Chương 16
Laura Simon đã chuẩn bị từ bỏ hy vọng.
Toàn bộ bên trong và bên ngoài chiếc xe tải thùng nhỏ đã được rắc bụi phấn và xông hơi để tìm dấu vân tay. Thậm chí họ còn huy động cả một chiếc máy rọi laser đặc biệt từ tổng hành dinh lực lượng cảnh sát bang từ thành phố Richmond tới, nhưng cứ mỗi lần tìm được một dấu vân tay nào đó, thì y như rằng nó lại là của người khác. Một người mà họ có thể loại trừ. Đến lúc này thì Laura đã thuộc lòng dấu vân tay của Pettis. Gã thật đen đủi khi ngón nào cũng có hoa tay tròn xoe, một kiểu kết cấu vân tay khá hiếm, đó là chưa kể một vết sẹo bé xíu ở ngón tay cái, cũng chính vết sẹo này là nguyên nhân khiến gã phải ngồi tù cách đây vài năm sau khi tham gia một vụ ăn trộm ô tô quy mô lớn. Những tên trộm có sẹo ở đầu ngón tay là người bạn tốt nhất của một chuyên viên kỹ thuật hình sự.
Dấu vân tay của Budizinski xuất hiện một lần vì ông ta đã nhúng ngón tay vào một loại dung môi rồi lại ấn nó vào một mảnh gỗ dán để cuối thùng xe, một dấu vân tay hoàn hảo như thể chính cô đã trực tiếp lấy dấu vân tay của ông ta vậy.
Tổng cộng, cô phát hiện được năm mươi ba dấu vân tay, nhưng chẳng có dấu vân tay nào giúp được gì. Cô ngồi giữa thùng xe và rầu rĩ nhìn nội thất của nó. Cô đã kiểm tra tất cả các vị trí trong chiếc xe mà một dấu vân tay có thể in lại. Toàn bộ những xó xỉnh và ngóc ngách trong xe đều quét bằng thiết bị rọi laser cầm tay, và giờ thì cô hoàn toàn không biết phải tìm kiếm ở đâu nữa.
Đã mấy chục lần cô hình dung lại cảnh những người thợ chất đồ lên xe, lái nó đi—chiếc gương chiếu hậu là một điểm lý tưởng cho những dấu vân tay—di chuyển trang thiết bị, sắp xếp những chai lọ chất tẩy rửa, kéo những vòi hút, mở và đóng cửa. Mức độ khó khăn trong công việc của cô còn lớn hơn nhiều vì thực tế là các dấu vân tay thường biến mất dần theo thời gian, tùy thuộc vào bề mặt lưu giữ chúng và môi trường xung quanh. Nóng và ẩm là những yếu tố lưu giữ dấu vân tay tốt nhất, khô và mát, những yếu tố tồi tệ nhất.
Cô mở ngăn chứa đồ linh tinh và lục lọi lại những thứ bên trong. Tất cả những món đồ trong đó đều đã được kiểm kê và phủ bụi để tìm dấu vân tay. Cô hờ hững lật lật quyển sổ theo dõi bảo dưỡng của chiếc xe. Những vết ố sẫm màu in trên giấy khiến cô nhớ ra là lượng ninhydrin dự trữ của phòng xét nghiệm đã sắp hết. Những trang giấy nhàu nhĩ và bẩn thỉu cho dù chiếc xe hầu như không có hỏng hóc nào đáng kể trong suốt ba năm qua kể từ khi nó được đưa vào sử dụng. Rõ ràng là công ty này tuân thủ rất chặt chẽ chế độ bảo dưỡng xe thường xuyên. Mỗi lần bảo dưỡng đều được ghi chép đầy đủ, ghi tắt tên người bảo dưỡng và đánh dấu theo ngày. Công ty còn có riêng một đội thợ bảo dưỡng xe của mình.
Trong khi xem lướt qua các trang giấy, một cái tên chợt khiến cô chú ý. Tất cả những lần bảo dưỡng khác đều có chữ viết tắt tên đầu của một tay G. Henry hoặc một tay H. Thomas nào đó, cả hai đều là những thợ sửa xe của công ty Metro. Còn mục tra lần này lại có chữ J. P ký tắt bên dưới. Jerome Pettis. Phần ghi chép này cho thấy hôm đó chiếc xe tải bị khô dầu và họ đã bổ sung khoảng hai lít dầu. Tất cả đều chẳng có gì đáng chú ý trừ một điểm ngày đổ dầu lại chính là ngày công ty tiến hành dọn thảm cho biệt thự nhà Sullivan.
