← Quay lại trang sách

THUẬT NHÌN MÈO ĐOÁN MỆNH.-CONCORD, MASSACHUSETTS, THÁNG MƯỜI 1902-

Rời khỏi căn lều của người tiên đoán tương lai và rẽ phải, như cô ấy gợi ý, Bailey gần như ngay lập tức nhìn thấy một đám đông nhỏ đang đứng xem biểu diễn. Đầu tiên cậu không thể nhìn ra cái gì, không hề có sàn diễn được nâng cao. Dòm qua khoảng trống giữa những người xem, cậu nhìn thấy một chiếc vòng, lớn hơn chiếc nghệ sĩ uốn dẻo dùng, được giữ trong không trung. Khi tiến lại gần hơn, cậu thoáng thấy con mèo con màu đen nhảy qua vòng, đáp xuống ở chỗ khuất tầm mắt. Người phụ nữ trước mặt cậu đội chiếc mũ to đùng xoay người, và rồi cậu lại nhìn thấy một chàng trai tầm tuổi mình, hơi thấp hơn, mặc bộ đồ màu đen từ đủ loại vải, và đội mũ đen cùng bộ. Trên vai cậu ta có hai con mèo trắng như đá. Khi cậu ta nhấc bàn tay mang găng đen lên, lòng bàn tay mở ra, một trong mấy con mèo nhảy lên đó và bật khỏi lòng bàn tay cậu, bay qua chiếc vòng, trình diễn một màn lộn cù mèo khá ấn tượng ở đỉnh điểm của cú nhảy. Nhiều người trong nhóm nhỏ khán giả ấy bật cười, và có những người, trong đó có Bailey, vỗ tay tán thưởng. Người phụ nữ với chiếc mũ to bước hẳn sang bên, làm thoáng tầm nhìn của Bailey. Bàn tay đang vỗ bỗng cứng đờ khi cậu nhìn thấy cô gái vừa mới đỡ lấy con mèo trắng và giờ đang nâng nó lên vai cho ngồi cùng với con mèo đen.

Cô ấy lớn hơn rồi, như cậu đã nghĩ, và mái tóc đỏ được giấu trong chiếc mũ màu trắng. Nhưng trang phục vẫn như cô đã mặc trong lần cuối cậu nhìn thấy: chiếc váy may từ tất cả loại vải có thể hình dung được, mỗi mảnh mang những sắc độ trắng tuyết khác nhau, áo khoác trắng với hàng khuy, và đôi găng tay trắng sáng.

Cô quay đầu, Bailey bắt được ánh mắt của cô, và cô mỉm cười với cậu. Không phải theo cách người ta mỉm cười với một khán giả bất kì khi đang giữa màn biểu diễn xiếc cùng những con mèo con tài năng bất thường, mà là theo cách một người mỉm cười khi nhận ra ai đó đã lâu không gặp. Bailey nhận ra được sự khác biệt ấy, và việc cô nhớ ra cậu là ai khiến cậu thỏa mãn đến cực độ mà không thể giải thích nổi. Cậu cảm thấy hai tai mình đang nóng lên bất chấp cái lạnh của bầu không khí vào buổi đêm.

Cậu xem nốt màn biểu diễn vô cùng chăm chú, để ý tới cô gái có phần nhiều hơn so với lũ mèo con, dù chúng quá ấn tượng để bị phớt lờ, và đôi lúc chúng đã thu hút được sự chú ý của cậu. Khi màn biểu diễn kết thúc, cô gái và chàng trai (và lũ mèo) cúi chào, đám đông vỗ tay và huýt sáo.

Bailey đang băn khoăn xem mình nên nói gì, nếu như cậu nên nói gì đó, khi đám đông bắt đầu giải tán. Một người đàn ông đùn đẩy phía trước cậu, một người phụ nữ lại chắn đường bên cạnh, và Bailey hoàn toàn mất dấu cô gái. Cậu đẩy mình qua đám đông, và khi cậu thoát được ra ngoài, cô gái và chàng trai cùng lũ mèo đã chẳng còn thấy đâu nữa.

Đám đông quanh cậu nhanh chóng giảm xuống còn vài người tha thẩn đi lại dọc lối đi. Không còn hướng khác để đi, theo như cậu thấy. Chỉ còn những bức vách kẻ sọc cao của những căn lều, và cậu chậm rãi quay xung quanh, tìm kiếm một nơi nào đó có thể là nơi họ đã biến mất vào trong, một góc khuất hay một cánh cửa. Cậu đang giận mình vì đã đến thật gần chỉ để thất bại thì có một cái vỗ lên vai.

“Chào cậu, Bailey,” cô gái nói. Cô đang đứng ngay sau cậu. Cô đã bỏ mũ ra, mái tóc đỏ rơi xuống thành từng lọn sóng quanh vai, và cô đã thay áo khoác trắng bằng một chiếc áo dày màu đen và khăn len tím nổi bật. Chỉ có chân váy cầu kỳ và đôi ủng trắng là dấu hiệu nhận ra cô chính là cô gái đã biểu diễn ở ngay tại đây cách đó không lâu. Nếu không, cô trông giống như bất kì người khách nào trong rạp xiếc.

