← Quay lại trang sách

TÊTE-À-TÊTE[27] LONDON, THÁNG TÁM 1896-

Bữa Tối Lúc Nửa Đêm đêm nay khá trầm, bất chấp số lượng khách mời. Rạp xiếc đang chuẩn bị cho đợt biểu diễn gần London, mới đây đã rời Dublin, nên chỉ có một số nghệ sĩ có mặt. Ông Barris cũng từ Vienna đến thăm.

Celia Bowen dành phần lớn thời gian trong bữa ăn trò chuyện cùng Mme. Padva được sắp chỗ ngồi phía bên trái cô, bà khoác lên mình thứ lụa màu lam thẫm và óng ánh như đá lapis.

Chiếc váy Celia mặc là một thiết kế của Mme. Padva, được may làm trang phục biểu diễn nhưng hóa ra không mấy thích hợp, chất vải bạc bắt sáng ở từng nếp gấp và ôm dáng người theo một cách thật rất dễ khiến người ta xao nhãng. Nhưng có nhiều lời tán thưởng và ngợi ca đến mức Celia không đành lòng bỏ rơi nó, nên cô giữ chiếc váy lại làm trang phục bình thường.

“Cưng ơi, ai đó không thể nào rời mắt khỏi cưng kìa,” Mme. Padva ý tứ nghiêng chiếc ly về phía cửa ra vào, nơi Marco đang đứng lặng lẽ ở bên, hai bàn tay chắp lại sau lưng.

“Có lẽ anh ta chỉ đang chiêm ngưỡng tác phẩm của bà thôi,” Celia nói, không buồn quay đầu.

“Ta lại cho rằng anh chàng hứng thú với những thứ bên trong hơn bản thân chiếc váy nhiều.”

Celia chỉ cười, nhưng cô biết Mme. Padva nói đúng, vì cô cảm nhận được ánh nhìn của Marco thiêu đốt phía sau gáy mình suốt cả buổi tối, và cô đang càng lúc càng khó phớt lờ.

Sự chú ý của anh chỉ rời khỏi Celia đúng một lần, khi Chandresh xô đổ ly pha lê đầy rượu, suýt chút nữa là va vào một trong mấy cây đèn nến, làm rượu đỏ loang ra khắp tấm khăn trải bàn bằng gấm thêu kim tuyến ánh vàng.

Nhưng trước khi Marco kịp phản ứng, từ phía đầu bàn bên kia Celia nhỏm phắt dậy, dựng lại cái ly mà không cần đụng vào nó, một chi tiết mà chỉ có Chandresh mới có được góc nhìn hoàn hảo để nhận ra. Khi cô thu tay, ly rượu lại đầy trở lại, và tấm khăn trải bàn sạch bong.

“Vụng về quá, vụng về quá,” Chandresh lúng búng, nhìn Celia cảnh giác trước khi quay đi tiếp tục nói chuyện với ông Barris.

“Lẽ ra cô nên làm vũ công ba-lê mới phải,” Mme. Padva khen Celia. “Dáng cô đứng dậy rất tuyệt đấy.”

“Không cần đứng dậy tôi cũng tuyệt nữa mà,” Celia nói, và ông Barris suýt chút nữa lại làm đổ ly rượu trong khi Mme. Padva cười khúc khích.

Suốt thời gian còn lại của bữa tối, Celia vẫn luôn để ý Chandresh. Ông chủ yếu thảo luận cùng ông Barris gì đó nghe như sửa sang lại ngôi nhà, thi thoảng cứ lặp lại những điều đã nói nhưng ông Barris vờ như không nhận ra. Chandresh không chạm lại vào ly rượu, nó vẫn đầy nguyên khi được dọn đi vào cuối bữa.

Sau bữa tối, Celia là người cuối cùng ra về. Trong lúc giã biệt, cô không nhớ đã để khăn quàng ở đâu, lại không muốn bất cứ ai phải đợi trong khi mình đi tìm, nên đã vẫy chào tạm biệt những người ra về trong bóng đêm.

Cố tìm kiếm một mảnh ren trắng ngà trong đống hỗn loạn của la maison Lefèvre là việc chẳng dễ dàng gì. Celia đã quay lại lối đi qua thư viện và phòng ăn nhưng vẫn không tìm thấy đâu.

Cuối cùng, Celia đành bỏ cuộc, quay lại sảnh nơi Marco đang đứng cạnh cửa, chiếc khăn của cô vắt trên cánh tay anh.

“Có phải cô đang tìm thứ này không, cô Bowen?” anh hỏi.

Anh choàng nó lên vai cô nhưng chiếc khăn tan biến qua các kẽ ngón tay anh, rơi xuống như bụi.

Khi anh ngẩng lên nhìn Celia lần nữa, cô đang quàng chiếc khăn, nút thắt hoàn hảo, như thể chưa từng bị tháo ra.

“Cảm ơn anh,” Celia nói. “Ngủ ngon nhé.” Cô lướt qua anh và ra khỏi cửa trước khi anh kịp phản ứng.

“Cô Bowen này?” Marco gọi, đuổi theo khi cô đang bước xuống cầu thang.

“Vâng?” Celia đáp, quay người lại khi đặt chân xuống vỉa hè.

“Tôi hi vọng mình có thể làm phiền cô vì món đồ uống chúng ta đã để lỡ ở Prague,” Marco nói. Anh nhìn chăm chú khi cô suy nghĩ.

Ánh mắt anh lúc này còn mãnh liệt hơn cả khi đặt lên sau cổ cô, và dù Celia có thể cảm nhận được vẻ uy hiếp trong đôi mắt ấy, một kĩ thuật bố cô luôn yêu thích, thì vẫn có điều gì đó chân thành, điều gì đó gần giống như một lời khẩn cầu tha thiết.

Chính là vì thế, cùng với lòng hiếu kì, Celia gật đầu đồng ý.

Anh mỉm cười và quay đi, bước vào trong nhà, để cửa ngỏ.

Sau một lát, cô đi theo. Cánh cửa đóng và khóa lại sau lưng cô.

Bên trong, phòng ăn đã được dọn sạch nhưng nến vẫn cháy trên giá.

Hai ly rượu đặt trên bàn.

“Chandresh đâu rồi?” Celia hỏi, nhấc một ly lên và đi về phía bên kia bàn, nơi Marco đứng.