Hơi thở của Simon bắt đầu trở nên gấp gáp vì hồi hộp, cô bắt chéo hai ngón tay cầu may và bước ra khỏi chiếc xe. Cô lật nắp ca-pô lên và bắt đầu kiểm tra động cơ xe. Cô rọi đèn xung quanh và chỉ một phút sau cô đã tìm thấy nó. Một dấu vân tay đầy dầu mỡ hiện rõ trước mặt cô từ thành chiếc bình chứa nước xịt rửa kính chắn gió. Đây là chỗ một người nào đó sẽ tỳ tay vào khi họ cần điểm tựa để đóng hoặc mở nắp hộp dầu. Chỉ cần liếc qua cũng thấy rằng đó không phải là dấu vân tay của Pettis. Cũng không phải dấu vân tay của hai người thợ sửa xe. Cô vội chộp lấy tấm phim có in dấu vân tay mẫu của Budizinski trên đó. Cô dám chắc chắn đến 99% rằng đây không phải dấu vân tay của ông ta, và hóa ra cô đã đúng. Simon thận trọng phủ bụi và in lại dấu vân tay lên một tấm phim mới rồi gần như chạy một mạch tới văn phòng của Frank đúng lúc anh đang chuẩn bị cởi áo choàng và bỏ mũ ra.
“Cô làm tôi giật cả mình đấy, Laura.”
“Anh hãy nói với Pettis xem gã có nhớ rằng chính Rogers là người đổ thêm dầu vào xe hôm đó không?”
Frank gọi đến công ty lau dọn, nhưng Pettis đã xong việc và về nhà. Gọi về nhà anh ta không thấy ai trả lời.
Simon nhìn tấm phim lưu dấu vân tay như thể nó là món đồ trang sức quý giá nhất trên thế gian này. “Thôi quên đi. Tôi sẽ kiểm tra nó qua hồ sơ của chúng ta. Thức trắng cả đêm cùng được. Chúng ta có thể nhờ cảnh sát hạt Fairfax truy cập vào AFIS của cảnh sát bang cũng được, cái cổng truy cập chết tiệt của chúng ta vẫn chưa khắc phục được.” Simon đang nói tới Automated Fingerprint Identification System—Hệ thống Xác định dấu vân tay tự động có máy chủ đặt tại thành phố Richmond, nơi tất cả những dấu vân tay được tìm thấy tại hiện trường tội phạm đều có thể được mang đối chiếu với những mẫu vân tay được lưu giữ trong cơ sở dữ liệu số hóa của bang.
Frank suy nghĩ một lát. “Tôi nghĩ tôi có thể làm tốt hơn.”
“Bằng cách nào?”
Burton rút tấm danh thiếp ra khỏi túi áo, nhấc điện thoại lên và quay số. Anh nói vào ống nghe. “Xin cho gặp Đặc vụ Bill Burton.”
Burton đón Frank và hai người cùng đi tới Tòa nhà Hoover của FBI, nằm trên Đại lộ Pennsylvania. Hầu hết khách du lịch đều biết tòa nhà này nặng nề và có phần xấu xí nhưng vẫn coi nó là một nơi tham quan không thể bỏ qua khi đến thủ đô Washington D.C. Đây là nơi đặt Trung tâm Thông tin tội phạm Quốc gia, một hệ thống thông tin được lưu trữ trên máy tính do FBI điều hành, bao gồm mười bốn hệ cơ sở dữ liệu tập trung-phân tán được phân cấp chặt chẽ và hai hệ thống con tạo thành nơi lưu trữ lớn nhất trên thế giới về tất cả các dữ liệu mà người ta biết được về những tên tội phạm. Bộ phận Hệ thống Xác định Dấu vân tay Tự động của Trung tâm Thông tin Tội phạm Quốc gia là người bạn tốt nhất của một cảnh sát. Với hàng chục triệu mẫu dấu vân tay của những tên tội phạm được lưu giữ trong hồ sơ, cơ hội lần ra manh mối mới của Frank đã tăng lên đáng kể.
Sau khi bàn giao dấu vân tay cho bộ phận kỹ thuật viên của FBI—những người này nhận được chỉ thị rất rõ ràng rằng nhiệm vụ mới này cần phải được ưu tiên ở mức độ càng cao càng tốt—Burton và Frank đứng bên ngoài sảnh, hồi hộp uống cà phê chờ đợi.
“Công đoạn này cũng tốn khá nhiều thời gian đấy, Seth. Máy tính sẽ phải chọn ra một loạt những dấu vân tay có khả năng trùng khớp. Sau đó các kỹ thuật viên sẽ phải thực hiện nốt phần đối chiếu còn lại bằng những biện pháp thủ công. Tôi sẽ chờ ở đây và thông báo cho anh ngay khi có kết quả đối chiếu.”