“Chào,” Bailey nói. “Tớ không biết tên đằng ấy.”

“Ồ, xin lỗi nhé,” cô nói. “Tớ quên mất là chúng ta chưa bao giờ được giới thiệu một cách đầy đủ.” Cô chìa bàn tay mang găng trắng ra, và Bailey nhận ra nó lớn hơn chiếc găng cậu đã được tặng, như bằng chứng về một khoảng thời gian dài đã trôi qua. “Tớ là Penelope, nhưng chẳng ai gọi tớ như thế cả, cơ mà tớ cũng không thực sự thích cái tên đó lắm, vì thế trong bất cứ mục đích hay hoàn cảnh nào, tớ là Poppet.”

Bailey nắm lấy tay cô và lắc nhẹ. Ấm hơn cậu nghĩ, dù đã qua hai lớp găng tay.

“Poppet,” Bailey nhắc lại. “Người tiên đoán tương lai đã nói với tớ rồi, nhưng lúc ấy tớ không nhận ra đó là tên cậu.”

Cô mỉm cười với cậu.

“Cậu đã gặp Isobel à?” cô hỏi.

Bailey gật đầu.

“Chị ấy đáng yêu không?” Bailey tiếp tục gật đầu, dù cậu không chắc gật đầu có phải là lời đáp lại phù hợp không.

“Chị ấy có nói với cậu điều gì tốt về tương lai của cậu không?” Poppet hỏi, hạ thấp giọng xuống thành một lời thì thào đầy kịch tính.

“Chị ấy nói với tớ nhiều thứ mà tớ không hiểu,” Bailey thú nhận.

Poppet gật đầu vẻ thấu hiểu.

“Chị ấy vẫn thế,” Poppet nói. “Nhưng chị ấy có ý tốt đấy.”

“Cậu có được phép ra ngoài như thế này không?” Bailey hỏi, chỉ vào dòng khách đang tiếp tục tha thẩn bước đi, hoàn toàn bỏ qua hai đứa.

“Ồ có chứ,” Poppet nói, “miễn bọn tớ không để lộ tung tích là được.” Cô chỉ vào chiếc áo khoác. “Chẳng ai thực sự liếc nhìn bọn tớ đến cái thứ hai ấy. Đúng không, anh Widget?” Cô quay sang chàng trai đứng gần đó, Bailey thậm chí còn không nhận ra được đó là bạn diễn của Poppet. Cậu ta đã thay áo khoác đen sang một chiếc khác bằng vải tuýt nâu, và mái tóc cậu ta phía dưới chiếc mũ cùng màu cũng một màu đỏ rực như tóc Poppet.

“Người ta không chú tâm mấy tới thứ gì trừ phi cậu cho họ lý do,” cậu ta nói. “Mặc dù mái tóc này cũng có thể hữu ích vì nhìn như bọn tôi không thuộc về một rạp xiếc đen-và-trắng.”

“Bailey, đây là anh trai tớ, Winston,” Poppet nói.

“Widget chứ,” cậu ta sửa lại.

“Em biết rồi,” Poppet nói, giọng hơi gắt. “Và Widge, đây là Bailey.”

“Hân hạnh được gặp cậu,” Bailey nói, chìa tay ra bắt.

“Tôi cũng thế,” Widget đáp lại. “Bọn tôi định đi dạo, nếu cậu muốn đi cùng.”

“Đi cùng đi,” Poppet nói thêm. “Bọn tớ hiếm khi có bạn đi cùng lắm.”

“Chắc chắn rồi, tớ sẵn lòng,” Bailey nói. Cậu chẳng thể nghĩ ra dù chỉ một lý do để từ chối, và thấy dễ chịu vì cả hai đều có vẻ cực kì dễ nói chuyện. “Hai người có phải làm việc, ừm, nào khác trong rạp xiếc không?”

“Ít nhất trong vài tiếng nữa thì không,” Widget nói, khi mấy đứa bắtđầu đi theo một lối khác qua rạp xiếc. “Lũ mèo cần được nghỉ. Biểu diễn xong bọn nó buồn ngủ.”

“Chúng rất giỏi, làm thế nào mà hai cậu khiến chúng làm được những trò đó vậy? Tớ chưa bao giờ nhìn thấy mèo biết nhào lộn trên không cả,” Bailey nói. Cậu nhận ra cả ba đang đi cùng một tốc độ, thành nhóm một cách dễ dàng. Cậu vẫn quen đi sau vài bước.

“Hầu như con mèo nào cũng sẽ làm được bất cứ điều gì nếu cậu đề nghị chúng một cách nhã nhặn,” Poppet nói. “Nhưng huấn luyện chúng sớm thì sẽ tốt hơn.”

“Và thưởng thật nhiều cho chúng nữa,” Widget nói thêm. “Phần thưởng lúc nào cũng có ích.”

“Cậu đã nhìn thấy mèo lớn chưa?” Poppet hỏi.