“Ông ấy đang nghỉ ở tầng năm,” Marco nói, lấy ly còn lại cho mình. “Ông ấy đang cho sửa lại khu lúc trước dành cho người phục vụ thành phòng riêng vì thích cảnh nhìn từ phòng đó. Ông ấy sẽ không xuống nhà cho tới sáng. Những người làm khác thì đã về, vì thế gần như cả tòa nhà này sẽ là của riêng chúng ta.”

“Anh có thường xuyên tiếp khách riêng khi khách của ông ấy đã về không?” Celia hỏi.

“Chưa bao giờ.”

Celia nhìn anh khi cô nhấp rượu. Có điều gì đó ở vẻ ngoài của anh khiến cô băn khoăn, nhưng cô vẫn chưa thể xác định chính xác đó là gì.

“Có đúng Chandresh thực sự khăng khăng rằng tất cả lửa trong rạp xiếc phải là màu trắng để hợp với tông đen-trắng của khu rạp không?” một lát sau cô hỏi.

“Quả đúng vậy,” Marco nói. “Ông ấy đã nói với tôi là cần liên hệ với một nhà hóa học hay nhà gì đó đại loại thế. Tôi đã quyết định tự mình giải quyết.” Anh lướt ngón tay qua những cây nến trên bàn và ngọn lửa chuyển từ sắc vàng ấm áp thành màu trắng lạnh, lóe lên ánh xanh bạc ở chính giữa. Anh đưa ngón tay theo chiều ngược lại, và nó lại quay trở về bình thường.

“Cô gọi điều đó là gì?” Marco hỏi. Celia không cần hỏi ý anh là gì.

“Điều khiển. Hồi bé tôi đã cho rằng đó là phép thuật màu nhiệm. Phải mất một thời gian tôi mới có thể bỏ được thói quen đó, dù bố tôi chưa bao giờ quan tâm tới thuật ngữ ấy. Ông sẽ gọi nó là mê hoặc, hoặc thao túng vũ trụ bằng sức mạnh khi ông không có hứng ngẫm ngợi sự ngắn ngủi của cuộc đời.”

“Mê hoặc ư?” Marco nhắc lại. “Tôi lại chưa từng nghĩ về nó như thế.”

“Vô lý,” Celia nói. “Đó chính xác là những gì anh vẫn làm. Anh mê hoặc người khác. Rõ ràng anh rất giỏi chuyện đó. Anh khiến cho biết bao người yêu anh. Isobel. Chandresh. Và chắc chắn còn có nhiều người khác nữa.”

“Làm sao cô biết về Isobel?” anh hỏi.

“Đoàn xiếc đúng là lớn thật nhưng mọi người đều nói chuyện về nhau,” Celia nói. “Cô ấy dường như cực kì tâm huyết với một ai đó mà không ai trong chúng tôi từng gặp mặt. Ngay lập tức tôi đã nhận ra rằng cô ấy đặc biệt quan tâm tới tôi, tôi thậm chí đã có lúc còn thắc mắc liệu cô ấy có phải là đối thủ của mình hay không. Sau khi anh xuất hiện ở Prague trong khi cô ấy đang đợi ai đó thì phần còn lại khá dễ đoán. Tôi không tin còn có ai khác biết nữa. Cặp song sinh nhà Murray còn đặt giả thuyết là cô ấy đang yêu giấc mơ của một ai đó chứ không phải người thực.”

“Cặp song sinh nhà Murray khá thông minh đấy,” Marco nói. “Nếu tôi đang mê hoặc theo cách đó thì không phải lúc nào đó cũng là chủ ý của tôi. Nó khá hữu ích trong việc giữ được vị thế với Chandresh, bởi tôi chỉ có mỗi một người giới thiệu và chẳng có mấy kinh nghiệm. Nhưng có vẻ nó không mấy hiệu quả với cô.”

Celia đặt ly xuống, hoài nghi những gì tạo nên anh. Ánh nến bập bùng làm nổi rõ đặc tính gương mặt anh, vì thế cô quay đi trước khi đáp lại, hướng sự chú ý của mình sang những thứ trên mặt lò sưởi.

“Bố tôi đã làm điều tương tự,” cô nói. “Lôi kéo và ám bùa dụ dỗ. Nhiều năm đầu đời tôi đã chứng kiến mẹ tôi héo hon vì ông. Yêu thương và chờ đợi không ngừng trong khi từ rất lâu rồi ông đã mất đi sự hứng thú vốn đã ít ỏi dành cho bà. Cho đến một ngày khi tôi năm tuổi, bà đã tự sát. Khi đủ lớn để hiểu, tôi đã hứa với bản thân rằng tôi sẽ không chịu đựng như thế vì bất kì người nào. Anh sẽ phải mất nhiều hơn là chỉ nụ cười quyến rũ ấy để mị hoặc tôi.”

Nhưng khi cô quay lại, nụ cười quyến rũ ấy đã biến mất.

“Tôi rất tiếc khi cô đã mất mẹ như vậy,” Marco nói.

“Đã lâu lắm rồi,” Celia nói, ngạc nhiên vì niềm thông cảm chân thành đó. “Nhưng cảm ơn anh.”

“Cô có nhớ gì nhiều về bà không?” anh hỏi.

“Tôi nhớ những ấn tượng nhiều hơn là thực tế. Tôi nhớ bà khóc suốt. Tôi nhớ bà đã nhìn tôi như thể tôi là thứ gì đó đáng sợ.”

“Tôi không nhớ bố mẹ mình,” Marco nói. “Tôi không có kí ức gì trước khi vào trại tế bần mà sau đó tôi đã được mang đi khỏi vì tôi đáp ứng được vài tiêu chí không rõ ràng. Tôi bị bắt phải đọc rất nhiều, tôi đã đi du lịch và học hành và nhìn chung là được chuẩn bị để tham gia một trận đấu bí mật nào đó. Tôi đã làm vậy, và công việc kế toán và giữ sổ sách cùng bất kể thứ gì Chandresh yêu cầu, trong gần hết cuộc đời mình.”

“Vì sao anh lại thành thực như thế với tôi?” Celia hỏi.

“Vì cảm giác thật mới mẻ khi thực sự thành thực với một ai đó,” Marco nói. “Và tôi ngờ rằng cô có thể phát hiện ngay lập tức nếu tôi nói dối cô. Tôi hi vọng là mình có thể nhận được điều tương tự từ cô.”

Celia suy nghĩ một lát trước khi gật đầu. “Anh khiến tôi nhớ tới bố mình,” cô nói.

“Như thế nào cơ?” Marco hỏi.

