MƯỜI BA LONDON, THỨ SÁU, 13 THÁNG MƯỜI, 1899
Tại lễ mừng Le Cirque des Rêves không phải được tổ chức sau mười năm hoạt động, một việc có lẽ đã được mong mỏi và cũng có phần giống thông lệ, mà phải đợi tới khi rạp xiếc đã mở màn và lưu diễn được những mười ba năm trời. Có người nói đại lễ được tổ chức lần này là vì lễ kỉ niệm mười năm đã đến rồi trôi qua, và chẳng ai nghĩ đến chuyện có một bữa tiệc dành cho nó cho tới mãi sau đó.
Buổi tiệc diễn ra ở tư gia của Chandresh Christophe Lefèvre vào thứ Sáu, ngày Mười ba tháng Mười, 1899. Danh sách khách mời cũng giới hạn; chỉ có những thành viên của rạp xiếc và một vài vị khách mời đặc biệt có chọn lựa tham gia. Buổi tiệc không được công bố rộng rãi, dĩ nhiên, và dù có thể có người đoán già đoán non được rằng sự kiện này có gì đó liên quan tới rạp xiếc thì cũng chẳng có cách nào chắc chắn được. Vả lại, không ai thực sự ngờ được cái rạp xiếc đen-và-trắng trứ danh ấy lại dính dáng đến một sự kiện quá ư sặc sỡ.
Tất cả cực kì sặc sỡ, cả ngôi nhà và những người dự tiệc xuất hiện trong những sắc màu cầu vồng. Đèn ở mỗi phòng đều được xử lý đặc biệt, màu xanh lục đi cùng với xanh lam, đỏ và cam thành một cặp. Những chiếc bàn rải rác trong phòng ăn được trải khăn in hoa văn sống động. Điểm nhấn là những lẵng hoa cầu kỳ với những loài hoa bung nở rực rỡ nhất. Các nhạc công bận vét kẻ nhung đỏ trong phòng vũ hội chơi những giai điệu tuy có phần kì quặc nhưng du dương, khiến người ta có thể đung đưa khiêu vũ theo. Ngay cả những ly cao để uống champagne cũng là thủy tinh xanh cô-ban sắc nét thay vì loại thủy tinh trong, và người phục vụ thì mặc màu xanh lục thay vì màu đen. Bản thân Chandresh mặc bộ vét màu tím sáng, áo khoác họa tiết cánh hoa ánh vàng, và trong suốt cả buổi tối, ông hút xì-gà đặc chế, nhả ra những vòng khói tím tiệp màu với áo.
Một dải hoa hồng chuyển màu từ tự nhiên tới những màu không tưởng đặt trong lòng pho tượng đầu voi vàng kim ở sảnh, những cánh hoa bay xuống mỗi khi có ai đi qua.
Cốc-tai được rót ra tại quầy trong những cái ly đủ mọi hình dáng và màu sắc kì lạ. Rượu vang màu đỏ ruby và rượu ngải đắng xanh như mây khói. Những tấm thảm lụa óng ả rủ xuống trên tường và phủ lên tất cả những thứ sẽ đứng yên. Nến cháy trong những đế thủy tinh màu, tỏa thứ ánh sáng nhảy múa lên khắp bữa tiệc và những người tham dự.
Poppet và Widget là những vị khách trẻ nhất, bằng tuổi với rạp xiếc. Mái tóc đỏ của hai anh em rực lên rạng rỡ, hai đứa mặc trang phục đôi, có màu xanh lam ấm áp của bầu trời chạng vạng, viền sắc hồng và ánh vàng tươi. Chandresh đã tặng hai đứa hai con mèo con sọc cam có đôi mắt màu lam, cổ thắt nơ kẻ sọc như món quà mừng sinh nhật. Poppet và Widget mê mẩn lũ mèo và ngay lập tức đặt tên chúng là Bootes và Pavo, dù sau này cả hai chẳng bao giờ nhớ nổi trong cặp mèo song sinh kia con nào là con nào và thường gọi cả hai mỗi khi có thể. Những người “chủ mưu” ban đầu đều có mặt, trừ Tara Burgess đã không còn nữa. Lainie Burgess mặc váy dài tha thướt màu vàng hoàng yến, sóng đôi cùng Ethan Barris trong bộ vét xanh dương; ông này đã cố gắng màu mè nhất có thể tuy nhiên cà-vạt của ông lại có tông màu sáng hơn một chút, và ông gài một bông hồng vàng lên ve áo.