Bailey lắc đầu.

“Ồ, thế thì cậu phải nhìn cơ. Bố mẹ bọn tớ trình diễn với lũ mèo lớn; căn lều ở phía kia kìa.” Cô chỉ về một hướng nào đó bên tay phải.

“Giống như màn biểu diễn của tụi này thôi, chỉ là với những con mèo to hơn,” Widget giải thích.

“To hơn rất nhiều á,” Poppet phụ họa. “Báo đen và những con báo đốm tuyết tuyệt đẹp. Chúng thực sự rất ngoan.”

“Và chúng có một căn lều nữa,” Widget nói thêm.

“Tại sao hai cậu lại không có lều?” Bailey hỏi.

“Thực ra thì bọn tớ cũng không cần,” Poppet nói. “Bọn tớ chỉ có thể biểu diễn vài lần trong một đêm, và tất cả những gì bọn tớ cần là lũ mèo con, vòng, dây và mấy thứ khác. Bất kì ai không nhất thiết phải có lều sẽ biểu diễn ở bất kì chỗ nào có thể.”

“Để tăng thêm không khí,” Widget nói. “Như vậy cậu có thể nhìn thấy phần này phần kia của rạp xiếc mà không cần phải chọn căn lều nào để vào, chỉ cần cứ lang thang chung quanh.”

“Như thế có lẽ sẽ rất tốt với những ai còn lưỡng lự,” Bailey nói, mủm mỉm cười khi cả Poppet và Widget bật cười to. “Quả là khó khi phải chọn lều nào, hai cậu biết đấy, khi có bao nhiêu là lều.”

“Đúng thế thật,” Poppet nói. Cả bọn đã tới sân vạc lửa. Khuôn viên khá đông và Bailey vẫn ngạc nhiên khi không có ai để ý tới họ mà cứ mặc định coi họ chỉ như bất kì nhóm khách trẻ tuổi nào đó đang đi chơi tối.

“Anh đói quá,” Widget thốt lên.

“Anh thì lúc nào mà chẳng đói,” Poppet bắt bẻ. “Thế mình mua cái gì ăn nhé?”

“Ừ,” Widget nói. Poppet le lưỡi với anh.

“Em đang hỏi Bailey chứ,” cô nói. “Bọn mình mua cái gì ăn nhé, Bailey?”

“Được chứ,” Bailey đáp. Poppet và Widget có vẻ hợp với nhau hơn cậu và Caroline nhiều, và Bailey cho rằng đó là vì họ suýt soát tuổi nhau. Cậu không biết liệu có phải hai người là sinh đôi hay không; đương nhiên cả hai trông đủ giống nhau để làm một cặp song sinh, và cậu nghĩ nếu hỏi thì có thể khá là thô lỗ.

“Cậu đã thử mấy món quế chưa?” Poppet hỏi. “Khá mới đấy. Gọi là gì ấy nhỉ, Widge?”

“Quế ngon kì ảo ấy hả?” Widget nói và nhún vai. “Anh không nghĩ là tất cả mấy món mới đều đã có tên đâu.”

“Tớ chưa thử, nhưng nghe có vẻ ngon.”

“Ngon mà,” Widget nói. “Rất nhiều lớp bánh, quế và đường xoắn lại với nhau rồi phủ kem đường bên ngoài.”

“Chà chà,” Bailey xuýt xoa.

“Chính xác đấy,” Widget đáp lại. “Và bọn mình nên mua ít ca-cao và sô-cô-la chuột nữa.”

“Tớ có sô-cô-la chuột đây,” Bailey nói, lôi cái bịch từ trong túi áo ra. “Lúc nãy tớ đã mua rồi.”

“A, vậy là cậu đã tính trước rồi. Rất tốt khi biết phòng xa,” Widget nói. “Em nói đúng về cậu ta đó, Poppet.”

Bailey nhìn Poppet một cách khó hiểu, nhưng cô chỉ mỉm cười với cậu.

“Bailey và em đi mua ca-cao còn anh đi lấy mấy cái món quế gì gì đó nhé?” cô hỏi, và Widget gật đầu.

“Được rồi. Gặp lại ở vạc lửa nhé?” cậu anh hỏi. Poppet gật đầu, và Widget chạm nhẹ vào mũ để chào cả hai rồi bước vào đám đông.

Bailey và Poppet tiếp tục đi quanh sân vạc lửa. Sau hồi lâu im lặng dễ chịu, Bailey lên tinh thần để hỏi một câu, câu hỏi mà cậu không chắc là mình sẽ thoải mái nêu lên một khi họ quay lại gặp Widget.

“Tớ hỏi cậu chuyện này được không?” Bailey ướm lời. “Đương nhiên rồi,” Poppet nói.

Có một hàng đang đợi mua ca-cao nhưng người bán hàng nhận ra Poppet đang giơ ba ngón tay với ông, và ông mỉm cười gật đầu.

