← Quay lại trang sách

CHUYỂN ĐỘNG[26] MUNICH, THÁNG TƯ 1895-

Herr Thiessen luôn luôn thấy dễ chịu khi rạp xiếc tới quê hương mình, nước Đức, lần này ông đặc biệt hạnh phúc vì nó tới gần Munich, vậy là ông không cần phải đặt phòng ở một thành phố khác.

Hơn nữa, cô Celia Bowen đã hứa tới thăm ông. Ông chưa bao giờ gặp cô, dù họ đã thư qua từ lại trong nhiều năm, và cô bày tỏ ý muốn được đến ngắm xưởng làm của ông nếu như ông không thấy phiền.

Friedrick đáp lại rằng dĩ nhiên ông không hề thấy phiền gì cả, và cô được hoan nghênh đến bất cứ lúc nào. Dù có biết bao thư tới, mỗi lá thư đều được cất cẩn thận trong văn phòng của ông, nhưng ông không chắc mình mong đợi điều gì khi cô đến.

Ông kinh ngạc khi thấy người phụ nữ ông vẫn biết là ảo thuật gia đang đứng ở thềm nhà.

Cô thật không thể lẫn đi đâu được, dù mặc chiếc váy màu hồng còn dính bụi đường chứ không phải trang phục đen-và-trắng mà ông vẫn quen nhìn. Màu da của cô trông ấm áp hơn, mái tóc quăn nhẹ, và chiếc mũ cô đội chẳng giống gì chiếc mũ chóp cao bằng lụa đặc biệt kia, nhưng ông vẫn sẽ nhận ra gương mặt cô dù ở bất cứ nơi đâu.

“Thật hân hạnh,” ông chào cô.

“Hầu hết mọi người đều không nhận ra tôi khi ở ngoài rạp xiếc,” Celia nói khi ông cầm tay cô.

“Thế thì hầu hết bọn họ là những kẻ ngốc,” ông nói, nâng tay cô và khẽ hôn lên mu bàn tay mang găng. “Dù ngay chính tôi cũng tự thấy mình ngốc khi không biết cô là ai trong suốt thời gian qua.”

“Lẽ ra tôi nên nói với ông,” Celia nói. “Tôi thực xin lỗi.”

“Cô không phải xin lỗi đâu. Lẽ ra tôi phải đoán được qua cách viết về rạp xiếc, cô không thể chỉ đơn thuần là một kẻ mộng mơ. Cô biết từng ngóc ngách, rõ hơn hết thảy.”

“Tôi chỉ quen thuộc với nhiều ngóc ngách thôi. Không phải là tất cả đâu.”

“Hẵng còn những điều bí ẩn trong rạp xiếc ngay cả với chính ảo thuật gia của nó ư? Thật là ấn tượng.”

Celia bật cười, và Friedrick đưa cô thăm quan xưởng của mình.

Khu xưởng được sắp xếp sao cho phía trước hầu hết là các bản vẽ thiết kế và phác thảo, trải dọc theo những bàn dài đầy những bộ phận khác nhau và mùn cưa, những ngăn kéo đầy ắp bánh răng và dụng cụ. Celia lắng nghe chăm chú khi ông miêu tả toàn bộ qui trình, cô hỏi tỉ mỉ những khía cạnh cả về kĩ thuật lẫn về sáng tạo.

Ông ngạc nhiên thấy cô nói trôi chảy tiếng Đức, dù cả hai chỉ viết thư cho nhau bằng tiếng Anh.

“Tôi nói các ngôn ngữ dễ hơn so với đọc hay viết chúng,” cô giải thích. “Có gì đó trong cảm nhận về các âm thanh. Tôi có thể bỏ công viết ra giấy nhưng chắc chắn kết quả không ra sao cả.”

Dù mái tóc đã điểm bạc, Friedrick trông trẻ hơn khi ông mỉm cười. Celia không thể rời mắt khỏi đôi bàn tay ông khi ông chỉ cho cô những cơ chế tinh vi của đồng hồ. Cô hình dung những ngón tay ấy đang viết từng lá thư cô đã nhận và đọc biết bao lần tới mức thuộc làu, và thấy thật lạ khi cô cảm thấy ngượng ngùng với một người mà cô đã biết rất rõ.

Ông cũng nhìn cô chăm chú như thế khi họ bước tới những giá để đồng hồ ở những giai đoạn lắp ráp khác nhau. “Tôi có thể hỏi cô một điều được không?” ông nói khi cô nhìn bộ sưu tập những bức tượng chi tiết đang kiên nhẫn chờ đợi giữa những khối gỗ lượn cong sẽ được ráp lại thành những chiếc đồng hồ hoàn chỉnh.

