương ngồi trước đó đã bị tấn công, chìm nghỉm dưới nước. Tuy nhiên, những dự đoán trong thời gian ngắn của ông vẫn còn mơ hồ, xem ra không rõ ràng. Là một người biết tùy cơ ứng biến thì cần hiểu rằng, dù là chính quyền hay bản thân mình đều cần đảm bảo tính thần bí, bởi vậy, khi đang dự đoán cũng cần tùy cơ ứng biến, bởi lẽ càng tùy cơ, càng mơ hồ thì càng dễ tạo ra không khí thần bí.
Tháng 2 năm Chí Chính thứ 22, Lưu Bá Ôn trở về Thanh Điền lo liệu tang lễ cho mẹ, lúc này Chu Nguyên Chương vừa đánh bại Trần Hữu Lượng ở Giang Tây. Có lẽ, Lưu Bá Ôn cảm nhận được nhân tố nguy hiểm tiềm ẩn trong nội bộ Chu Nguyên Chương sắp sửa bột phát, có lẽ ông quan sát thấy âm mưu làm phản trong triều đình nên đã viết ngay cho Chu Nguyên Chương một bức thư nói rằng vào giữa tháng 6 hoặc 7 khởi binh hoặc làm chuyện gì đều bất lợi, chính là nói mọi việc trong tháng 6 và 7 đều không may mắn. Và đúng như ông dự đoán vào tháng 7 đã xảy ra cuộc mưu sát Chu Nguyên Chương do Thiệu Vinh và Triệu Tục Tổ cầm đầu, may mà Chu Nguyên Chương đề phòng cẩn thận nên thoát nạn, từ đó Chu Nguyên Chương càng khâm phục Lưu Bá Ôn hơn. Kỳ thực, Lưu Bá Ôn lại không trực tiếp nói rằng sẽ có chuyện hành thích, mà chỉ nói bất lợi cho việc xuất binh mà thôi.
Lưu Bá Ôn để lại ấn tượng về một người tài trí, thông minh và sáng suốt trong lòng mọi người. Sự quyết đoán, cùng với khả năng tùy cơ ứng biến, phán đoán mơ hồ sự việc trong lúc cần thiết của ông chính là bài học để cho người đời sau học tập.
Mãn Sủng dũng cảm quyết đoán trong lúc nguy cấp
Trong phần này, Quỷ Cốc Tử tiên sinh đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc “quyết”, cho rằng quyết là “gốc rễ của mọi vấn đề”, có ảnh hưởng rất lớn tới phúc họa, thành bại, rối loạn chính trị. Quyết đoán chính xác thì sẽ thành công; ngược lại, quyết đoán sai thì sẽ gặp tai họa. Không quyết đoán kịp thời, đáng quyết đoán mà không quyết đoán thì khó mà đạt được mục đích.
Tướng Ngụy thời Tam Quốc Mãn Sủng là một người giỏi quyết đoán, ông tự là Bá Ninh, người Xương Ấp, Sơn Dương thời cuối nhà Hán đầu nhà Ngụy, là tướng quân đắc lực của Ngụy Vương Tào Tháo, Văn Đế Tào Phi và Ngụy Minh Đế. Ông giỏi vạch mưu kế, bình tĩnh khi đối mặt với nguy hiểm, nhiều lần xông pha trận mạc bất chấp tính mạng và cũng có không ít lần làm thay đổi cục diện nguy thành an.
Năm Kiến An thứ 13, sau khi thảo phạt Kinh Châu, Tào Tháo đã bổ nhiệm Mãn Sủng làm tướng quân phấn uy, đóng quân ở Đương Dương, ông rất được lòng binh lính và dân chúng ở đó. Sau này, bị Tôn Quyền quấy rối ở phía đông, Tào Tháo lại cử Mãn Sủng làm thái thú Nhữ Nam, phong tước Quan Nội Hầu. Trong thời kỳ này, Mãn Sủng tỏ rõ tài năng chính trị xuất chúng của mình, và đã lập nên nhiều chiến công hiển hách, do đó rất được lòng Tào Tháo, đương nhiên càng được Tào Tháo trọng dụng.