“Khi mà... ừm, khi mà rạp xiếc ở đây lần trước ấy, và tớ, à...” Bailey chật vật tìm từ, cảm thấy khó chịu vì câu hỏi khi ở trong đầu cậu dường như đơn giản hơn rất nhiều.

“Ừ?” Poppet nói.

“Sao cậu biết được tên tớ?” Bailey hỏi. “Và làm sao mà cậu biết được tớ ở đó?”

“Hmmmm...” Poppet nói, như thể cô đang khó tìm đúng từ để đáp lại. “Không dễ giải thích đâu,” cô bắt đầu. “Tớ nhìn được sự việc trước khi chúng xảy ra. Tớ đã nhìn thấy cậu đến, không lâu trước khi cậu đến đó. Và không phải lúc nào tớ cũng nhìn thấy rõ các chi tiết, nhưng khi nhìn thấy cậu tớ đã biết tên cậu là gì, cũng như biết khăn của cậu màu xanh lam ấy.”

Họ đứng ở đầu hàng và người bán hàng đã làm sẵn ba cốc ca-cao trong những chiếc cốc kẻ sọc cho họ, thêm cả kem béo xịt lên trên. Poppet đưa cho Bailey một cốc và tự mình cầm hai cốc còn lại. Bailey nhận thấy người bán hàng vẫy chào họ mà không cầm tiền. Cậu nghĩ ca-cao miễn phí là một quyền lợi khi là thành viên của rạp xiếc.

“Vậy là cậu nhìn thấy mọi thứ trước khi chúng xảy ra sao?” Bailey hỏi. Cậu không chắc câu trả lời của Poppet hoàn toàn là những gì cậu mong muốn, nếu như cậu có mong muốn bất cứ điều gì.

Poppet lắc đầu.

“Không, không phải mọi thứ. Thỉnh thoảng chỉ là các phần của sự việc thôi, như những con chữ và bức tranh trong một quyển sách, nhưng quyển sách ấy lại có vô khối trang bị mất và nó đã bị đánh rơi xuống ao, vài phần thì bị mờ đi, những phần khác thì không. Như thế có dễ hình dung không?” cô hỏi.

“Không hẳn,” Bailey trả lời.

Poppet bật cười. “Tớ biết là nghe rất lạ lùng mà,” cô nói.

“Không, không hề,” Bailey nói. Poppet quay sang nhìn cậu, vẻ nghi hoặc hiện rõ trên mặt cô. “À, ừ, có lạ. Nhưng chỉ là kì lạ thôi chứ không phải quái lạ.”

“Cảm ơn cậu, Bailey,” Poppet nói. Họ lượn quanh sân, quay lại vạc lửa. Widget đang đứng đợi, tay cầm túi giấy màu đen và đang ngắm nhìn những lưỡi lửa trắng sáng rực.

“Sao mà đi lâu thế?” Widget hỏi.

“Bọn em phải xếp hàng mà,” Poppet đáp, và đưa cho cậu cốc ca-cao. “Anh không phải à?”

“Không. Hình như người ta chưa phát hiện ra mấy món này ngon như thế nào,” Widget nói, lắc lắc cái túi. “Vậy đi chứ hả?”

“Em nghĩ thế,” Poppet tán thành.

“Bọn mình sẽ đi đâu?” Bailey hỏi.

Poppet và Widget liếc nhau trước khi Poppet trả lời. “Chúng ta sẽ đi loăng quăng,” cô nói. “Vòng quanh rạp xiếc. Để... để xem các thứ. Cậu muốn đi cùng bọn tớ mà, đúng không?”

“Dĩ nhiên rồi,” Bailey nói, cảm thấy nhẹ nhõm khi không phải gượng ép gì.

Họ đi lòng vòng quanh rạp xiếc, nhấm nháp ca-cao, nhai sô-cô-la chuột và món bánh quế đường ngon y như hứa hẹn. Poppet và Widget kể cho Bailey nghe những câu chuyện về rạp xiếc, chỉ trỏ các căn lều mà họ đi qua, và Bailey trả lời những câu hỏi của hai anh em về thị trấn của cậu. Cậu thấy thật lạ lùng khi họ có vẻ hứng thú với những gì cậu coi là rất tạp nhạp. Cả ba nói chuyện với nhau thoải mái như những người đã biết nhau hàng năm trời, cùng sự hứng thú của những người bạn mới và những câu chuyện mới.

Nếu Poppet và Widget đang để tâm tới bất kì thứ gì ngoài ca-cao và bản thân cậu, thì Bailey không thể đoán được đó có thể là gì.

“Vọng Tinh Các là gì?” cậu hỏi khi nhìn một tấm biển mà cậu chưa từng thấy trước đó, khi họ đi vứt mấy cái cốc và túi đã trống trơn.

“Lên nhìn chứ, Poppet?” Widget hỏi em gái. Cô ngừng lại một lúc trước khi gật đầu. “Poppet đọc được những ngôi sao,” cậu giải thích cho Bailey. “Đây là nơi dễ nhất để nhìn tương lai.”