“Cách anh điều khiển tri giác. Bản thân tôi chưa bao giờ giỏi việc đó, tôi khá hơn với những sự vật cụ thể. Mà nhân tiện, anh không phải làm thế với tôi đâu,” cô nói, cuối cùng cũng nhận ra điều khiến cô không thoải mái với vẻ ngoài của anh.

“Làm gì cơ?” Marco hỏi.

“Làm anh trông như thế này. Rất đẹp, nhưng tôi có thể nói là không hoàn toàn chân thực. Chắc phải khó chịu kinh khủng khi cứ phải luôn giữ dáng vẻ ấy.”

Marco nhíu mày, nhưng rồi, rất chậm rãi, gương mặt anh thay đổi. Hàm râu mờ đi và biến mất. Những nét sắc sảo trở nên mềm mại và trẻ trung hơn. Đôi mắt xanh ngắt của anh nhạt đi thành màu xám ánh lục.

Gương mặt giả vốn luôn điển trai, đúng vậy, nhưng đầy chủ ý. Như thể anh ý thức quá rõ về sự cuốn hút của chính mình, đó là điều khiến Celia cảm thấy đặc biệt không hấp dẫn.

Và rồi còn một thứ khác nữa, một lỗ hổng kiểu như hệ lụy từ ảo giác, một ấn tượng rằng anh không hoàn toàn hiện hữu trong căn phòng này.

Nhưng bây giờ, bây giờ có một con người khác đứng bên cô, hiện hữu rõ ràng hơn, như thể rào cản đã bị gỡ bỏ giữa hai người. Anh như ở gần hơn mặc dù khoảng cách giữa hai người không thay đổi, và gương mặt anh vẫn khá điển trai.

Sự mãnh liệt trong cái nhìn của anh tăng lên với đôi mắt này; cô có thể nhìn sâu vào mắt anh hơn mà không hề bị xao nhãng bởi màu mắt.

Celia cảm thấy sức nóng đang dâng lên cổ và cố gắng kiểm soát nó đủ để sắc ửng hồng không thể bị nhận ra trong ánh nến.

“Tôi đã từng nhìn thấy anh như thế này,” cô nói, đặt dáng vẻ thực của anh vào một nơi nào đó trong kí ức. “Anh đã xem màn trình diễn của tôi như thế.”

“Cô nhớ tất cả khán giả của mình sao?” Marco hỏi.

“Không phải tất cả,” Celia nói. “Nhưng tôi nhớ những ai nhìn tôi như anh đang nhìn.”

“Nhìn như thế nào chứ?”

“Như thể họ không thể quyết định được nên sợ tôi hay muốn hôn tôi.”

“Tôi không sợ cô,” Marco nói.

Họ nhìn nhau chăm chú trong yên lặng hồi lâu, ngọn nến chập chờn xung quanh.

“Dường như phải cố gắng lắm mới thể hiện khác đi một chút được,” Celia nói.

“Gì thì cũng có cái lợi của nó.”

“Tôi nghĩ trông anh đẹp hơn khi không có nó,” Celia nói. Marco ngỡ ngàng khi cô nói thêm, “tôi đã nói là mình sẽ thành thực mà, đúng không nhỉ?”

“Cô đang phỉnh tôi thôi, cô Bowen,” anh nói. “Đã bao nhiêu lần cô đến ngôi nhà này rồi?”

“Ít nhất là chục lần,” Celia nói.

“Vậy mà cô vẫn chưa bao giờ đi tham quan.”

“Tôi chưa bao giờ được mời.”

“Chandresh không tin họ. Ông ấy thích để ngôi nhà cứ mãi như một điều bí ẩn. Nếu những vị khách không biết giới hạn là gì, thì họ luôn có ấn tượng rằng ngôi nhà này là vô tận. Nó vốn là hai tòa nhà, để có thể bằng cách nào đó đánh lạc hướng.”

“Tôi không biết đấy,” Celia nói.

“Hai ngôi nhà tiếp giáp, đối xứng nhau. Ông ấy đã mua cả hai và cho sửa sang thành một tòa nhà, với một số gia cố. Tôi không tin là chúng ta có thời gian tham quan hết, nhưng tôi có thể chỉ cho cô một vài căn phòng bí ẩn hơn, nếu cô muốn.”

“Tôi muốn chứ,” Celia nói, đặt ly rượu cạn lên mặt bàn cạnh ly của anh. “Anh có thường làm hướng dẫn viên bí mật như thế này ở nhà ông chủ không thế?”

“Chỉ có một lần thôi, và đó là vì ông Barris khá là dai dẳng.”

*

Từ phòng ăn, họ băng qua dưới bóng pho tượng đầu voi ở hành lang, đi vào thư viện và dừng lại trước tấm kính màu thể hiện cảnh hoàng hôn choán hết chiều dài một bức tường.

“Đây là phòng trò chơi,” Marco nói, đẩy tấm kính và để nó mở sang một phòng khác.

“Thật phù hợp.”

Trò chơi giống như chủ đề hơn là chức năng của căn phòng. Có vài bàn cờ thiếu quân, và những quân cờ nhưng không có bàn xếp thành hàng trên bệ cửa sổ và giá sách. Những tấm bia phóng tiêu mà không có tiêu được treo cạnh các bàn cờ thỏ cáo đang chơi dở chừng.

Bàn bi-a ở chính giữa bọc nỉ đỏ như máu.

Một dàn vũ khí trên tường, được xếp theo đôi. Kiếm lưỡi cong, súng ngắn cùng liễu kiếm, cái này vắt chéo vào cái kia, như để chuẩn bị cho hàng tá những buổi so tài. “Chandresh đam mê vũ khí cổ,” Marco giải thích khi Celia ngắm nghía chúng. “Còn có ở các phòng khác nữa nhưng đây là phần lớn bộ sưu tập của ông ấy.”

Anh quan sát kĩ Celia khi cô đi quanh căn phòng. Trông cô có vẻ như đang cố gắng không mỉm cười khi nhìn những đồ liên quan tới tỉ thí được sắp xếp một cách đầy nghệ thuật quanh họ.

“Cô mỉm cười như là có gì bí mật vậy,” anh nói.

“Tôi có rất nhiều bí mật,” Celia nói, liếc nhìn anh qua vai trước khi quay lại phía bức tường. “Anh biết tôi là đối thủ từ khi nào?”