Năm Kiến An thứ 24, Lưu Bị xây dựng nước Thục, định đô ở Thành Đô, và trở thành vua Hán Trung. Sau khi lập nước, Hán Trung Vương Lưu Bị quyết định tấn công nước Ngụy, với mong muốn thống nhất thiên hạ trên danh nghĩa là chính thống Hán Vương thất. Lưu Bị lệnh cho Quan Vũ bao vây Tương Dương, tấn công Phàn Thành. Phàn Thành là khu vực quân sự quan trọng phía nam Hoàng Hà, mất Phàn Thành thì coi như phía nam Hoàng Hà thuộc cả về nước Thục. Đại tướng trấn giữ Phàn Thành khi đó là Tào Nhân, Tào Nhân dũng cảm, giỏi đánh trận, song lại không có mưu. Do đó, Tào Tháo thấy không an tâm, đã phái Mãn Sủng tới trợ giúp Tào Nhân bảo vệ Phàn Thành.
Khi đó, nước sông Tương Giang lên rất cao, đại tướng Quan Vũ nước Thục bèn chỉ huy quân lính bơi ra chỗ nước nông đổ đầy sỏi đá ở đó, rồi cho xây đê dọc Tương Giang, đợi khi nước lên cao tới mức cần thiết thì sẽ phá đê cho nước tràn vào.
Khi nước sông Tương Giang ồ ạt đổ vào, tướng sĩ của bảy đạo quân do tướng Tào là Vô Cấm dẫn đầu đóng ở chỗ thấp đều bị nước sông dìm chết, bảy đạo quân tan tác, Vô Cấm bị ép đầu hàng. Nước sông vẫn tiếp tục lên cao không rút, chỉ cần nước dâng cao thêm vài mét nữa là sẽ tràn vào thành. Trong Phàn Thành, Tào Nhân chỉ có vài nghìn binh mã, mà quân của Quan Vũ lại đang ồ ạt chèo thuyền tiến lại.
Trong ngoài Phàn Thành bị phân cách, quân cứu viện thì chưa tới, lương thảo thì gần hết, mọi người đều hoang mang lo lắng, không biết phải làm thế nào.
Tào Nhân cùng mọi người bàn bạc đối sách. Một tướng lĩnh nói với Tào Nhân: “Hiện Phàn Thành đang gặp nguy khốn, trước mắt chúng ta chưa thể cứu được. Chi bằng nhân lúc Quan Vũ còn đang bao vây bên ngoài, chưa tấn công quyết liệt, ta tìm kẽ hở, chèo thuyền đột phá vòng vây ngay trong đêm nay, như vậy, vừa không mất Phàn Thành mà lại bảo toàn được tính mạng.” Rất nhiều người đồng tình với ý kiến này, song Mãn Sủng lại phản đối.
Mãn Sủng nói: “Trước mắt, chúng ta bị nước sông vây khốn, tình thế vô cùng cấp bách. Song nước sông dâng nhanh thì rút cũng nhanh. Nghe nói Quan Vũ còn cử một đội quân tới Giáp Thành, có lẽ đã gây hoang mang cho dân chúng ở phía nam Hứa Đô, nên mọi người đang táo tác bỏ chạy. Tuy nhiên, sở dĩ hiện nay Quan Vũ còn chưa dám tấn công Hứa Đô ngay là vì sợ rằng đội quân của chúng ta sẽ chặn đường rút chạy của chúng. Mặc dù, hiện tại chúng ta có thể bỏ chạy, song nếu chúng ta chạy thì vùng phía Nam Hoàng Hà này sẽ không còn thuộc về nước Ngụy nữa. Theo tôi thì vẫn nên đợi. Hơn nữa, dù nước sông gây bất lợi cho chúng ta, song cũng bất lợi cho quân Thục tấn công chúng ta, chúng ta cố thủ Phàn Thành cũng không vấn đề gì, chỉ cần nước rút đi thì nhất định sẽ có quân cứu viện tới. Chúng ta sẽ được cứu thoát”.
Mọi người im lặng không ai nói được lời nào, Tào Nhân cũng do dự không quyết.
Trong thời khắc nguy cấp này, Mãn Sủng hiểu rằng, các tướng lĩnh phải chịu sức ép quá lớn do thời thế liên tục thay đổi, do đó cần phải ổn định lại tâm lý mọi người, để họ có quyết tâm bảo vệ thành, nếu không, chỉ cần bỏ chạy thì coi như số phận nằm chắc trong tay quân Thục rồi, có quay về nước Ngụy thì cũng sẽ phải chịu hình phạt mà thôi. Nghĩ vậy nên ông đã dắt con ngựa trắng yêu quý của mình, bảo tất cả các tướng sĩ trong thành lên trên tường thành. Phía dưới tường thành nước chảy cuồn cuộn, mọi người đều không biết lên đây để làm gì. Mãn Sủng lệnh cho quân lính bày bàn thờ cúng, rồi kéo ngựa trắng dìm xuống nước cho nó chết chìm để làm vật tế lễ lên trời cao, sau đó nói với mọi người rằng: “Chúng ta hãy thề với trời cao rằng, quyết bảo vệ Phàn Thành tới cùng!”