Frank nhìn đồng hồ. Cô con gái út của anh đang tham gia một vở kịch ở trường sẽ bắt đầu sau bốn mươi phút nữa. Trong vở kịch, con bé chỉ đóng vai một loại rau cỏ gì đấy, nhưng ngay lúc này đó là điều quan trọng nhất trên đời đối với cô con gái bé bỏng của anh.
“Anh chắc chứ?”
“Cứ để lại cho tôi một số điện thoại nào có thể liên lạc được với anh.”
Frank làm theo rồi vội vàng quay ra. Dấu vân tay đó rất có thể chẳng là gì, có khi chỉ là một tay nhân viên trạm xăng cũng nên, nhưng có gì đó mách bảo Frank rằng không phải vậy. Tới thời điểm này thì Christine Sullivan đã chết được khá lâu. Những dấu vết cũng thường đóng băng khi nạn nhân đã nằm sâu dưới hai mét đất, khoảng cách hai mét dài nhất mà tất cả chúng ta đều phải đối mặt. Nhưng một dấu vết tưởng chừng như lạnh băng đột nhiên bùng cháy đến nóng rực; còn chuyện nó có soi rọi được cái gì đáng kể không thì còn phải chờ xem. Ít nhất là trong lúc này Frank cứ tận hưởng hơi nóng ấm áp đó đã. Bất giác anh mỉm cười, không chỉ là vì anh đang hình dung ra cảnh cô con gái sáu tuổi xinh xắn của mình chạy tung tăng trên sân khấu trong bộ dạng một quả dưa chuột.
Burton chăm chú nhìn theo Frank cho đến khi anh hoàn toàn đi khỏi, anh ta cũng mỉm cười nhưng vì một lý do hoàn toàn khác. Bộ phận kỹ thuật của FBI đạt độ chính xác trong khi xử lý những dấu vân tay qua hệ thống xác định dấu vân tay tự động lên đến trên chín mươi phần trăm. Điều đó có nghĩa là không bao giờ có hơn hai dấu vân tay tình nghi cho một mẫu cần xác định, mà phần lớn thời gian là chỉ có một. Hơn nữa Burton có được quyền ưu tiên kiểm tra cao hơn cả những gì anh ta nói với Frank. Tất cả những cái đó giúp Burton có thêm thời gian, thời gian quý giá.
Đêm hôm đó, Burton ngồi nhìn như dán mắt vào một cái tên hoàn toàn xa lạ đối với anh ta.
Luther Albert Whitney.
Ngày tháng năm sinh: 25 tháng 8 năm 1929. Trong này có liệt kê cả số An sinh Xã hội của ông ta; ba số đầu tiên là 179, cho thấy số này được cấp tại bang Pennsylvania. Miêu tả ngoại hình của Whitney: cao khoảng 1m70, nặng khoảng sáu mươi cân, với một vết sẹo dài 4cm trên cánh tay trái, Những chi tiết đó hoàn toàn trùng khớp với miêu tả của Pettis về Rogers.
Bằng cách truy cập vào cơ sở dữ liệu xác định nhận dạng Liên bang, Burton cũng có được thông tin khá đầy đủ về quá khứ của người đàn ông này. Hồ sơ cho thấy ông ta từng có ba tiền án về tội trộm cắp. Thậm chí Whitney còn có hồ sơ lưu ở cả ba bang khác nhau. Ông ta từng phải ngồi tù khá lâu, lần gần đây nhất được ra tù là giữa những năm 1970. Từ đó đến nay không có gì đáng chú ý. Ít nhất thì chính quyền cũng không nắm được thông tin gì đáng kể. Burton cũng từng gặp những tên như thế này trước kia. Chúng là những kẻ cả đời theo đuổi và không ngừng hoàn thiện cái nghề mà chúng đã chọn làm sự nghiệp. Anh ta đám đánh cá rằng Luther Whitney cũng là một tay như vậy.
Một trở ngại nho nhỏ, địa chỉ cuối cùng được ghi lại là ở New York và cũng đã cách đây gần hai mươi năm.
Cũng không bận tâm lắm đến trở ngại này, Burton bước dọc sảnh tới một ô điện thoại được quây kín và tập hợp tất cả những danh bạ điện thoại trong khu vực. Trước hết anh ta thử với chính thành phố Washington D.C; đáng ngạc nhiên là danh bạ này không có một ai trùng tên với người anh ta cần tìm. Tiếp theo anh ta kiểm tra danh bạ điện thoại Bắc Virginia. Có tới ba Luther Whitney trong danh sách. Cú điện thoại sau đó được gọi tới trụ sở Cảnh sát bang Virginia, nơi anh ta có một đầu mối liên lạc lâu năm. Những hồ sơ trong mục đăng ký ô tô, phương tiện cơ giới trên máy tính được kiểm tra. Hai tay Luther Whitney đầu lần lượt là hai mươi ba và năm mươi lăm tuổi. Tuy nhiên, tay Luther Whitney ở số 1645 Đại lộ Đông Washington, Arlington, sinh đúng ngày 25 tháng 8 năm 1929, và số An sinh Xã hội của ông ta, được sử dụng tại Virginia làm số bằng lái xe, khẳng định ông ta chính là kẻ Burton đang tìm. Nhưng liệu ông ta có phải là Rogers không? Có một cách để tìm ra điều đó.