Ông A.H- đến dự trong gam xám quen thuộc. Mme. Padva có tham dự, sau khi bị Chandresh thúc giục hồi lâu, rực rỡ trong trang phục lụa ánh vàng thêu họa tiết đỏ, lông vũ đỏ sậm gài trên mái tóc bạc. Hầu hết buổi tối bà ngồi trên ghế cạnh lò sưởi, quan sát các sự kiện diễn ra quanh mình chứ không trực tiếp tham gia. Herr Friedrick Thiessen tham dự vì có giấy mời đặc biệt, với điều kiện ông sẽ không viết bất kì lời nào công khai về buổi tiệc hay nhắc tới nó với bất kì ai. Ông đã hứa một cách vui vẻ, và tham dự trong bộ đồ đỏ có điểm chút màu đen, một sự đảo lộn trang phục thường ngày của ông.
Phần lớn thời gian ông hộ tống Celia Bowen, chiếc váy diêm dúa của cô đổi màu theo sắc cầu vồng để bổ khuyết bất cứ ai cô đứng gần.
Không có diễn viên nào khác trừ ban nhạc, vì thật khó có thể thuê nghệ sĩ giải trí để tạo ấn tượng cho một bữa tiệc vốn chủ yếu là thành viên đoàn xiếc. Hầu hết cả buổi tối chỉ là đối thoại và giao tế.
Bữa tối bắt đầu lúc nửa đêm, mỗi món ăn đưa ra được tạo dáng bằng màu đen và trắng, nhưng luôn bung nở màu sắc mỗi khi dĩa hay thìa chạm vào, để lộ ra muôn tầng hương vị chồng lên nhau. Có vài món được đặt trên những chiếc gương nhỏ thay vì đĩa bình thường.
Poppet và Widget tuồn những mẩu thức ăn phù hợp cho lũ mèo sọc cam ở dưới chân trong khi chăm chú lắng nghe những câu chuyện về ba-lê của Mme. Padva. Mẹ hai đứa đã cảnh báo trước rằng nội dung những câu chuyện ấy có thể không hoàn toàn phù hợp với hai nhóc mới vừa tròn mười ba, nhưng Mme. Padva vẫn tuôn ra không nao núng, chỉ giấu nhẹm đi những phần xấu xa nhất của các chi tiết mà Widget vẫn có thể đọc được qua ánh lấp lánh trong mắt bà kể cả khi bà không nói ra. Món tráng miệng chủ đạo là một cái bánh kem nhiều tầng khổng lồ có hình những căn lều của rạp xiếc được phủ kem sọc, nhân bên trong là kem mâm xôi ngon bất ngờ. Có cả những con báo đốm bằng sô-cô-la nhỏ xíu, và những trái dâu tây nhúng ngập sô-cô-la đen và trắng.
Sau khi món tráng miệng được thưởng thức gọn ghẽ, Chandresh đọc một bài diễn văn lê thê cảm ơn tất cả các vị khách vì mười ba năm hoành tráng kia, vì sự kì diệu của rạp xiếc sẽ chẳng là gì ngoài một ý tưởng từ hơn một thập kỉ trước. Bài diễn văn có đoạn nói về những giấc mơ, gia đình, về nỗ lực đạt được sự độc đáo trong một thế giới thuần nhất. Có phần thật khẩu khí nhưng cũng có đoạn rối rắm và chẳng ra đâu vào đâu, nhưng bài diễn văn vẫn được hầu hết những người đến dự tiệc coi là một cử chỉ ngọt ngào. Nhiều người nhân cơ hội sau đó đã đích thân cảm ơn ông, vì bữa tiệc và vì rạp xiếc. Một vài người còn đưa ra lời nhận xét về những tình cảm và câu từ của ông.
Chỉ trừ, dĩ nhiên, nhận xét của ông về chuyện không ai có vẻ già đi ngoại trừ cặp song sinh Murray, hành động này đã kéo theo hồi im lặng lạ lùng chỉ bị phá vỡ bởi tiếng ho của ông Barris. Không một ai dám đề cập tới chuyện đó, và nhiều người như có chút thở phào khi chính Chandresh một giờ sau đó không nhớ gì phần lớn những phát ngôn của mình.
Có một màn khiêu vũ sau bữa tối trong phòng vũ hội, nơi hàng dải lụa dài nhiều màu sắc điểm ánh vàng rủ xuống các bức tường và cửa sổ, óng ánh dưới ánh nến.
Ông A.H- đi dọc mép phòng, hầu như không bị ai nhìn thấy và chỉ nói chuyện với một số ít những vị khách khác, trong đó có ông Barris, ông này giới thiệu ông với Herr Thiessen. Ba người nói dăm câu ngắn gọn nhưng khá sôi nổi về những chiếc đồng hồ và bản chất của thời gian trước khi ông A.H- lịch sự cáo lui và biến mất vào khung cảnh một lần nữa.