“Gần đây thì không dễ thế đâu,” Poppet khẽ nói. “Nhưng chúng ta có thể lên. Nơi này chỉ mở cửa vào những đêm quang mây thôi, vì thế ai mà biết được liệu chúng ta có cơ hội nào khác không khi ở đây.”

Họ bước vào trong, đi hàng một lên cầu thang cong cong quanh chu vi, một tấm rèm nặng màu đen ngăn vách cầu thang với phần nội thất của căn lều. Trên vách phủ kín các sơ đồ, điểm và đường kẻ trắng trên nền giấy đen, bản đồ các chòm sao được đóng khung.

“Cũng giống cách người tiên đoán tương lai đọc các lá bài có tranh phải không?” Bailey hỏi, vẫn đang cố gắng suy nghĩ về ý tưởng nhìn thấy tương lai.

“Kiểu như thế, nhưng khác,” Poppet nói. “Tớ không thể đọc được bài tarot nhưng Widget lại có thể.”

“Chúng là những câu chuyện trên giấy,” Widget nói, nhún vai. “Cậu nhìn thấy những câu chuyện trên từng lá bài kết hợp với nhau như thế nào; thực ra không khó đến thế đâu. Nhưng với những câu chuyện đó cậu có mọi khả năng và sự việc có thể xảy ra, những con đường khác nhau để đi. Còn Poppet nhìn thấy những điều sẽ thực sự xảy ra.”

“Nhưng chúng lại không rõ bằng,” Poppet giải thích. “Không có bối cảnh, và hầu như tớ không biết những điều đó có nghĩa gì cho đến mãi về sau. Thỉnh thoảng còn đến khi đã quá muộn nữa.”

“Cớ bao biện được chấp nhận, Poppet,” Widget nói, bóp vai em gái. “Nếu muốn, em chỉ cần nghĩ rằng tụi mình chơi một vòng cho vui thôi.”

Cầu thang dẫn ba người bạn tới một bục cao màu đen, nơi mọi thứ đều đen miên man, trừ một người của rạp xiếc trong bộ đồ trắng đang hướng dẫn những vị khách bên trong. Ông mỉm cười với Poppet và Widget, tò mò liếc Bailey, khi ông dẫn cả bọn đi qua bóng tối để vào một thứ giống như xe trượt hoặc toa tàu.

Họ lách người ngồi lên băng ghế đệm có lưng tựa và hai bên thành ghế cao, cánh cửa ở bên hông đóng lại khi Poppet yên vị giữa Bailey và Widget. Nó trượt đi từ từ nhưng Bailey chẳng thấy gì ngoài bóng tối.

Rồi có thứ gì đó quanh họ phát ra tiếng lách cách và toa xe hơi rơi xuống một chút, cùng lúc nó ngả ra sau để tất cả nhìn lên trên thay vì nhìn về trước.

Bailey nhận ra căn lều không có mái. Phần trên lộ thiên và cả bầu trời đêm hiện ra thật trọn vẹn.

Một cảm giác khác biệt so với ngắm sao khi nằm dài trên cánh đồng, một việc mà Bailey đã làm vô số lần. Không có tán cây bao quanh, và toa xe lắc lư nhè nhẹ khiến cậu cảm thấy như phi trọng lượng.

Và im lặng đến kinh ngạc. Khi toa xe di chuyển, có vẻ như theo đường tròn, Bailey không thể nghe thấy gì ngoài tiếng cót két khe khẽ và tiếng thở của Poppet bên cạnh cậu. Dường như cả rạp xiếc mờ đi trong bóng tối.

Cậu liếc sang nhìn Poppet, cô đang nhìn cậu thay vì nhìn trời. Poppet cười rạng rỡ với cậu và rồi quay đi.

Bailey băn khoăn liệu cậu có nên hỏi cô có nhìn thấy bất cứ điều gì trên những ngôi sao kia không.

“Em không phải làm nếu như em không muốn,” Widget nói, dự đoán được câu hỏi.

Poppet làm mặt xấu với anh trai nhưng rồi tập trung lên trên, nhìn sâu vào bầu trời đêm trong vắt. Bailey chăm chú quan sát cô. Trông cô như thể đang ngắm nhìn một bức tranh hay đọc một dấu hiệu từ đằng xa, mắt hơi nheo lại.

Cô đột ngột dừng lại, ấp hai bàn tay lên mặt, ép những ngón tay mang găng trắng lên trên mắt. Widget đặt tay lên vai cô.

“Cậu ổn chứ?” Bailey hỏi.

Poppet hít sâu một hơi rồi mới gật đầu, vẫn để tay trên mặt.

“Tớ không sao,” cô nói, giọng run rẩy. “Nó rất... sáng. Nó khiến đầu tớ nhói đau.”

Cô bỏ tay ra khỏi mặt và lắc đầu; dù là điều gì khiến cô phiền muộn, giờ cũng đã hoàn toàn biến mất.

Trong suốt thời gian còn lại của chuyến đi, không một ai trong ba người ngẩng lên nhìn bầu trời sao lấp lánh nữa. “Tớ xin lỗi,” Bailey khẽ nói khi họ bước xuống một cầu thang cong cong khác để ra ngoài.