Burton rút cuốn sổ ghi chép của mình để trong túi ra, Frank thật chu đáo khi cho phép Burton nghiên cứu qua hồ sơ điều tra. Điện thoại đổ ba hồi chuông và Jerome Pettis nghe máy. Sau khi tự giới thiệu một cách chung chung rằng mình là người ở văn phòng của Frank gọi tới, Burton đưa ra câu hỏi. Sau đó là năm giây im lặng trong lúc Burton cố giữ bình tĩnh lắng nghe hơi thở ở đầu dây bên kia. Câu trả lời bật ra thật bõ công anh chờ đợi.
“Mẹ kiếp, đúng vậy thật. Hôm ấy máy xe bị bó. Không biết thằng nào quên không vặn chặt lắp bình dầu. Tôi bảo Rogers làm việc đó vì ông ta ngồi ngay trên bình dầu mà chúng tôi chở theo phía sau thùng xe.”
Burton cảm ơn gã và gác máy. Anh ta kiểm tra đồng hồ. Anh vẫn còn thời gian trước khi buộc phải thông báo thông tin này cho Frank. Cho dù đã có ngần ấy bằng chứng dồn lại, Burton cũng không thể nào dám chắc một cách tuyệt đối rằng Whitney chính là kẻ đã nấp trong căn phòng bí mật, nhưng không hiểu sao Burton lại có linh cảm rằng Whitney chính là kẻ đó. Và mặc dù không bao giờ có chuyện Luther Whitney vẫn còn lởn vởn quanh nhà mình sau vụ án mạng khủng khiếp đó, Burton vẫn muốn hiểu rõ hơn về tay này và có thể sẽ tìm được manh mối cho thấy hắn đang lẩn trốn ở đâu. Và cách tốt nhất để làm điều đó là kiểm tra nơi hắn sống trước khi cảnh sát sục mũi vào. Anh ta bước nhanh như chạy ra chỗ đậu xe.
Thời tiết lại đột ngột chuyển sang ướt át và giá lạnh khi Mẹ thiên nhiên đùa dai với thành phố quyền lực nhất trên thế giới. Hai chiếc cần gạt nước đang cần mẫn gạt qua gạt lại trên kính chắn gió. Kate cũng không biết chính xác tại sao cô lại tới đây. Cô mới tới chỗ này chính xác là đúng một lần trong suốt ngần ấy năm. Và trong lần đó cô vẫn ngồi yên trong xe trong lúc Jack bước vào gặp Luther để thông báo cho Luther biết rằng anh và cô con gái độc nhất của lão sắp làm đám cưới. Jack đã khăng khăng nài nỉ, cho dù cô khẳng định rằng Luther sẽ chẳng thèm quan tâm đâu. Nhưng dường như lão có quan tâm. Lão đã bước ra trước hiên nhà và đứng nhìn cô, mỉm cười, thân hình lão lóng ngóng, lúng túng, nửa muốn bước ra với cô, nửa lại ngại ngần không dám. Lão muốn chúc mừng con gái mình nhưng lại không biết phải nói như thế nào, xét theo tình cảnh trớ trêu của hai cha con thời gian qua. Lão đã bắt tay Jack, vỗ vỗ vào lưng anh, rồi nhìn cô với ánh mắt đồng tình.
Cô đã kiên quyết ngoảnh mặt đi, hai tay khoanh lại ương bướng, cho tới khi Jack chui vào xe và họ lái vụt đi. Cô chỉ thoáng nhìn thấy hình ảnh của một bóng người nhỏ bé trong tấm gương ngoài của khi xe đã chuyển bánh. Trông lão nhỏ bé hơn cô vẫn nhớ, gần như bé xíu. Trong tâm trí của Kate thì cha cô sẽ mãi mãi tượng trưng cho một khối khổng lồ tất cả những gì cô căm ghét, thù hận và e sợ trên thế gian này, khổng lồ đến nỗi nó lấp kín mọi khoảng không xung quanh, rút sạch không khí khiến tất cả trở nên ngột ngạt và tù túng. Tất nhiên sinh vật khủng khiếp ấy không hề tồn tại, nhưng cô nhất định không chịu thừa nhận sự thật đỏ. Nhưng cho dù cô không hề muốn dây dưa với hình ảnh ấy thêm bất kỳ chút nào nữa, cô cũng không dứt ánh mắt ra khỏi chiếc gương xe. Hơn một phút liền trong khi chiếc xe tăng tốc ánh mắt cô vẫn dán chặt vào hình ảnh phản chiếu của người đàn ông đã ban tặng cho cô cuộc sống rồi lại tước nó cùng cuộc sống của mẹ cô đi một cách cực kỳ tàn nhẫn.