Tào Nhân thấy được lòng quyết tâm của Mãn Sủng thì như được tiếp thêm sức mạnh, nói với các tướng sĩ: “Được, thề bảo vệ Phàn Thành tới cùng!”. Thế là mọi người cùng thề. Lúc đó sĩ khí được đẩy lên rất cao, không còn ai có ý định bỏ chạy nữa.
Quả nhiên, không lâu sau đó, nước sông rút xuống. Tào Tháo phái đại tướng Từ Hoảng dẫn quân tới cứu viện, Mãn Sủng lãnh đạo binh mã chống cự tới cùng, trong ngoài hợp sức, cuối cùng Quan Vũ phải rút lui.
Quan Vũ
Quan Vũ sinh ra dưới triều Hằng Đế nhà Đông Hán, tự là Vân Trường, còn gọi là Trường Sinh, là người huyện Giải, Hà Đông. Ông là tướng lĩnh nổi tiếng của Thục Hán thời Tam Quốc. Ông rất được dân chúng yêu quý và tôn sùng làm Quan Thánh Đế Quân, Phật giáo gọi ông là Già Lam Bồ Tát. Ông được các bậc vua sau này gọi là “Võ thánh”, sánh ngang với hiệu “Văn thánh” của Khổng Tử.
Tào Tháo hết lời khen ngợi lòng trung thành, quả cảm của Mãn Sủng, và phong cho ông làm An Xương Đình Hầu.
Trong lúc nguy khốn, không nao núng, không sợ hãi, mà phải chứng tỏ dũng khí của mình. Là tướng lĩnh, chỉ dũng cảm không thôi chưa đủ, còn cần có đầu óc dự tính mọi chuyện. Khi nguy cấp, thể hiện rõ sự dũng cảm, anh hùng, khi tình thế biến chuyển theo chiều hướng xấu, biết an định lòng người, khơi gợi ý chí chiến đâu, đó cũng là một kiểu thể hiện sự quyết đoán.
Hạng Vũ do dự gây ra quả nghiêm trọng
Quyết đoán đúng thời điểm là việc vô cùng quan trọng để thành công. Nếu để lỡ thời điểm tốt nhất thì sẽ dễ bị thất bại. Khi thời cơ chín muồi thì phải nhanh chóng nắm bắt lấy, đưa ra quyết đoán thì khả năng thành công sẽ cao nhất, ngược lại, để lỡ thời cơ, không hoàn thành việc lớn, thì sẽ phải hối hận cả đời.
Cuối triều Tần, quân khởi nghĩa nổi lên ở khắp các ngả đường, trong đó có hai đội quân mạnh nhất là của Lưu Bang và Hạng Vũ. Họ từng hẹn với nhau rằng, ai tấn công được kinh đô Hàm Dương của triều Tần trước thì người đó sẽ được xưng vương ở Quan Trung. Kết quả là, Lưu Bang đã tránh quân chủ lực của triều Tần, đi vào lối nhỏ hoang vu, vắng bóng quân địch. Nhờ vậy, Lưu Bang đã tới được Hàm Dương mà không phải trải qua những cuộc chiến đẫm máu với quân chủ lực triều Tần. Tần Tam Thế là Tử Anh đã đầu hàng Lưu Bang vô điều kiện, thế là Lưu Bang đã chiếm cứ được Hàm Dương trước, kiểm soát được Hàm Cốc quan. Còn Hạng Vũ đi men theo lưu vực Hoàng Hà, đây là tuyến đường tấn công vào cửa chính của Quan Trung, dù Hạng Vũ có 10 vạn kỵ mã tài giỏi, đi đến đâu thắng lợi đến đó, song do liên tục phải chiến đấu trong nhiều ngày nên tốc độ hành quân của Hạng Vũ bị chậm lại. Khi Hạng Vũ tới được Hàm Cốc quan thì đã thấy Lưu Bang ở đó trước rồi.