“Dĩ nhiên rồi,” Celia nói, dù cô sợ rằng ông sẽ hỏi làm thế nào mà cô thực hiện được những phép màu của mình, và cô sẽ buộc lòng phải nói dối ông.

“Cô đã đến ở cùng thành phố với tôi biết bao dịp, vậy mà đây mới là lần đầu tiên cô đề nghị gặp mặt. Vì sao thế?”

Celia nhìn lại những bức tượng trên bàn một lần nữa trước khi đáp. Friedrick vươn người dựng lại một vũ công ba-lê bị đổ, xoay xoay chỉnh cho vũ công đứng thăng bằng trên đôi giày múa.

“Trước đó, tôi đã không muốn ông biết tôi là ai,” Celia nói. “Tôi đã cho rằng ông có thể nghĩ về tôi khác đi. Nhưng sau một thời gian dài tôi cảm thấy mình đang không thành thực. Tôi đã muốn nói với ông sự thật vài lần rồi, và tôi không thể bỏ lỡ cơ hội được ngắm xưởng của ông. Tôi hi vọng ông có thể tha thứ cho tôi.”

“Cô đâu có lỗi gì để tha thứ đâu,” Friedrick nói. “Người phụ nữ mà tôi nghĩ là tôi biết khá rõ và người phụ nữ mà tôi đã luôn coi là điều bí ẩn hóa ra lại là một người. Thật đáng ngạc nhiên, nhưng một ngạc nhiên thú vị thì chẳng hề gì. Tuy nhiên tôi có tò mò vì sao cô lại viết lá thư đầu tiên cho tôi.”

“Tôi thích những bài viết của ông về rạp xiếc,” Celia nói. “Đó là một quan điểm mà tôi không sao có được để nhìn nhận về rạp xiếc một cách đầy đủ, bởi vì tôi... hiểu nó theo một cách khác. Tôi thích được nhìn rạp xiếc qua đôi mắt của ông.” Khi cô ngước lên nhìn ông, đôi mắt màu lam dịu dàng của ông sáng lên trong nắng chiều đang tỏa sáng qua những ô cửa sổ, soi rọi những bụi mùn cưa trong không khí.

“Cảm ơn cô, cô Bowen,” Friedrick nói.

“Celia ạ,” cô chữa lại.

Ông trầm tư gật đầu trước khi tiếp tục chuyến tham quan.

Những bức tường phía sau treo kín những chiếc đồng hồ đã hoàn thiện hoặc gần hoàn thiện. Những chiếc chỉ còn chờ lớp đánh bóng cuối cùng hoặc những tiểu tiết. Những chiếc gần sát cửa sổ đã chạy. Mỗi cái chuyển động theo cách riêng, nhưng đều hòa chung một tiết tấu, một bản hòa ca của những tiếng tích tắc được vận hành cẩn thận.

Chiếc đồng hồ thu hút sự chú ý của Celia nằm trên bàn chứ không phải treo tường hay để ở giá.

Đó là một tạo vật xinh đẹp, giống tác phẩm điêu khắc hơn là đồng hồ. Trong khi nhiều đồng hồ làm bằng gỗ, chiếc này được chế tác chủ yếu từ kim loại, không khí đã ăn mòn bề mặt nên màu ngả sẫm. Một lồng tròn đặt trên bệ gỗ khắc những lưỡi lửa trắng xoáy tít. Bên trong, những vòng kim loại chồng lên nhau, có đánh số, các biểu tượng lơ lửng từ trên đỉnh thả xuống, treo mình giữa những bánh răng nhìn thấy được, và một chùm sao rơi xuống từ phần nắp được chạm lộng.

Nhưng chiếc đồng hồ đứng im, không chuyển động. “Cái này khiến tôi nghĩ tới vạc lửa,” Celia nói. “Nó chưa xong ư?”

“Không, nó đã hoàn thiện rồi, nhưng bị hỏng,” Friedrick đáp lại. “Nó là một thử nghiệm, và các cấu phần khó giữ thăng bằng một cách chuẩn xác.” Ông xoay nó lại để cô có thể nhìn thấy những chi tiết mở rộng khắp chiếc lồng, vươn ra đủ mọi hướng. “Những chuyển động cơ học rất phức tạp, vì còn qui chiếu theo những chuyển động thiên văn học nữa. Tôi sẽ gỡ đế và tháo toàn bộ ra để đặt nó chạy lại. Tôi vẫn chưa biết là cần bao nhiêu thời gian nữa.”