“Đó không phải là lỗi của cậu,” Poppet nói. “Lẽ ra tớ nên biết rõ hơn, những ngôi sao gần đây luôn thế, chẳng có nghĩa gì và làm tớ đau đầu. Có lẽ tớ nên thôi gắng sức một thời gian xem sao.”

“Em cần thứ gì đó vui vui,” Widget nói khi họ quay lại với âm thanh rộn rã của rạp xiếc. “Vân Mê Cung chăng?”

Poppet gật đầu, đôi vai thả lỏng một chút.

“Vân Mê Cung là gì?” Bailey hỏi.

“Cậu chưa tìm thấy bất kì căn nào trong những căn lều hay ho nhất, phải không?” Widget nói, lắc đầu. “Cậu sẽ phải quay lại đây, chúng ta không thể đi hết tất cả trong một đêm. Có lẽ đó là lí do vì sao Poppet bị đau đầu, nó nhìn thấy cảnh chúng tôi phải lôi cậu đi qua từng căn lều một để thấy những gì cậu đã bỏ lỡ.”

“Widge có khả năng nhìn thấy quá khứ,” Poppet đột nhiên nói, chuyển hướng cuộc đối thoại. “Đó là một trong những lý do vì sao câu chuyện của anh ấy luôn rất hay.”

“Quá khứ dễ hơn mà,” Widget nói. “Nó luôn có sẵn.”

“Trong các ngôi sao ư?” Bailey hỏi.

“Không,” Widget nói. “Trong con người. Quá khứ ở lại trong cậu giống như đường bột dính trên những ngón tay. Một số người có thể phủi đi nhưng nó vẫn ở đó, những sự kiện và sự vật đã đẩy cậu tới nơi cậu đứng bây giờ. Tôi có thể... à, đọc không phải là từ đúng, mà nó cũng không phải là từ đúng với việc Poppet làm với những ngôi sao.”

“Vậy cậu có thể nhìn thấy quá khứ của tôi trong tôi sao?” Bailey hỏi.

“Tôi có thể,” Widget nói. “Tôi cố không làm thế khi không được phép nếu không có gì đột xuất xảy ra. Cậu có phiền không?”

Bailey lắc đầu. “Không hề.”

Widget nhìn chằm chằm vào cậu một lát, không đủ lâu để khiến Bailey không thoải mái dưới sức nặng của ánh nhìn, nhưng cũng gần như thế.

“Có một cái cây,” Widget nói. “Cái cây sồi già khổng lồ này đối với cậu giống nhà hơn ngôi nhà của cậu nhưng lại không nhiều bằng những điều này.” Cậu chỉ quanh những căn lều và những ánh đèn. “Cảm giác như cậu cô đơn kể cả khi ở cùng những người khác. Những quả táo. Và chị gái cậu có vẻ đúng là một nàng bảo ngọc,” Widget bồi thêm vẻ châm biếm.

“Chuẩn đấy,” Bailey bật cười.

“Những quả táo là sao?” Poppet hỏi.

“Trang trại nhà tớ có vườn quả,” Bailey giải thích.

“Ôi, nghe đáng yêu thế,” Poppet nói.

Bailey chưa bao giờ thấy những hàng cây lủn chủn và cong quẹo ấy có gì đáng yêu cả.

“Chúng ta đến nơi rồi,” Widget nói khi cả bọn đi tới một khúc quanh.

Bất chấp vốn trải nghiệm hạn hẹp của mình với rạp xiếc, Bailey vẫn ngỡ ngàng vì cậu chưa bao giờ nhìn thấy căn lều này. Nó cao, gần như cao bằng lều của nghệ sĩ nhào lộn nhưng hẹp hơn. Cậu dừng lại đọc tấm biển ngoài cửa.

Vân Mê Cung

Khám phá trong chiều kích

Leo qua bầu trời

Không có điểm bắt đầu

Hãy vào khi bạn muốn

Và rời đi theo ước nguyện

Đừng sợ bị rơi xuống

Bên trong, căn lều có vách tối màu và một cấu trúc khổng lồ trắng óng ánh ngũ sắc ở trung tâm. Bailey chẳng thể nghĩ ra tên gì khác để gọi nó. Khối khổng lồ ấy chiếm toàn bộ căn lều, chỉ trừ một lối đi được nâng cao bao theo chu vi, một vòng ngoằn ngoèo bắt đầu từ cửa lều và uốn vòng quanh. Sàn nhà phía trên lối đi phủ toàn những khối cầu trắng, hàng ngàn những khối cầu chất đống như bong bóng xà phòng.

Bản thân tòa tháp là một chuỗi những tấm sàn chúc xuống với những hình dáng kì quặc, mờ đục, khá giống những đám mây. Chúng được xếp thành các lớp như bánh. Từ những gì Bailey có thể nhìn, không gian giữa các lớp đa dạng từ những chỗ đủ lớn để đi thẳng vào cho tới đoạn chỉ vừa để bò qua. Đây đó những phần của tòa tháp đang bồng bềnh trôi xa khỏi trung tâm, lững lờ trong không gian.