“Tôi không biết cho đến màn ra mắt của cô trong buổi thi tuyển ảo thuật gia. Cô đã là một bí ẩn trong nhiều năm. Và tôi chắc chắn là cô đã nhận ra cô khiến tôi sửng sốt.” Anh dừng lại trước khi nói thêm, “tôi không thể nói đó thực sự là một lợi thế. Cô biết từ bao giờ?”

“Tôi đã biết trong cơn mưa ở Prague, và anh biết rất rõ đó là lúc tôi biết,” Celia nói. “Lẽ ra anh cứ để tôi đi với một cái ô để tôi mãi thắc mắc về đối thủ của mình, đằng này anh lại đuổi theo tôi. Vì sao vậy?”

“Tôi muốn lấy nó lại,” Marco nói. “Tôi khá thích cái ô đó. Và tôi đã lo lắng vì phải trốn cô.”

“Tôi đã từng nghi ngờ bất cứ ai và tất cả mọi người,” Celia nói. “Nhưng tôi nghĩ rằng đó có thể là một người trong rạp xiếc. Lẽ ra tôi nên biết đó là anh.”

“Vì sao lại thế?” Marco hỏi.

“Bởi vì anh đã tỏ ra kém cỏi hơn thực lực,” cô nói. “Thật rõ như ban ngày vậy. Tôi sẽ thừa nhận, tôi chưa bao giờ nghĩ là sẽ yểm bùa cái ô của tôi cả.”

“Phần lớn thời gian tôi sống ở London,” Marco nói. “Ngay khi tôi học được cách bỏ bùa sự vật, đó là một trong những thứ đầu tiên tôi nghĩ tới.”

Anh cởi áo khoác ra và ném lên một trong mấy chiếc ghế da trong góc. Anh lấy từ trên giá xuống một bộ bài, không chắc liệu cô có sẵn lòng chiều theo ý anh không nhưng lại quá hiếu kì để không thử.

“Anh muốn chơi bài ư?” Celia hỏi.

“Không hẳn,” Marco trả lời khi anh tráo bài. Khi thấy hài lòng, anh đặt bộ bài lên bàn bi-a.

Anh lật một quân bài lên. K bích. Anh gõ lên bề mặt và con K bích trở thành con K cơ. Anh nhấc tay lên, thu về và xòe các ngón tay lên trên tấm bài, mời cô tiếp chiêu. Celia mỉm cười. Cô tháo khăn quàng khỏi vai, vắt lên trên áo khoác của anh. Rồi cô đứng thẳng, hai tay chắp sau lưng.

Con K cơ lật lên, đứng thẳng trên mép bài. Nó đứng đó một lúc trước khi từ từ và cẩn trọng tách ra làm hai. Hai nửa vẫn đứng yên, tách rời, và trước khi chúng rơi xuống, mặt sau quân bài ở phía trên.

Bắt chước động tác của Marco, Celia gõ lên quân bài và nó dính lại với nhau. Cô thu tay lại và quân bài tự lật mình. Q rô.

Rồi toàn bộ bộ bài bay lên không trung trong chốc lát trước khi đổ ụp xuống mặt bàn, các quân bài văng tán loạn trên khắp bề mặt vải nỉ đỏ.

“Cô đúng là giỏi hơn tôi về tài điều khiển vật chất,” Marco thừa nhận.

“Tôi có một lợi thế,” Celia nói. “Thứ mà bố tôi gọi là năng khiếu. Tôi thấy việc không gây ảnh hưởng tới đồ đạc xung quanh mình khó hơn, tôi thường xuyên làm vỡ đồ lúc còn nhỏ.”

“Cô có thể tác động lên những vật sống đến mức nào?” Marco hỏi.

“Còn tùy xem vật đó là gì,” Celia nói. “Những vật vô tri thì dễ hơn. Tôi đã mất hàng năm trời để làm chủ được bất cứ thứ gì chuyển động được. Và tôi làm việc với chim của mình tốt hơn với bất kì con bồ câu già nào ở trên phố.”

“Cô có thể làm gì với tôi?”

“Tôi có thể biến đổi tóc của anh, có thể cả giọng nói của anh nữa,” Celia nói. “Không thể làm hơn nếu không có sự đồng ý và nhận thức của anh, và sự đồng ý thực sự vẫn luôn khó đạt được hơn anh nghĩ. Tôi không thể chữa lành vết thương. Tôi hiếm khi gây ra được điều gì mạnh hơn ngoài ảnh hưởng tạm thời ở bề mặt. Sẽ dễ dàng hơn với những người tôi quen, dù chưa bao giờ việc đó đặc biệt dễ dàng cả.”

“Thế còn với chính cô thì sao?”

Đáp lại, Celia đi tới bức tường và nhấc một con dao găm Ottoman[28] bản mỏng với chuôi bằng ngọc lục bảo ra khỏi nơi nó được treo cùng cặp. Tay phải cầm con dao, cô úp lòng bàn tay trái xuống bàn bi-a, phía trên các lá bài đang rải rác. Không ngần ngại, cô đâm thẳng lưỡi dao vào mu bàn tay mình, xuyên qua da, thịt, các lá bài và găm xuống lớp vải nỉ phía dưới.

Marco sững người, nhưng không nói gì.

Celia kéo con dao găm lên, bàn tay và quân hai bích vẫn bị lưỡi dao đâm xuyên qua, máu bắt đầu chảy xuống cổ tay. Cô đưa bàn tay ra và từ từ xoay lại, chìa ra như thể biểu diễn để Marco có thể nhìn thấy không dính dáng gì tới ảo giác.

Với bàn tay kia cô rút con dao ra, quân bài dính máu rơi xuống. Rồi những giọt máu bắt đầu chảy ngược lại, chui vào trong vết đâm trên lòng bàn tay cô, vết đâm sau đó liền lại và biến mất cho đến khi không còn gì ngoài một đường lằn đỏ sắc gọn trên da cô, và rồi chẳng còn gì. Cô vỗ lên quân bài và vết máu biến mất. Vết rách do lưỡi dao để lại cũng không còn. Quân bài giờ là con hai cơ.

Marco nhặt quân bài lên và chạy các ngón tay trên bề mặt đã liền lại. Rồi với chuyển động tinh tế của bàn tay anh, quân bài biến mất. Anh nhét nó thật yên ổn trong túi áo của mình.

“Tôi mừng là chúng ta không bị thách thức vào một cuộc đấu thể chất,” anh nói. “Tôi nghĩ nếu như vậy cô sẽ chiếm ưu thế.”