Khi chiếc xe lăn bánh lão đã đứng đó dõi mắt nhìn theo cô, một vẻ buồn bã và cam chịu trên nét mặt khiến cô ngỡ ngàng. Nhưng rồi cô cũng tìm cách phủ nhận, coi chúng chẳng qua chỉ là những thủ đoạn tinh vi của lão để cô thấy mủi lòng mà thôi. Cô không bao giờ nhìn nhận bất kỳ điều gì tốt đẹp trong những hành động của lão. Lão là một tên trộm. Lão hành động không thèm đếm xỉa đến luật pháp. Một tên mọi rợ trong một xã hội văn minh. Trong con người lão hoàn toàn không có chỗ cho sự chân thành. Đến lúc này xe của hai người rẽ vào góc đường thì hình ảnh của lão trong gương cũng biến mất, như thể nó là một con rối trên sợi dây bị ai đó đột ngột giật phắt đi.
Kate lái xe lên lối rẽ vào nhà. Ngôi nhà tối đen như mực. Có vẫn ngồi nguyên trong xe, ánh đèn pha của xe phản chiếu vào đuôi chiếc xe đỗ phía trước làm cô chói mắt. Có tắt đèn pha, hít một hơi thật sâu để bình tĩnh lại và mở cửa xe bước ra ngoài trời đêm ẩm ướt và lạnh lẽo.
Đêm qua có tuyết lất phất rơi, những bông tuyết chưa tan hết kêu lạo xạo dưới chân Kate khi cô bước về phía của chính của ngôi nhà. Nhiệt độ đêm nay được dự đoán sẽ xuống đến mức cực thấp khi trời khuya dần. Cô chống một tay lên thành xe để đứng cho vững rồi bước tiếp. Mặc dù không tin chắc là sẽ tìm lại được nhà cha mình, cô cũng vẫn gội đầu và làm tóc thật cẩn thận, mặc lên người bị trang phục vốn chỉ được dùng cho những phiên tòa quan trọng, và thậm chí còn trang điểm một chút. Dù sao cô cũng là người thành đạt, theo cách riêng của mình, và nếu họ có cơ hội gặp nhau mặt đối mặt, cô muốn cha mình nhận ra rằng bất chấp cách cư xử tàn tệ của lão cô vẫn không chỉ sống sót mà còn sống rất tốt.
Chìa khóa vẫn nằm nguyên ở chỗ mà Jack đã nói cho cô biết cách đây nhiều năm. Từ hồi đấy đến giờ cứ nghĩ đến là cô lại thấy mỉa mai vì một tên trộm già đời lại để nhà cửa của chính mình lỏng lẻo như vậy. Trong khi lúi húi mở cửa và chậm rãi bước vào trong nhà, cô không để ý thấy một chiếc xe vừa đỗ xịch lại ở bên kia đường và người lái xe đang kín đáo theo dõi từng hành động của cô, thậm chí anh ta còn hý hoáy ghi lại cả biển số chiếc xe của Kate.
Ngôi nhà toát lên mùi bụi bặm lưu cữu vì lâu không có người ở. Thỉnh thoảng cô cũng hình dung không hiểu bên trong ngôi nhà trông như thế nào. Cô đã đoán kiểu gì nó cũng phải gọn gàng, ngăn nắp, và quả thật cô đã không phải thất vọng.
Trong bóng tối cô ngồi xuống chiếc ghế bành trong phòng khách, không hề biết rằng nó chính là chiếc ghế ưa thích của cha mình và lại càng không thể biết rằng Luther cũng vô tình làm đúng như vậy khi lão bí mật đến thăm căn hộ của con gái.
Bức ảnh đặt trên mặt lò sưởi. Chắc chắn nó phải được gần ba chục tuổi nổi. Cô bé Kate, nằm gọn trong vòng tay của mẹ, được bọc kín từ đầu đến chân, một vài lọn tóc hung hung thò ra dưới vành mũ vải màu hồng xinh xắn; cô được sinh ra với mái tóc dày màu hung đỏ rất lạ mắt. Cha cô, khuôn mặt điềm tĩnh, đầu đội một chiếc mũ phớt rộng vành, đang đứng bên cạnh vợ và con gái mình, bàn tay gân guốc của ông chạm vào những ngón tay bé tí xíu đang duỗi thẳng ra cửa Kate.