Và chỗ nào cũng thấy có người đang leo lên. Cheo leo trên những gờ tường, đi trên những lối mòn, trèo cao hơn hoặc thấp hơn. Có những mặt sàn chuyển động vì trọng lượng; số khác có vẻ chắc chắn và vững chãi. Toàn bộ tòa tháp di chuyển không ngừng, một chuyển động nhẹ như hơi thở.

“Vì sao lại gọi là mê cung vậy?” Bailey hỏi.

“Rồi cậu sẽ biết,” Widget nói.

Họ men theo lối đi và nó khẽ khàng đu đưa, như con tàu trên mặt nước. Bailey chật vật giữ thăng bằng khi ngước lên nhìn.

Có những tấm sàn được giữ lơ lửng bởi dây thừng hoặc xích ròng từ trên cao. Ở những lưng chừng thấp hơn, có những cột lớn xuyên qua hàng lớp sàn, mặc dầu Bailey không thể nói chắc được liệu chúng có xuyên thẳng lên tới đỉnh hay không. Mấy nơi khác có những thác vải màn buông xuống, chỗ khác dây thừng rơi rủ như những dải ruy-băng.

Họ dừng lại ở phía xa, nơi lối đi đung đưa đủ gần để nhảy lên một trong mấy tấm sàn thấp hơn.

Bailey nhặt một khối cầu màu trắng lên. Nó nhẹ hơn vẻ ngoài, mềm mại như lông mèo con. Khắp lều, mọi người ném những khối cầu này vào nhau như những quả bóng tuyết, nhưng thay vì vỡ tan chúng bật khỏi mục tiêu, lững lờ trôi xuống. Bailey tung một quả trong tay và đi theo sau Poppet và Widget.

Ngay khi đi được vài bước vào bên trong kết cấu, Bailey có thể hiểu vì sao nó được gọi là mê cung. Cậu đã nghĩ tới các bức vách, góc quanh và ngõ cụt, nhưng cái này hoàn toàn khác. Những tấm sàn được treo ở mọi độ cao: có những cái thấp ngang đầu gối hoặc ngang hông cậu, có những cái vươn cao quá đầu, chồng lấp lên nhau không theo qui tắc nào. Nó là một mê cung mà từ dưới lên trên cũng hệt như từ hai bên vào.

“Gặp lại sau nhé,” Widget nói, rồi nhảy phóc lên một tấm sàn gần đó và leo lên cái ở phía trên.

“Widge luôn đi thẳng một lèo lên tới đỉnh,” Poppet nói. “Anh ấy biết được mọi lối đi nhanh nhất để tới đó.”

Bailey và Poppet chọn lối đi thong thả hơn, hai người chọn ngẫu nhiên những tấm sàn để leo lên, chui qua những thác vải màn trắng và cẩn trọng rón rén qua những lối đi nhỏ hẹp. Bailey không thể nhìn ra đường mép ở đâu hay họ đã leo được bao xa, nhưng cậu thấy nhẹ nhõm khi thấy Poppet dường như đã không còn buồn như lúc ở Vọng Tinh Các, bởi cô đã cười và giúp cậu đi qua những khúc quanh khó hơn.

“Muốn xuống thì làm thế nào?” Bailey hỏi, thực sự băn khoăn sao có thể tìm thấy đường quay về.

“Cách dễ nhất là nhảy thôi,” Poppet nói. Cô kéo cậu qua một khúc quanh bị khuất để lộ ra mép của tấm sàn.

Họ ở cao hơn Bailey cảm thấy rất nhiều, dù vẫn chưa lên tới đỉnh.

“Không sao đâu,” Poppet nói. “An toàn mà.”

“Không thể nào,” Bailey nói, nhòm qua gờ.

“Chẳng có gì là không thể,” Poppet đáp lại. Cô mỉm cười với cậu và nhảy, mái tóc đỏ tung bay phía sau khi cô rơi xuống.

Cô biến mất trong biển khối cầu trắng ở phía dưới, hoàn toàn chìm xuống trước khi bật lên, mái tóc đỏ rực nổi bật trên nền trắng khi cô vẫy cậu.

Bailey chỉ chần chừ trong chốc lát, và rồi cậu cố ngăn mình nhắm mắt lại khi nhảy. Ngược lại, cậu cười vang khi rơi trong không trung.

Chạm vào bể khối cầu ở phía dưới y hệt như rơi vào một đám mây, mềm, nhẹ và dễ chịu.

Khi Bailey trèo ra ngoài, Poppet và Widget đều đang đợi ở lối đi gần đó, Poppet ngồi ở gờ tường đung đưa đôi chân.

“Chúng ta nên về thôi,” Widget nói, lôi đồng hồ từ túi áo ra. “Bọn tôi còn phải chuẩn bị cho lũ mèo diễn suất tiếp theo và giờ cũng gần nửa đêm rồi.”