“Bố tôi từng cứa đứt từng đầu ngón tay tôi cho đến khi tôi biết tự chữa lành cả mười ngón cùng một lúc,” Celia vừa nói vừa treo lại con dao găm vào chỗ cũ trên tường. “Việc này đại để là cảm giác từ bên trong xem cách mọi vật hòa hợp với nhau như thế nào, tôi đã không thể nào làm được việc này với bất cứ người nào khác.”

“Tôi nghĩ những buổi học của cô kém trừu tượng hơn của tôi rất nhiều.”

“Tôi thích đọc sách hơn.”

“Tôi nghĩ thật lạ khi chúng ta được chuẩn bị theo những cách hoàn toàn khác nhau cho cùng một thử thách,” Marco nói. Anh lại nhìn bàn tay Celia dù bây giờ rõ ràng chẳng có gì, không một dấu hiệu cho thấy nó vừa mới bị đâm vài giây trước.

“Tôi ngờ rằng đó là một phần mấu chốt,” cô nói. “Hai trường phái tư tưởng đấu với nhau, cùng trong một môi trường.”

“Tôi thú nhận là,” Marco nói, “tôi không hoàn toàn hiểu được mấu chốt đó, kể cả sau từng ấy thời gian.”

“Tôi cũng thế thôi,” Celia thú nhận. “Tôi nghĩ gọi đây là thử thách hay trận đấu không hoàn toàn chính xác. Tôi đã nghĩ về nó giống như màn trình diễn kép. Tôi sẽ được nhìn thấy gì nữa trong chuyến tham quan của mình?”

“Cô có muốn xem một thứ đang làm dở không?” Marco hỏi. Biết rằng cô nghĩ về rạp xiếc như một màn trình diễn, với anh là một ngạc nhiên dễ chịu vì anh đã thôi không coi nó là cái gì đó xấu xa từ rất lâu rồi.

“Có chứ,” Celia nói. “Đặc biệt nếu đó là dự án mà ông Barris cứ nhắc mãi trong suốt bữa ăn.”

“Quả là nó.”

Marco hộ tống cô ra khỏi phòng trò chơi qua một cánh cửa khác, đi nhanh qua hành lang và bước vào phòng vũ hội mênh mông ở phía sau căn nhà, nơi ánh trăng lọc qua những cánh cửa thủy tinh dàn hàng trên bức tường phía sau.

*

Bên ngoài, trong không gian lúc trước là khu vườn ở bên kia sân hè, giờ đã bị đào xuống một mức thấp hơn, sâu xuống dưới đất. Lúc này, khung cảnh gần giống sự sắp đặt các đống đất và sỏi chất thành những bức tường cao nhưng thô sơ.

Celia cẩn thận bước xuống những bậc thang đá và Marco đi phía sau cô. Khi vừa đến đáy, những bức tường tạo thành một mê cung, chỉ để lại một phần nhỏ của khu vườn hiện ra xen kẽ.

“Tôi nghĩ có thể sẽ hữu ích cho Chandresh khi có một dự án để ông ấy tập trung vào,” Marco giải thích. “Vì những ngày này ông ấy hiếm khi ra khỏi nhà, sửa sang lại khu vườn có vẻ là khởi đầu tốt. Cô có muốn xem nó sẽ như thế nào khi hoàn thành không?”

“Có chứ,” Celia nói. “Anh có bản thiết kế ở đây ư?”

Đáp lại, Marco giơ một bàn tay và vung lên xung quanh hai người.

Những gì khoảnh khắc trước chỉ là những đống đá thô kệch, giờ đã được sắp xếp và xây thành những cổng vòm trang trí và các lối đi, phủ kín bởi dây nho và lấp lánh những lồng đèn nhỏ xíu, sáng rực. Hoa hồng vươn ra từ những giàn mắt cáo uốn cong phía trên họ, bầu trời đêm hiện ra giữa những bông hoa.

Celia đặt tay lên môi để kìm lại tiếng thốt kinh ngạc. Toàn bộ cảnh vật, từ mùi hương hoa hồng tới tia ấm áp từ lồng đèn tỏa ra, đều ấn tượng đến khó tin. Cô có thể nghe thấy tiếng vòi phun nước bắn bọt ở gần đó và men theo lối đi giờ đã phủ đầy cỏ để đi tìm.

Marco đi theo Celia khi cô khám phá, rẽ hết khúc quanh này tới khúc quanh khác xuyên qua những lối đi quanh co giao cắt nhau.

Đài phun ở chính giữa đưa nước xuống một bức tường đá được chạm khắc, chảy vào một ao tròn đầy cá koi[29]. Những cái vẩy của chúng lấp lánh dưới ánh trăng, những mảng màu trắng và cam rực rỡ trong làn nước tối màu.

Celia đưa tay ra, để cho dòng nước từ đài phun chảy qua kẽ tay khi cô tì vào phiến đá lạnh ở bên dưới.

“Anh tạo ra điều này trong đầu tôi, đúng không?” cô hỏi khi nghe thấy Marco ở đằng sau.

“Cô cho phép tôi mà,” anh nói.

“Tôi có thể dừng nó lại, anh biết mà,” Celia nói, quay lại để đối diện anh. Anh tựa lên một trong mấy cổng vòm đá, nhìn cô.

“Tôi chắc chắn là cô làm được. Nếu bây giờ cô ngăn lại thì tôi cũng không thực hiện được, có thể còn bị gần như hoàn toàn chặn lại nữa. Và dĩ nhiên, sự gần gũi là chìa khóa của quá trình xâm nhập.”

“Anh không được làm điều này với rạp xiếc,” Celia nói.

Marco nhún vai.

“Thật không may là khoảng cách quá lớn,” anh nói. “Đây là một trong những năng lực của tôi, nhưng lại quá ít cơ hội để phát huy. Tôi không quen tạo ra những ảo giác như thế này để mỗi lần có nhiều hơn một người chiêm ngưỡng.”

“Thật kì diệu,” Celia nói khi quan sát cá koi bơi dưới chân cô. “Tôi chưa bao giờ kiểm soát nổi thứ gì quá phức tạp, dù người ta gọi tôi là ảo thuật gia. Anh xứng với danh hiệu đó hơn tôi.”

“Tôi cho là danh hiệu Mĩ nhân có thể khống chế cả thế giới bằng ý nghĩ quá ư cồng kềnh nhỉ.”

“Tôi không nghĩ là nó vừa với cái biển treo ngoài lều của tôi.”

Tiếng cười của anh trầm và ấm áp, và Celia quay mặt đi để giấu nụ cười, giữ vững sự chú ý của mình vào dòng nước xoáy.