Mẹ của Kate cũng giữ một bức ảnh giống hệt trên bàn trang điểm của bà cho tới tận khi qua đời. Kate đã ném nó đi đúng ngày đám tang được tổ chức, nguyền rủa sự gần gũi và thân mật giữa cha và con gái mà bức ảnh gợi lên. Cô đã thẳng cánh ném tấm ảnh vào người cha mình khi lão xuất hiện tại nhà để dự đám tang, chính tại đó cô đã phát điên, đã trút tất cả những cơn cuồng nộ và hận thù của mình lên lão, cơn bột phát của cô càng lúc càng vượt khỏi tầm kiểm soát vì nạn nhân của nó không hề phản ứng gì, không hề bật lại, lão chỉ đứng im chịu đựng những lời rủa xả độc địa của con gái mình. Và lão càng lặng lẽ bao nhiêu, cô lại càng điên giận bấy nhiêu, cho đến lúc cô tát lão, bằng cả hai tay. Cuối cùng những người quanh đó phải kéo cô ra, và giữ cho cô bình tĩnh lại. Và chỉ đến khi đó cha cô mới đội lại chiếc mũ lên đầu, đặt bó hoa lão cầm theo lên bàn và với đôi mắt ầng ậng nước cùng khuôn mặt đỏ bầm vì những cái tát của cô, lão quay người bước ra khỏi cửa, khẽ khàng đóng nó lại sau lưng mình.
Và giờ đây khi đang ngồi trong chiếc ghế của cha mình, Kate mới chợt nhận ra rằng hôm đó lão cũng đau đớn chẳng kém gì cô. Đau đớn khóc thương người đàn bà mà lão đã yêu suốt cả cuộc đời mình, người mà rõ ràng cũng dành trọn trái tim để yêu thương lão. Có gì đó chợt đầy ứ lên cổ họng khiến cô phải vội đặt mấy ngón tay lên đó chặn nó lại.
Cô đứng dậy và bước quanh ngôi nhà, thận trọng nhìn ngó kỹ từng căn phòng rồi lại quay ra, mỗi lúc một hồi hộp khi tiến sâu hơn vào lãnh địa của cha mình. Cửa phòng ngủ khép hờ, và sau một lúc tần ngần cuối cùng thì cô cũng quyết định đẩy nó mở toang ra. Khi đã bước hẳn vào trong phòng, cô đánh liều bật điện lên, và khi đôi mắt đã quen với ánh sáng sau một hồi lâu mò mẫm trong bóng tối, cô dừng ánh mắt lại bên chiếc bàn đầu giường, cô bước lại gần, và ngồi hẳn xuống giường.
Bộ sưu tập ảnh nhỏ đối với Kate thật sự là một thứ thiêng liêng. Trong đó kể lại câu chuyện về cuộc đời cô từ những ngày đầu tiên chập chững. Hàng đêm trước khi cha cô đi ngủ, điều cuối cùng lão nhìn thấy chính là cô. Nhưng điều khiến Kate sững sờ nhất chính là những bức ảnh thuộc giai đoạn sau này trong đời cô. Ảnh chụp cô trong ngày tốt nghiệp đại học và tốt nghiệp trường luật. Tất nhiên là chẳng đời nào cô mời cha mình tới dự những sự kiện này, vậy mà chúng vẫn được lưu giữ đầy đủ ở đây. Chẳng có bức nào chụp cô trong tư thế tạo dáng trước ống kính. Trong ảnh cô đang bước đi, hoặc đang vẫy tay với ai đó, hay đơn giản chỉ là đang đứng đó hoàn toàn không hay biết gì về ống kính máy ảnh chĩa về phía mình. Cô lật giở tới bức ảnh cuối cùng. Ảnh chụp cô đang bước trên bậc thềm trước cửa Tòa án Alexandria. Ngày đầu tiên cô ra tranh cãi trước tòa, hồi hộp khủng khiếp. Một vụ án xét xử tội nhẹ linh tinh gì đó, đại loại là những vụ gây lộn, phá rối trật tự vô thưởng vô phạt, nhưng nụ cười rạng rỡ trên gương mặt cô lúc đó vẫn khẳng định không gì khác ngoài chiến thắng tuyệt đối.
Và cô bắt đầu tự hỏi làm thế quái nào mà cô lại không nhìn thấy cha mình nhỉ? Và rồi cô cũng tự hỏi hay là cô có nhìn thấy những cố tình không thừa nhận?
Phản ứng đầu tiên của cô khi xem những tấm ảnh đó là nỗi tức giận bùng lên trong lòng. Hóa ra suốt bao năm qua cha của Kate đã theo dõi cô từng bước một. Tất cả những thời khắc đặc biệt trong đời cô lão đều theo sát. Lão đã xâm phạm những khoảnh khắc riêng tư đó. Xâm phạm cô bằng sự có mặt không được chào đón của mình.