“Cho phép tôi được không?” Celia hỏi, vươn tay ra để chạm vào nó. Khi ông gật đầu, cô tháo một chiếc găng tay ra và đặt bàn tay lên những thanh kim loại của chiếc lồng.

Cô chỉ trầm ngâm nhìn, không hề dịch chuyển nó. Với Friedrick, có vẻ như cô đang nhìn xuyên qua chiếc đồng hồ hơn là chỉ đơn giản nhìn nó.

Bên trong, cơ chế bắt đầu chạy, các vấu và bánh răng lướt cùng nhau khi các vòng quay có đánh số xoay tròn về vị trí. Các kim lướt đi để chỉ đúng giờ, những vòng quỹ đạo hành tinh đồng tâm đã về đúng trật tự.

Mọi thứ bên trong lồng chậm rãi quay, những ngôi sao bạc lấp lánh khi chúng bắt sáng.

Ngay khi tiếng tích tắc chậm rãi nhưng đều đặn khẽ vang lên, Celia bỏ tay ra.

Friedrick không hỏi làm thế nào cô có thể làm được. Thay vào đó, ông mời cô dùng bữa tối. Họ nói về rạp xiếc, nhưng dành phần lớn thời gian bữa ăn để thảo luận về sách vở và nghệ thuật, rượu và những thành phố yêu thích. Những khoảng lặng trong cuộc đối thoại không hề ngượng ngập, dù họ cố gắng tìm kiếm nhịp điệu chung khi nói về những điều vốn đã viết trong các bức thư trao đổi, thường đổi từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác.

“Tại sao ông không hỏi tôi làm thế nào thực hiện được các thủ thuật?” Celia hỏi, khi họ đã đạt tới ngưỡng mà cô chắc chắn rằng ông không chỉ đơn giản là giữ ý về chuyện đó.

Friedrick cân nhắc câu hỏi kĩ lưỡng trước khi đáp lại. “Bởi vì tôi không mong muốn biết,” ông nói. “Tôi muốn mình vẫn còn mù mờ, để có thể trân trọng bóng tối hơn.”

Lời nói ấy khiến Celia hạnh phúc, cô không thể đáp lại một cách tương xứng bằng bất kì ngôn ngữ chung nào giữa hai người, chỉ mỉm cười với ông qua ly rượu.

“Hơn nữa,” Friedrick nói tiếp, “chắc cô được hỏi về những thứ như thế suốt rồi. Tôi thấy mình hứng thú muốn biết về người phụ nữ kia hơn là về ảo thuật gia. Tôi hi vọng điều đó có thể chấp nhận được.”

“Hoàn hảo,” Celia nói.

Họ cùng nhau đi tới rạp xiếc sau đó, băng qua những tòa nhà mái đỏ bừng sáng trong ánh nắng nhạt dần, và chỉ tạm biệt khi tới sân.

Friedrick vẫn chưa hiểu tại sao không ai có vẻ như nhận ra cô khi cô đi lẫn trong đám đông.

Khi ông xem buổi biểu diễn, cô chỉ đón ánh mắt ông đúng một lần với nụ cười ý nhị, mà không có thêm bất cứ dấu hiệu nào cho thấy sự nhận ra.

Sau đó, rất lâu sau nửa đêm, Celia xuất hiện khi ông đang rảo bước, cô mặc áo khoác màu kem và quàng khăn xanh thẫm.

“Khăn của cô nên là màu đỏ chứ,” Friedrick nhận xét.

“Tôi đâu phải là một kẻ mộng mơ chân chính,” Celia nói. “Như thế sẽ không đúng lắm.” Nhưng khi cô nói, khăn của cô chuyển sang màu đỏ tía trầm ấm của rượu.

“Như thế này ổn hơn không?”

“Hoàn hảo,” Friedrick nói, dù ánh nhìn của ông vẫn lưu lại ở đôi mắt cô.

Cô khoác cánh tay ông chìa ra và họ cùng bước đi dọc theo những con đường xoắn cuộn vào nhau, qua đám đông những vị khách đang thưa thớt dần.

Họ lặp lại nhịp điệu này vào những buổi tối tiếp theo, dù rạp xiếc không lưu lại Munich lâu, ngay sau khi tin tức từ London tới.