“Một trong mấy năng lực của tôi cũng chẳng có ích gì,” cô nói. “Tôi rất thạo điều khiển vải vóc, nhưng có vẻ như chẳng cần thiết khi xem những gì Mme. Padva có thể làm.” Cô huơ chiếc váy, ánh bạc bắt sáng khiến cô tỏa sáng như những chiếc lồng đèn.

“Tôi nghĩ bà ấy là phù thủy,” Marco nói. “Và tôi nói thế với nghĩa tán dương nhất đấy.”

“Tôi nghĩ là bà ấy sẽ coi đó như một lời khen, thực sự.” Celia nói. “Anh cũng đang thấy tất cả những điều này, giống y như tôi thấy sao?”

“Ít nhiều là thế,” Marco nói. “Sắc thái sẽ càng rõ ràng hơn khi tôi càng đứng gần người xem.”

Celia xoay tròn lướt sang phía bên kia bờ ao, gần nơi anh đứng hơn. Cô xem xét những vết khắc trên phiến đá và những dây nho quấn quýt xung quanh, nhưng ánh nhìn của cô cứ quay trở về phía Marco. Ý tứ che giấu thế nào cũng không được vì anh cứ liên tục bắt được ánh nhìn của cô. Cứ mỗi lúc như thế, quay đi lại càng khó khăn.

“Anh thật thông minh khi dùng vạc lửa làm kích tố,” cô nói, cố gắng giữ sự chú ý của mình vào một lồng đèn tí xíu đang tỏa sáng.

“Tôi không ngạc nhiên khi cô phát hiện ra,” Marco nói. “Tôi đã nghĩ ra một cách để giữ kết nối bởi tôi không thể đi cùng rạp xiếc. Buổi lễ thắp lửa dường như là cơ hội hoàn hảo để thiết lập một mỏ neo lâu dài. Suy cho cùng, tôi đã không muốn cô kiểm soát được quá nhiều.”

“Nó gây ra hậu quả đấy,” Celia nói. “Ý cô là gì?”

“Chỉ là còn có nhiều thứ đáng nói về cặp song sinh nhà Murray hơn là mái tóc của chúng.”

“Và cô sẽ không định nói với tôi điều đó là gì, đúng không?” Marco hỏi.

“Một quý cô không thể bật mí mọi bí mật của mình được,” Celia nói. Cô kéo một bông hồng từ trên cành leo xuống, khép mắt hít mùi hương, những cánh hoa mềm như nhung chạm lên da cô. Những chi tiết thuộc về giác quan của ảo giác này sống động đến mức gần như khiến người ta say trong nó. “Ai đã nghĩ ra việc hạ thấp khu vườn vậy?” cô hỏi.

“Chandresh. Lấy cảm hứng từ một căn phòng khác trong nhà. Tôi có thể chỉ cho cô phòng đó nếu cô muốn.” Celia gật đầu và họ bước trở lại xuyên qua khu vườn.

Cô đứng gần anh hơn khi họ bước đi, đủ gần để chạm vào dù anh vẫn chắp hai tay sau lưng. Khi họ lên tới sân hè, Celia liếc lại về phía khu vườn, nơi những bông hồng và đèn lồng đã quay trở lại là đất và đá.

*

Bên trong, Marco dẫn Celia đi qua phòng vũ hội. Anh dừng lại ở bức tường phía cuối phòng và trượt mở một trong những tấm ván gỗ thẫm màu, để lộ ra một cầu thang xoắn ốc hướng xuống dưới.

“Có phải là một nhà tù không thế?” Celia hỏi khi họ bước xuống.

“Không hẳn,” Marco nói. Khi họ bước tới cánh cửa thếp vàng ở cuối cầu thang, anh mở cửa giúp cô. “Cẩn thận nhé.”

Căn phòng nhỏ nhưng trần khá cao, chùm đèn vàng phủ toàn pha lê được treo ở chính giữa. Những bức tường lượn tròn và trần phòng được sơn một màu lam thăm thẳm điểm xuyết các vì sao.

Một lối đi bao quanh mép tường giống như một vách gờ, dù phần lớn sàn nhà lún xuống và chật kín những gối đệm to tướng được bọc lụa nhiều màu.

“Chandresh nói là phỏng theo căn phòng của một tình nhân ở Bombay,” Marco nói. “Tôi thấy nơi này để đọc sách thì tuyệt.”

Celia cười vang và một lọn tóc rơi trên má cô.

Marco có ý gạt nó ra khỏi mặt Celia, nhưng trước khi ngón tay anh kịp chạm tới, cô đã thả mình khỏi gờ tường, chiếc váy bạc bồng lên như mây khi cô rơi lên đống đệm có màu ngọc.

Anh ngắm cô một lát trước khi cũng bắt chước thả mình chìm vào giữa căn phòng cùng cô.

Họ nằm xuống và ngẩng lên nhìn chùm đèn, ánh sáng hắt lên những viên pha lê, biến chùm đèn thành một bầu trời đêm mà chẳng cần tới bất cứ ảo giác nào.

“Bao lâu thì anh có thể tới thăm rạp xiếc?” Celia hỏi.

“Cũng không thường xuyên như tôi muốn. Đương nhiên mỗi khi nó ở gần London. Tôi cố tới thăm nó ở những nơi khác trong châu Âu nếu tôi có thể trốn được Chandresh đủ lâu. Đôi lúc tôi cảm thấy như mình là kẻ đạp cả hai thuyền. Tôi trở nên gắn bó với quá nhiều thứ trong đó, vậy mà nó vẫn luôn đầy bất ngờ.”

“Anh thích căn lều nào?”

“Thật lòng ư? Căn lều của cô.”

“Vì sao chứ?” cô hỏi, quay sang nhìn anh.

“Tôi nghĩ vì nó hợp với gu của mình. Cô có thể công khai làm những điều tôi đã được dạy trong bí mật. Có lẽ tôi trân trọng nó ở một mức độ hơn hẳn những căn lều khác. Tôi cũng rất thích Mê Hồn Trận. Tôi đã không chắc liệu cô có sẵn lòng hợp tác cùng kiến tạo nó hay không.”