“Thật sao?” Bailey hỏi. “Tớ không biết là đã muộn thế, tầm giờ này lẽ ra tớ phải ở nhà rồi.”

“Để bọn tớ tiễn cậu ra cổng nhé, Bailey, nhé?” Poppet hỏi. “Có thứ này tớ muốn lấy cho cậu.”

Họ đi bộ cùng nhau dọc theo những lối đi ngoằn ngoèo, băng qua khuôn viên về phía cánh cổng. Poppet nắm tay Bailey kéo cậu qua đường ống phủ rèm, dễ dàng tìm được đường trong bóng tối. Cánh đồng hiện ra phía sau cánh cổng khi họ trờ tới, không đông đúc vào tầm muộn như thế này, dù lác đác vài người khác đến hoặc đi vẫn đứng ở đó.

“Đợi ở đây nhé,” Poppet nói. “Tớ sẽ quay lại ngay.” Cô chạy về phía quầy bán vé trong khi Bailey ngắm nhìn chiếc đồng hồ đang chạy dần đến số mười hai. Chỉ lát sau, Poppet quay lại, có thứ gì đó bàng bạc trong tay cô.

“Ồ, ý kiến hay đấy, Poppet,” Widget nói khi cậu nhìn thấy nó. Bailey nhìn qua lại hai anh em, bối rối. Đó là một mảnh giấy bạc, khoảng cỡ tấm vé của cậu. Poppet đưa nó cho cậu.

“Đây là giấy thông hành đặc biệt,” cô giải thích. “Dành cho những vị khách quan trọng, nên cậu sẽ không phải trả tiền mỗi khi đến rạp xiếc. Cậu chìa cái này ra ở quầy bán vé và họ sẽ cho cậu vào.”

Bailey nhìn nó chằm chằm, mắt mở to.

Tấm thẻ này trao cho người sở hữu nó quyền được vào không giới hạn được in trên một mặt bằng mực đen, và ở mặt kia có ghi:

Le Cirque des Rêves với dòng chữ nhỏ hơn ở bên dưới: Chandresh Christophe Lefèvre, Chủ rạp xiếc

Bailey ngơ ngẩn, cứ nhìn chằm chằm vào tấm thẻ màu bạc sáng óng ánh.

“Tớ nghĩ là chắc cậu sẽ thích,” Poppet nói, nghe có vẻ như không lo lắng khi cậu đờ ra, không phản ứng gì. “Hẳn là thế, nếu cậu muốn quay lại khi bọn tớ còn ở đây.”

“Thật tuyệt vời,” Bailey nói, ngước lên khỏi tấm thẻ.

“Cảm ơn cậu rất nhiều.”

“Có gì đâu,” Poppet nói và mỉm cười. “Và tớ đã dặn họ báo cho tớ và Widget nếu cậu tới, để bọn tớ biết khi nào cậu ở đây và có thể tới tìm cậu. Nếu cậu thấy như thế không vấn đề gì.”

“Tuyệt, tuyệt,” Bailey thốt lên. “Thật đấy, cảm ơn cậu.”

“Vậy là bọn tôi sẽ gặp lại cậu sớm thôi,” Widget nói, chìa tay ra.

“Chắc chắn rồi,” Bailey nói khi bắt tay cậu. “Tớ sẽ quay lại vào đêm mai.”

“Thế thì quá hoàn hảo,” Poppet nói. Khi Bailey buông tay Widget, cô nhoài người về phía trước và hôn phớt lên má cậu, và Bailey cảm nhận được hai má mình ửng lên. “Một đêm tốt lành nhé,” cô nói thêm khi tách ra.

“C... cậu cũng thế,” Bailey nói. “Chúc ngủ ngon.” Cậu vẫy chào họ trước khi hai anh em chui vào sau tấm rèm nặng, và ngay khi họ biến mất, cậu xoay người đi về nhà. Tưởng như một đời người đã trôi qua khi cậu tới rạp xiếc, dù thực ra mới chỉ có vài giờ. Và hơn thế nữa, cảm tưởng như thằng Bailey bước vào rạp xiếc là một người hoàn toàn khác với kẻ đang rời đi bây giờ, cùng tấm thẻ bạc trong túi. Cậu tự hỏi đâu mới là Bailey thực sự, bởi chắc chắn thằng Bailey vẫn dành hàng giờ một mình trong những tán cây không phải là thằng Bailey được đặc cách vào một rạp xiếc hoành tráng, làm bạn với những con người thú vị mà thậm chí còn chẳng phải cố gắng gì. Đến khi về tới trang trại, cậu chắc chắn rằng thằng Bailey của hiện tại gần với thằng Bailey mà cậu muốn trở thành hơn là thằng Bailey của những ngày trước đó.

Có thể cậu không chắc chắn điều này có nghĩa gì, nhưng bây giờ cậu không nghĩ đó là vấn đề.

Trong giấc mơ, cậu là chàng hiệp sĩ trên lưng ngựa, mang thanh gươm bạc, và rút cục thì điều đó thực sự chẳng có gì là lạ cả.