Hạng Vũ vô cùng tức giận, ông ta nghĩ mình có hơn 40 vạn quân mà không thể xưng vương, trong khi Lưu Bang chỉ có 10 vạn binh mã mà lại xưng vương. Bởi vậy ông ta muốn quyết chiến với Lưu Bang một trận ở Quan Trung. Hạng Vũ có một người chú họ tên là Hạng Bá có quan hệ tốt đẹp với mưu sĩ Trương Lương của Lưu Bang. Khi biết tin này, Hạng Bá vội vàng tới doanh trại của Lưu Bang tìm gặp Trương Lương, khuyên Trương Lương mau chóng rút lui. Trương Lương không muốn phản bội Lưu Bang, bèn giới thiệu Hạng Bá lên Lưu Bang, Lưu Bang nhiệt tình tiếp đón Hạng Bá, đồng thời kết thông gia với Hạng Bá. Hạng Bá khuyên Lưu Bang tới Chú thích, xin lỗi Hạng Vũ để tránh đại chiến xảy ra.
Ngày hôm sau, Lưu Bang mang theo hơn 100 người tới Hồng Môn xin được vào gặp Hạng Vũ để tạ lỗi, Chú thích cho Hạng Vũ hiểu rằng ông vốn chưa từng có ý định xưng vương tại Quan Trung, mà ngôi vị này chỉ có Hạng Vũ là xứng đáng. Chẳng qua là ông may mắn mới tới Quan Trung trước Hạng Vũ mà thôi. Ông chỉ là muốn giúp Hạng Vũ giữ cửa chính Quan Trung, không cho kẻ khác tới cướp mất. Hạng Vũ nghe vậy, nguôi ngoai phần nào. Mưu sĩ Phạm Tăng của Hạng Vũ từng khuyên Hạng Vũ trừ khử Lưu Bang trong tiệc rượu, Hạng Vũ cũng đã đồng ý và sớm bố trí quân mai phục, hẹn trước rằng khi Hạng Vũ nâng cốc lên thì lập tức ra tay hành động ngay. Tuy nhiên, trong bữa tiệc, Lưu Bang lại tỏ ra cung kính, khúm núm trước Hạng Vũ, Hạng Vũ là người thẳng tính, không giỏi mưu kế, thấy thái độ này của Lưu Bang thì hết cả tức giận, còn nhớ gì tới kế hoạch giết Lưu Bang nữa!
Mặc dù Phạm Tăng đã vài lần ra hiệu, song Hạng Vũ đều không nhìn thấy, không hề có phản ứng gì. Phạm Tăng thấy kế hoạch không được thi hành thì gọi người anh em của Hạng Vũ là Hạng Trang lại và nói: “Hạng vương nhân từ quá, có lẽ không thể ra tay trừ khử Lưu Bang được. Ngươi mau chóng biểu diễn múa kiếm, rồi nhân cơ hội đó giết chết Lưu Bang!” Hạng Trang bèn dâng rượu, xin được múa kiếm cho mọi người xem. Hạng Trang múa càng ngày càng hăng, lưỡi kiếm sáng loáng lướt qua lướt lại, Hạng Trang dần dần tiến lại phía Lưu Bang. Hạng Bá nhìn thấy vậy thì nói với Hạng Vũ: “Một người múa kiếm, không hay, để tôi được múa kiếm cùng anh ta!” Nói xong, Hạng Bá cũng cầm kiếm lên múa, ngầm lấy thân mình che chắn cho Lưu Bang, khiến Hạng Trang không có cơ hội ra tay giết Lưu Bang. Trương Lương thấy tình hình này vội nói với võ tướng của Lưu Bang là Phàn Khoái rằng: “Hạng Trang đang múa kiếm là có ý đồ giết Bái Công!” Phàn Khoái nghe vậy, lập tức cầm vũ khí xông lên bàn tiệc. Hành động dũng cảm không sợ Hạng Vũ của Phàn Khoái đã khiến Hạng Vũ vô cùng tán thưởng, Hạng Trang mới múa xong một bài thì dã bị Phàn Khoái làm rối tung hết lên. Một lát sau, Lưu Bang kiếm cớ đi vệ sinh, rồi lén bỏ trốn, Trương Lương bảo ông mau chóng trở về doanh trại, nếu không sẽ khó bảo toàn được tính mạng. Chỉ còn Trương Lương ở lại, sau khi đoán chắc Lưu Bang đã trốn chạy xa thì Trương Lương mới trở lại bàn tiệc dâng lễ, nói Lưu Bang không được khỏe, xin phép về trước. Hạng Vũ vẫn không cho là có gì bất thường, chỉ có Phạm Tăng là bực tức không yên, oán thán Hạng Vương đã để kẻ thù trốn thoát.