“Tôi đã bị nghe thuyết giảng một bài về màn cộng tác đấy,” Celia nói. “Bố tôi gọi nó là trò giao phối vô liêm sỉ, ông chắc hẳn phải rất nhọc công mới nghĩ ra được lời sỉ nhục đáng giá như thế. Ông thấy có gì đó lòe loẹt, phô trương khi kết hợp các kĩ năng lại như vậy, và tôi thì chưa bao giờ hiểu vì sao. Tôi ngưỡng mộ Mê Hồn Trận, tôi đã rất vui khi tạo thêm các căn phòng. Tôi đặc biệt yêu hành lang mà anh làm cho có tuyết rơi ấy, để anh có thể nhìn thấy dấu chân những người khác để lại khi đi tìm lối ra.”

“Tôi chưa từng nghĩ tới nó theo cách khiêu khích đến thế,” Marco nói. “Tôi hi vọng sẽ thăm lại Mê Hồn Trận với suy nghĩ đó trong đầu. Nhưng tôi tưởng bố cô sẽ không thể đưa ra nhận xét về những vấn đề như thế nữa cơ mà.”

“Ông ấy không chết,” Celia nói, lại ngẩng lên nhìn trần phòng. “Chuyện này cũng khó giải thích.”

Marco quyết định không yêu cầu cô cố giải thích mà thay vào đó, anh quay lại chủ đề rạp xiếc.

“Cô thích nhất căn lều nào?” anh hỏi.

“Vườn Băng,” Celia trả lời mà không cần dừng lại nghĩ ngợi.

“Vì sao?” Marco hỏi.

“Bởi cảm giác mà nó mang lại,” cô nói. “Giống như bước vào một giấc mơ. Như thể một nơi nào đó khác biệt hoàn toàn và không chỉ đơn thuần là một căn lều. Có lẽ chỉ vì tôi thích tuyết. Làm thế nào mà anh lại nảy ra ý tưởng đó thế?”

Marco hồi tưởng về quá trình, vì trước đây anh chưa bao giờ được yêu cầu giải thích nguồn gốc ý tưởng của mình. “Tôi đã nghĩ có thể sẽ thú vị khi có một nhà kính, nhưng dĩ nhiên không được có nhiều màu,” anh nói. “Tôi đã nảy ra rất nhiều phương án trước khi quyết định sẽ tạo mọi thứ từ băng. Tôi thấy vui vì cô thấy nó giống như một giấc mơ, bởi đó là nơi cốt lõi của ý tưởng này xuất phát.”

“Đó cũng là lý do tôi tạo ra Cây Ước,” Celia nói. “Tôi đã nghĩ rằng một cái cây bao phủ bởi lửa sẽ là sự bổ trợ tuyệt vời cho những gì được tạo nên từ băng.”

Marco nhớ lại lần đầu tiên anh nhìn thấy Cây Ước. Khi hồi tưởng, sự pha trộn giữa khó chịu, kì thú và nuối tiếc dường như thật khác. Anh không chắc rằng liệu anh có thể thắp cây nến của chính mình, nguyện ước của chính mình, anh tự hỏi liệu có khi nào việc ấy sẽ trái với những luật chơi.

“Vậy mọi điều ước đó đều thành hiện thực ư?” anh hỏi.

“Tôi không chắc nữa,” Celia nói. “Tôi đã không còn dõi theo được từng người gửi ước nguyện lên nó. Anh thì sao?”

“Có lẽ.”

“Thế điều ước của anh đã thành hiện thực chưa?”

“Tôi vẫn còn chưa hoàn toàn chắc chắn.”

“Anh sẽ phải nói cho tôi đấy,” Celia nói. “Tôi hi vọng nó sẽ trở thành hiện thực. Tôi nghĩ theo một cách nào đó, tôi đã tạo ra Cây Ước này cho anh.”

“Lúc đó cô đâu có biết tôi,” Marco nói, quay sang nhìn cô. Cô vẫn đang chăm chú nhìn chùm đèn nhưng nụ cười giữ-bí-mật đầy mê hoặc ấy đã quay trở lại.

“Tôi không biết nhân dạng của anh, nhưng tôi đã có mường tượng về người sẽ là đối thủ của mình khi được bao quanh bởi những thứ anh làm. Tôi đã nghĩ là anh có thể sẽ thích nó.”

“Tôi có thích mà,” Marco nói.

Sự im lặng giữa hai người là im lặng dễ chịu. Anh những mong được vươn người qua và chạm vào cô, nhưng rồi ngăn mình lại, sợ rằng sẽ phá hủy mất sự thân thiết mà cả anh và cô cùng đang xây dựng. Thay vào đó, anh thi thoảng trộm nhìn, ngắm ánh sáng rơi trên da cô. Có vài lần anh bắt gặp cô cũng nhìn anh như thế, và những khoảnh khắc khi cô nhìn vào mắt anh thật diệu kì.

“Làm thế nào anh lại giữ được cho mọi người không bị già đi?” một lát sau Celia hỏi.

“Một cách thận trọng,” Marco trả lời. “Và thực ra họ đều đang già đi, chỉ là vô cùng chậm thôi. Thế cô làm thế nào để di chuyển rạp xiếc?”

“Trên một con tàu.”

“Tàu ư?” Marco hỏi, ngạc nhiên. “Toàn bộ rạp xiếc di chuyển trên một đoàn tàu sao?”

“Đó là một đoàn tàu lớn,” Celia giải thích. “Và có phép thuật nữa đấy,” cô bổ sung khiến Marco bật cười. “Tôi thú nhận, thưa cô Bowen, cô không hề giống những gì tôi đã tưởng tượng.”

“Tôi có thể đảm bảo với anh cảm giác ở phía tôi cũng là như vậy.”

Marco đứng dậy, bước lùi về phía cạnh cửa.

Celia chìa tay và anh nắm lấy để giúp cô đứng lên. Đó là lần đầu tiên anh chạm vào làn da cô.

Bầu không khí tức thời phản ứng. Một xung lực đột ngột tạo sóng khắp căn phòng, rõ ràng và mạnh mẽ. Chùm đèn bắt đầu rung rung.

Cảm giác bao phủ khắp làn da Marco rạo rực và mãnh liệt, bắt đầu ở nơi lòng bàn tay anh chạm vào lòng bàn tay cô nhưng lan tỏa ra xa hơn và sâu hơn.

Celia rụt tay lại sau khi lấy được thăng bằng, cô lùi lại và dựa vào tường. Cảm giác ấy bắt đầu trầm ổn xuống ngay khi cô buông tay anh ra.

“Tôi xin lỗi,” cô khẽ nói, rõ ràng bị hụt hơi. “Anh làm tôi giật mình.”