Phản ứng tiếp theo của cô dịu dàng hơn nhiều. Và ngay khi cảm thấy nó đang trỗi dậy trong lòng, Kate đột ngột đứng phắt lên khỏi giường và quay người bỏ ra khỏi phòng.
Đúng lúc đó cô đâm sầm vào người đàn ông hộ pháp chắn ngay trước cửa.
"Một lần nữa, tôi xin lỗi, thưa cô. Tôi không hề định làm cô giật mình.”
“Làm tôi giật mình? Ông làm tôi sợ chết khiếp.” Kate ngồi phịch xuống thành giường, cố gắng trấn tĩnh lại, để hết run lẩy bẩy, nhưng không khí lạnh lẽo trong ngôi nhà khiến mọi chuyện càng thêm tồi tệ.
“Xin lỗi, nhưng thế quái nào mà Cơ quan Mật vụ lại quan tâm đến bố tôi thế?”
Cô ngẩng lên nhìn Bill Burton với một vẻ gần như sợ hãi trong ánh mắt. Ít nhất thì anh ta cũng coi đó là nỗi sợ hãi. Anh ta đã theo dõi cô trong phòng ngủ, nhanh chóng phân tích và dò đoán những động cơ, mục đích mà Kate thể hiện thông qua những chuyển động tinh tế nhất trên cơ thể cô. Một kỹ năng mà anh ta đã mài giũa suốt bao năm qua, từ việc quan sát những đám đông bất tận chỉ để phát hiện ra một hoặc hai mối nguy hiểm thực sự có thể đang lẩn khuất đâu đó. Kết luận của anh ta: cô con gái thù hận và người cha. Cuối cùng thì cô ta cũng tới đây tìm ông ta. Mọi chuyện bắt đầu sáng tỏ dần, và có lẽ là theo hướng rất tích cực cho những mục đích của anh ta.
“Về phía chúng tôi thì không hẳn, thưa cô Whitney. Nhưng cảnh sát Hạt Middleton thì chắc chắn là có đấy.”
“Middleton?”
“Vâng, thưa cô. Tôi tin chắc cô đã đọc về vụ án Christine Sullivan bị giết hại dã man.” Anh ta nói thật chậm rãi để câu đó treo lơ lửng trên không khí như muốn thử kiểm tra phản ứng của cô. Và những gì xảy ra sau đó hoàn toàn đúng như anh ta chờ đợi. Hoàn toàn ngờ vực.
“Ông cho rằng bố tôi có dính dáng đến chuyện này sao?” Đó là câu hỏi được đặt ra một cách rất chính đáng. Và cũng không hề có gì là tỏ ra đề phòng hay dè chừng quá mức. Burton coi đó là một chi tiết rất ý nghĩa, đồng thời cũng rất tích cực cho kế hoạch của anh ta, một kế hoạch đã hình thành trong đầu kể từ khi anh ta bắt đầu để mắt theo dõi cô.
“Viên thanh tra phụ trách điều tra vụ án này đang nghĩ như vậy. Có vẻ như cha cô, đóng giả làm một trong những người thợ đến lau dọn thảm, và sử dụng một cái tên giả, để lọt vào nhà Sullivan một thời gian ngắn trước khi xảy ra án mạng.”
Kate nín thở. Cha cô đi lau dọn thảm ư? Tất nhiên là lão đã làm như vậy để dò xét mục tiêu. Tìm ra những điểm yếu của nó, như lão vẫn làm từ trước tới nay. Chẳng có gì thay đổi. Nhưng giết người ư?
“Tôi không tin là cha tôi đã giết người phụ nữ đó.”
“Đúng vậy, nhưng cô có tin là ông ta đã thử đột nhập và ăn trộm trong ngôi nhà đó, đúng không cô Whitney? Ý tôi là đây đâu phải lần đầu tiên, đúng không, hay lần thứ hai nhỉ?”
Kate cúi nhìn xuống hai bàn tay của mình. Cuối cùng, cô lắc đầu.
“Thời gian trôi đi, con người ta sẽ thay đổi, thưa cô. Tôi không biết cô gần gũi với cha mình đến đâu thời gian qua”—Burton không bỏ sót chút hoảng hốt thoáng qua nhưng rất rõ ràng trên mặt Kate—“nhưng chúng tôi có bằng chứng khá chắc chắn là ông ta có liên can theo mức độ nào đó. Và người phụ nữ đó đã chết. Với ít bằng chứng hơn thế cũng đủ để có thể kết tội rồi.”
Kate nhìn anh ta với ánh mắt nghi ngờ. “Làm thế nào mà ông biết về tôi?”