Hạng Vũ
Hạng Vũ tên Tịch, tự Vũ, là một trong những tướng lĩnh phản Tần nổi tiếng cuối nhà Tần, sau khi nhà Tần bị diệt vong, ông tự phong mình làm Tây Sở Bá Vương. Ông nội của Hạng Vũ là Hạng Yên, là một danh tướng nước Sở cuối thời Chiến Quốc, đã bị tướng Tần là Vương Tiễn giết chết. Hạng Vũ tài năng xuất chúng, khí khái hơn người. Trong chiến tranh Sở Hán, mặc dù Hạng Vũ giành được nhiều thắng lợi, song ông lại bộc lộ rõ điểm yếu của mình về mặt chính trị, quân sự. Ông đã bị thất bại trong cuộc chiến Cai Hạ, chạy tới Ô Giang và tự sát ở đó. Hán vương Lưu Bang đã làm lễ chôn cất Hạng Vũ ở Cốc Thành theo nghi lễ chôn cất Lỗ Công.
Quả nhiên, sau bữa tiệc Hồng Môn, Lưu Bang suýt chết trở về đã bức chết Hạng Vũ trong cuộc chiến Cai Hạ, giành được thắng lợi cuối cùng trong chiến tranh Sở Hán.
Mặc dù Hạng Vũ có dũng khí của bậc trượng phu, song lại có tấm lòng nhân ái của người phụ nữ, trong bữa tiệc Hồng Môn, mưu sĩ Phạm Tăng của Hạng Vũ đã phái Hạng Trang tới múa kiếm, rồi nhân đó giết chết Lưu Bang, Phạm Tăng cũng đã nhiều lần ra hiệu cho Hạng Vũ, song Hạng Vũ lại không quyết đoán ngay. Khi đó, chỉ có Lưu Bang và Hạng Vũ là có khả năng tranh cướp thiên hạ, song Hạng Vũ lại bỏ lỡ cơ hội tốt, tha cho Lưu Bang, khiến Lưu Bang trốn thoát, để về sau lại phải chịu thua trước Lưu Bang, và phải tự sát. Bữa tiệc Hồng Môn chính là thời điểm tốt nhất để Hạng Vũ có thể giết chết Lưu Bang. Trong lúc Lưu Bang đang yếu thế, thì Hạng Vũ nhất thời lại làm việc theo tình cảm, do dự không quyết, kết cục là, Lưu Bang trốn thoát, còn Hạng Vũ bị thua thảm hại trước Lưu Bang.
Lý Tịnh chiến thắng kẻ địch nhờ kết hợp kỳ chính
Khi quyết sách, cần phải khéo kết hợp cả công khai và giấu kín, cần có sách lược cụ thế đối với từng thay đổi đang diễn ra. Người cao minh hiểu rõ đạo lý này nên rất giỏi tùy cơ ứng biến theo tình hình và yêu cầu cụ thể, cũng như khéo léo vận dụng phương pháp nêu trên. Có lúc, cần dựa vào tình hình thực tế để đưa ra phán đoán khách quan, có lúc lại cần suy xét tới quan hệ lợi hại, tiếp nhận nhân tố tình cảm, năng lực; linh hoạt trong thực thi; tùy vào người, vật và mục tiêu cụ thể để quyết đoán. Làm được như vậy thì có thể đưa ra quyết đoán chính xác.
Lấy việc dụng binh làm ví dụ, thế cục và kẻ địch luôn biến đổi, không có kẻ thù nào giống kẻ thù nào, bởi vậy cần có đối sách cụ thể cho từng kẻ thù khác nhau. Nền tảng của sự thay đổi là cần hiểu rõ tình thế và tình cảm của con người. Lý Tịnh là bậc thầy dụng binh đời Đường, có sở trường thay đổi kỳ chính, ông rất giỏi kết hợp kỳ kế ngụy mưu (mưu kế kỳ lạ) với chính đồ thường quy (đạo lý hợp lẽ phải).