“Thứ lỗi cho tôi,” Marco nói, trong tai anh vang lên nhịp tim mình đập to đến nỗi anh không thể nghe thấy tiếng cô. “Nhưng tôi không thể nói là mình hoàn toàn chắc chắn về chuyện đã xảy ra.”

“Tôi có xu hướng đặc biệt nhạy cảm với năng lượng,” Celia nói. “Những người làm những thứ giống như anh và tôi thường mang trong mình một loại năng lượng có thể cảm nhận được rất rõ ràng, và tôi... tôi lại chưa quen lắm với năng lượng của anh.”

“Tôi chỉ hi vọng đó là cảm giác dễ chịu đối với cô giống như nó đối với tôi vậy.”

Celia không đáp lại. Để ngăn mình không chạm vào tay cô một lần nữa, Marco mở cửa, dẫn cô quay trở lên chiếc cầu thang xoắn ốc.

*

Họ bước trong phòng vũ hội ngập tràn ánh trăng, tiếng bước chân của cả hai cùng vang lên.

“Chandresh giờ thế nào rồi?” Celia hỏi, cố tìm một chủ đề để phá vỡ sự im lặng, bất cứ thứ gì có thể giúp cô phân tán khỏi đôi bàn tay hẵng còn run rẩy, và chợt nhớ tới chiếc ly bị đổ trong bữa tối.

“Ông ấy chao đảo,” Marco nói kèm một tiếng thở dài. “Kể từ khi rạp xiếc mở màn, ông ấy càng ngày càng mất tập trung. Tôi... tôi đang làm những gì có thể để giữ ông ấy ổn định, nhưng tôi sợ rằng nó sẽ phản tác dụng lên trí nhớ của ông ấy. Tôi không cố ý nhưng sau những gì xảy ra với cô Burgess đã khuất, tôi đã nghĩ đó là hành động khôn ngoan nhất.”

“Cô ấy đã ở vào một vị thế đặc biệt khi bị kéo vào tất cả chuyện này mà lại không ở trong chính rạp xiếc,” Celia nói. “Tôi chắc chắn rằng đó không phải là góc độ dễ dàng nhất để kiểm soát. Ít nhất thì anh có thể quan sát được Chandresh.”

“Quả là thế,” Marco nói. “Tôi đã ước gì có cách nào đó bảo vệ được những người ngoài rạp xiếc giống như vạc lửa đã bảo vệ những người trong rạp xiếc.”

“Vạc lửa ư?” Celia hỏi.

“Nó thực hiện một số mục đích. Trước tiên, nó là mối liên hệ của tôi với rạp xiếc, nhưng nó cũng hoạt động tựa như một lá chắn. Tôi đã bỏ qua sự thật là nó không bảo vệ được những người ở bên ngoài hàng rào.”

“Tôi thậm chí còn chẳng cân nhắc tới những lá chắn,” Celia nói. “Tôi không nghĩ rằng lúc đầu mình hiểu được có bao nhiêu người sẽ bị lôi kéo vào thách thức của chúng ta.” Cô không bước tiếp mà đứng ở giữa phòng vũ hội.

Marco cũng dừng lại nhưng không nói gì cả, đợi cô lên tiếng.

“Đó không phải là lỗi của anh,” cô khẽ nói. “Những gì xảy ra với Tara. Những tình huống khác đã có thể diễn ra y hệt bất kể anh hay tôi có làm gì. Anh không thể lấy đi ý chí độc lập của bất kì ai, đó là một trong những bài học đầu tiên của tôi.”

Marco gật đầu, và rồi anh tiến một bước lại gần cô hơn. Anh vươn người ra nắm lấy tay cô, từ từ đan các ngón tay mình vào các ngón tay cô.

Cảm giác mãnh liệt y như lần trước khi anh chạm vào cô, nhưng có điều gì đó khác biệt. Không khí thay đổi, nhưng chùm đèn đung đưa trên đầu họ vẫn chắc chắn và im lìm.

“Anh đang làm gì thế?” cô hỏi.

“Cô đã nói gì đó về năng lượng,” Marco nói. “Tôi đang tập trung năng lượng của cô bằng năng lượng của tôi, như thế cô sẽ không làm vỡ chùm đèn.”

“Nếu làm vỡ bất cứ thứ gì thì tôi có thể sửa lại được,” Celia nói, nhưng cô không buông tay ra.

Không lo lắng gì về hiệu ứng mà cô sẽ có đối với những thứ xung quanh, Celia có thể thả lỏng mình để cảm nhận thay vì từ chối. Cảm giác ấy thật sâu sắc và tinh tế. Đó là điều cô đã cảm nhận được trong biết bao căn lều của anh, một cảm giác nghẹt thở khi được vây quanh bởi thứ gì đó tuyệt diệu và kì ảo, chỉ bung mình tập trung trực diện vào mình cô. Cảm giác da anh chạm lên da cô truyền rung động đi khắp cơ thể Celia, dù tay anh vẫn lồng trong tay cô. Cô ngước lên nhìn anh, lại một lần nữa bị mắc vào sắc xám ánh xanh ám ảnh của đôi mắt ấy, và cô không quay đi.

Họ đứng đó nhìn sâu vào mắt nhau trong im lặng, khoảnh khắc tưởng chừng kéo dài hàng giờ.

Chiếc đồng hồ ở hành lang điểm chuông và Celia giật thót mình. Ngay khi buông tay Marco, cô lập tức muốn nắm lại lấy nó, nhưng cả buối tối vốn đã quá sức chịu đựng.

“Anh che giấu quá giỏi,” cô nói. “Tôi có thể cảm nhận được năng lượng tương tự tỏa ra như sức nóng trong mỗi căn lều của anh, nhưng khi ở trong anh, nó hoàn toàn bị phong bế.”

“Làm lạc lối là một trong những năng lực của tôi mà,” Marco nói.

“Giờ sẽ không còn dễ nữa đâu vì anh đã được tôi chú ý rồi.”

“Tôi thích được cô chú ý,” anh nói. “Cảm ơn cô vì điều này. Vì đã ở lại.”

“Tôi tha thứ cho anh vì đã lấy khăn của tôi.”

Cô mỉm cười khi anh bật cười.

Và rồi cô biến mất. Một mánh khóe đơn giản làm phân tán sự chú ý của anh đủ lâu để lẻn ra ngoài qua ngả hành lang, bất chấp ham muốn được ở lại cứ nấn ná kéo dài.

*

MARCO TÌM THẤY khăn của Celia bị bỏ lại trong phòng trò chơi, vẫn phủ lên trên áo khoác của anh.