“Tôi nhìn thấy một người phụ nữ rình mò vào nhà một người đang bị cảnh sát tìm kiếm nên tôi chỉ làm điều mà bất kỳ nhân viên nào trong ngành bảo vệ luật pháp như mình cũng sẽ làm, tôi kiểm tra biển số xe của cô. Danh tiếng của cô đi trước cô rất xa, cô Whitney ạ. Cảnh sát bang ai cũng phải lấy làm ngưỡng mộ cô đấy.”
Cô nhìn quanh căn phòng. “Bố tôi không có ở đây. Có vẻ như ông ấy không còn ở đây một thời gian khá lâu rồi.”
“Vâng, thưa cô, điều đó thì tôi biết. Chắc cô cũng không thể biết là ông ấy đang ở đâu, đúng không? Có thấy ông ấy tìm cách liên lạc gì với cô không?”
Kate thoáng nghĩ đến Jack và vị khách lúc nửa đêm của anh. “Không.” Câu trả lời bật ra rất nhanh, hơi nhanh hơn một chút so với dự đoán của Burton.
“Sẽ là tốt nhất nếu ông ấy ra đầu thú, cô Whitney ạ. Cô biết đấy, ở ngoài kia có những tay cớm rất hung hăng, khát máu, lúc nào cũng chỉ nhăm nhăm bóp cò…” Burton nhướng lông mày để tăng thêm sức nặng cho nhận xét của mình.
“Tôi không biết ông ấy ở đâu, ông Burton. Cha tôi và tôi… chúng tôi không được gần gũi lắm… từ lâu lắm rồi.”
“Nhưng giờ cô đang ở đây, và cô biết chỗ ông ấy giấu chiếc chìa khóa dự phòng.”
Giọng cô hơi quát lên gay gắt. “Đây là lần đầu tiên tôi đặt chân vào ngôi nhà này.”
Burton chăm chú nhìn nét mặt cô và tự nhủ rằng dù sao cô cũng đang nói thật. Ngay bản thân việc cô không quen thuộc lắm với ngôi nhà và cách bố trí phòng ốc đã đủ khiến anh ta đi đến kết luận đó, hơn nữa cô và cha mình đã bất hòa trong một thời gian dài.
“Liệu có cách nào mà theo cô có thể liên lạc được với ông ấy không?”
“Tại sao chứ? Tôi thực sự không hề muốn dính dáng gì đến chuyện này, ông Burton.”
“Hừm, tôi chỉ e là cô đã dính dáng rồi, ở một mức độ nào đó. Mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn nếu cô chịu hợp tác.”
Kate choàng chiếc túi xách lên vai và đứng bật dậy.
“Nghe này, Đặc vụ Burton, ông đừng có giở cái trò lừa gạt đó ra với tôi. Tôi ở trong cái nghề này đủ lâu rồi. Nếu cảnh sát muốn tốn thời gian cho việc thẩm vấn tôi, thì tên tôi có trong danh bạ điện thoại đấy. Danh bạ điện thoại công, mục Văn phòng Chưởng lý bang. Chào ông.”
Cô bước thẳng ra phía cửa.
“Cô Whitney?”
Cô quay người lại, sẵn sàng chờ đợi một màn đấu khẩu nảy lửa. Mật vụ hay gì đi chăng nữa cũng mặc xác, đừng hòng có chuyện cô để cho thằng cha này bắt chẹt mình.
“Nếu cha cô phạm tội, ông ta sẽ được đưa ra xét xử trước một bồi thẩm đoàn để kết án. Còn nếu ông ta vô tội, ông ta được tự do. Đó là cách hệ thống tư pháp của chúng ta hoạt động. Cô hiểu rõ điều đó hơn cả tôi.”
Kate đang định đáp trả thì ánh mắt cô chợt dừng lại trên những bức ảnh. Ngày đầu tiên của cô tại tòa. Mới đó mà dường như đã cả một thế kỷ trôi qua, đã có không biết bao nhiêu thay đổi, hơn tất cả những gì cô dám thú nhận với chính mình. Nụ cười đó, cùng những giấc mơ lãng mạn và xa vời của tuổi trẻ, cả quyết tâm theo đuổi lý tưởng của mình đến trọn đời. Cô đã trở lại mặt đất từ lâu lắm rồi.
Tất cả những gì cay độc và gay gắt nhất cô định trút ra bỗng biến đâu mất, chìm nghỉm trong nụ cười rạng ngời của một cô gái trẻ trung và xinh đẹp, với biết bao hoài bão lớn lao trong đời.
Bill Burton đứng nhìn cô quay người lại và bỏ đi. Anh ta liếc nhìn tập ảnh đầu giường rồi lại quay ra nhìn khung cửa trống không.