Lý Tịnh xuất thân danh giá, thời niên thiếu ôm ấp hoài bão, có chí tiến thủ, ông rất chịu khó đọc binh thư. Tuy nhiên, khi mới lập nghiệp lại không gặp thuận lợi. Khi Lý Uyên chuẩn bị khởi binh ở Thái Nguyên thì Lý Tịnh đã báo việc này lên nhà Tùy, do đó bị Lý Uyên ghét bỏ, và luôn tìm cách trả thù. Sau này, khi Lý Tịnh tới làm việc dưới trướng của Lý Đường thì Lý Uyên rắp tâm phải giết chết ông, may có Lý Thế Dân tiếc tài năng của Lý Tịnh nên đã bảo vệ ông. Tuy nhiên, sau này, Lý Tịnh vẫn không có cơ hội phát triển sự nghiệp, chỉ tới khi gần kết thúc chiến tranh thống nhất, ông dẫn binh chinh chiến Tiêu Tiển thì bước đầu mới bộc lộ ra tài trí hơn người của mình; sau lập quốc, ông vào sâu trong sa mạc, tiêu diệt dân tộc du mục Đông Đột Quyết, giúp triều Đường trừ được mối họa lớn; vào năm Hoa Giáp, ông lại tiếp tục chinh phạt cao nguyên Đại Phi Xuyên, tiêu diệt Thổ Cốc Hồn, lập được nhiều chiến công và được người đời ca ngợi. Hai đặc điểm dụng bình của Lý Tịnh là thông và kỳ. Thông chính là kẻ địch thay đổi, ta cũng thay đổi. Ông thường dựa vào sự thay đổi của tình hình để đưa ra sách lược tương ứng dựa trên nền tảng đã nắm vững hình thế, hoàn cảnh và suy nghĩ của đối phương. Còn kỳ là dựa trên quy tắc thường gặp, vận dụng nhiều suy nghĩ và mưu kế kỳ lạ để kẻ địch không ngờ tới.
Khi nào thì dùng chính mưu và khi nào thì dùng kỳ mưu?
Lý Tịnh cho rằng, khi kẻ địch dồi dào sức lực, nắm bắt được nhiều tin tức, nội bộ đoàn kết, bên ta không dễ gì thực thi mưu kế thì nên dùng chính binh, cũng chính là lấy thực lực đối với thực lực. Còn khi kẻ địch yếu ớt thì nhất thiết phải dùng kỳ binh. Ông cũng nhấn mạnh, cần kết hợp cả kỳ và chính. Trước hết dùng chính binh, sau đó dùng kỳ binh. Có rất nhiều cách lý giải về chính kỳ: Xa bộ binh là chính, kỵ binh là kỳ; quân đánh chính diện là chính, quân đánh mai phục là kỳ,… Tư tưởng kỳ binh của ông đã thể hiện một cách đầy đủ nhất trong cuộc chiến đánh bại Đột Quyết.
Lý Tịnh
Lý Tịnh tự là Dược Sư, là người Tam Nguyên, phủ Kinh Triệu, ông là nhà quân sự, nhà lý luận quân sự, thống soái vĩ đại của triều Đường. Thời Đường Cao Tổ, ông nhận chức Hành quân tổng quản, thời Thái Tông, ông nhận chức Binh bộ thượng thư, làm quan tới chức đại tổng quản hành quân đạo Tây Hải, được phong làm Ngụy Quốc Công. Đường Túc Tông liệt ông vào một trong mười vị tướng tài giỏi nhất trong lịch sử Trung Quốc, và thờ cúng ông tại miếu Võ Thành Vương (Khương Thái Công). Ông giỏi cả văn và võ, đóng góp nhiều công lao trong việc thống nhất và xây dựng triều Đường.
Đột Quyết là kẻ thù lớn của thời kỳ đầu nhà Đường. Lý Uyên trước và sau khi khởi binh từng xưng thần với Đột Quyết, Đường Thái Tông mới đầu phải chịu sự uy hiếp của Đột Quyết, song do thực lực còn yếu nên phải nhẫn nhịn, chưa dám hành động. Năm Trinh Quán thứ 4, Đường Thái Tông cảm thấy cơ hội đã chín muồi nên quyết định tấn công Đột Quyết, và giao cho Lý Tịnh nhiệm vụ này. Đánh Đột Quyết không dễ dàng như là thảo phạt Đông Nam, Đột Quyết toàn kỵ binh, tốc độ di chuyển nhanh, khả năng tấn công vũ bão, hơn nữa chiến tuyến sa mạc dài, khí hậu ác liệt, do đó đánh thắng được Đột Quyết là một việc vô cùng khó khăn.
Tuy nhiên, kẻ địch cũng có điểm yếu, chính là tác chiến cô độc và thiếu sự chuẩn bị. Thế là Lý Tịnh quyết định “xuất kỳ chế thắng” (tiến đánh bất ngờ để giành chiến thắng). Ông chọn ra 3 nghìn kỵ binh tinh nhuệ, lao thẳng vào sào huyệt của địch, khiến kẻ địch trở tay không kịp.
Lý Thế Dân
Lý Thế Dân là con trai thứ của Cao Tổ Lý Uyên, là vị vua thứ hai của đời Đường. ông sinh ở Võ Công, năm 4 tuổi từng có thầy xem tướng dự đoán rằng sau này có thể “tề thế an dân”, do đó rất nổi tiếng. Dưới triều Tùy Dạng Đế vào niên hiệu Đại Nghiệp thứ 11, Dạng Đế bị dân tộc Đột Quyết do Thủy Tất Khả Hãn cầm đầu vây khốn tại Ưng Môn, Lý Thế Dân khi đó mới 16 tuổi đã đứng ra dẹp loạn, tỏ rõ tài năng của mình.
Thủ lĩnh của Đột Quyết là Hiệt Lợi Khả Hãn không thể ngờ rằng quân Đường lại tới nhanh như vậy. Ông ta nói: “Quân Đường nếu không phải là bất ngờ tấn công như vậy thì làm sao dám một mình xâm nhập vào sào huyệt của ta?”
Kỳ mưu của Lý Tịnh không phải ở tấn công vùng đất, mà là tấn công lòng người, khiến Đột Quyết cảm thấy hoang mang và sợ hãi từ trong lòng. Còn chưa đánh nhau thì quân Đột Quyết đã có người ra hàng. Hiệt Lợi Khả Hãn không chiến mà đã bỏ chạy. Trong cuộc chiến Đại Phi Xuyên, Lý Tịnh cũng đã áp dụng sách lược này và giành thắng lợi. Đại Phi Xuyên nằm trong sự kiểm soát của Thổ Cốc Hồn.
Năm Trinh Quán thứ 8, nổ ra cuộc chiến giữa nhà Đường và Thổ Cốc Hồn, Đường Thái Tông điều binh năm lộ, cử Lý Tịnh làm thống soái, lúc này Lý Tịnh đã 63 tuổi. Cuộc chiến này khó ở chỗ xảy ra tại vùng địa thế cao, nhiệt độ thấp, kẻ địch thì thoắt ẩn thoắt hiện. Hai bên đã có một cuộc chiến ác liệt ở Xích Thủy, bên nào cũng chịu tổn thất nặng nề. Thủ lĩnh của Thổ Cốc Hồn là Phục Doãn bỏ chạy, trước khi đi còn phóng hỏa, khiến ngựa của quân Đường không có cỏ để ăn. Lý Tịnh lệnh cho quân lính đuổi theo vào tận Đại Phi Xuyên. Lúc này, quân Đường lâm vào tình cảnh khó khăn, lương thảo hết, không tìm ra nguồn nước. Người phải gặm băng, còn ngựa thì ăn tuyết. Một số tướng nhà Đường cho rằng, nếu tình hình này kéo dài thì quân Đường sẽ không thể chịu nổi, do đó phải lập tức ra khỏi Đại Phi Xuyên. Lý Tịnh phản đối, ông cho rằng, kẻ định đã sắp tới đường cùng rồi, họ cũng nghĩ rằng quân ta nên rút lui. Nếu ta rút lui lúc này thì cũng sẽ không thể có lương thực hay nước uống được, hơn nữa còn bị kẻ địch đuổi theo ở phía sau. Hiện nay, quân ta đã ở vào tình cảnh như vậy rồi thì phải nhanh chóng quyết chiến với kẻ địch, mà càng nhanh càng tốt. Suy nghĩ như vậy nên Lý Tịnh đốc thúc quân lính gia tăng tốc độ, truy tìm đội quân còn sót lại của kẻ địch. Vài ngay sau đã tìm thấy và tiêu diệt toàn bộ bọn chúng.
Kỳ binh chính là đội quân xuất hiện vào thời gian và địa điểm mà kẻ địch không ngờ nhất, đ?