Ông hoàn toàn tránh khỏi phòng vũ hội, chỉ trừ một điệu van-xơ khi Tsukiko cứ ép ông lên sàn nhảy. Cô mặc váy cách điệu từ bộ kimono màu hồng nhạt, tóc thắt cầu kỳ và đôi mắt kẻ viền một màu đỏ ấn tượng.
Sự duyên dáng của cả hai đã khiến cho mọi cặp đôi khác phải xấu hổ.
Isobel, trong sắc thiên thanh trong trẻo, gắng công vô ích gây chú ý với Marco. Anh tránh mặt cô ở mọi khúc quanh, và thật khó có thể nhận ra anh trong đám đông vì anh mặc giống hệt những người làm còn lại. Thực ra thì, với sự hỗ trợ của vài ly champagne, Tsukiko đã thuyết phục được Isobel bỏ cuộc, kéo cô ra khu vườn lòng chảo cho khuây khỏa.
Sự chú ý của Marco, khi anh không bị Chandresh sai mòng mòng hoặc phải quanh quẩn bên Mme. Padva, bà đã phang anh bằng cây ba-toong của mình khi anh hỏi đi hỏi lại rằng bà có cần bất kì sự trợ giúp nào không, sự chú ý ấy chỉ dành cho mình Celia.
“Không được mời em nhảy thì chẳng khác nào giết anh đi,” Marco thì thầm khi cô đi ngang qua anh trong phòng vũ hội, màu xanh thẫm trên bộ vét của anh lan lên chiếc váy của cô như rêu.
“Vậy thì anh quả là dễ bị giết đấy,” Celia lẩm bẩm, nháy mắt với anh khi Chandresh lướt qua và chìa tay cho cô. Màu rêu vừa mới lan rộng liền bị tiếm chỗ bởi sắc mận và ánh vàng lấp lánh khi ông kéo cô đi.
Chandresh giới thiệu Celia với ông A.H-, mà không thể nhớ ra là liệu hai người bọn họ đã gặp nhau chưa. Celia nói rằng họ chưa từng, dù cô nhớ quý ngài đang lịch sự cầm tay cô, vì ông trông vẫn hệt như ngày cô sáu tuổi. Duy chỉ có bộ vét của ông là thay đổi, phù hợp với phong cách đương thời.
Một vài người nằn nì Celia biểu diễn. Mặc dù lúc đầu cô từ chối nhưng vào cuối buổi tối cô đầu hàng, kéo Tsukiko đang ngơ ngác ra giữa sàn nhảy và làm cô ấy biến mất chỉ trong nháy mắt bất chấp đám đông xung quanh họ. Khoảnh khắc trước còn thấy hai người phụ nữ trong tà váy màu hồng cánh hoa và khoảnh khắc sau chỉ còn Celia đứng đó.
Mấy giây sau, có tiếng hét vọng ra từ thư viện vì Tsukiko xuất hiện trở lại trong cỗ quan tài bằng đá đính đầy đèn lồng dựng trong góc. Tsukiko nhấc ly rượu champagne từ một người bồi bàn hẵng còn kinh ngạc, tặng cho anh ta một nụ cười mị hoặc trước khi quay trở lại phòng vũ hội.
Cô đi ngang qua Poppet và Widget, Poppet đang dạy lũ mèo con sọc cam leo lên vai mình còn Widget đang lôi hết cuốn sách này tới cuốn sách khác từ những giá đầy ắp trong thư viện. Poppet đã phải hết sức lôi kéo cậu ra khỏi đó để ngăn cậu không tiêu tốn toàn bộ thời gian bữa tiệc vào chuyện đọc sách.
Khách khứa di chuyển thành những mảng màu từ phòng vũ hội qua các hành lang và thư viện, một cầu vồng di động không ngừng nhấn nhá bởi tiếng cười và tiếng trò chuyện. Bầu không khí duy trì sự sôi động và tươi tắn như thế kể cả khi đã bước sang buổi sáng.
Khi Celia đi một mình qua sảnh trước, Marco tóm lấy tay cô, kéo cô vào góc khuất phía sau pho tượng vàng. Những cánh hồng cuồng nhiệt rơi xuống vì sự thay đổi đột ngột của không khí.
“Em không hề quen như thế đâu, anh biết rồi đấy,” Celia nói. Cô rút tay ra khỏi tay anh nhưng không rời đi, dù không có nhiều không gian giữa bức tường và pho tượng. Chiếc váy của cô ngả tuyền một màu lục, sâu thẳm.
“Trông em hệt như lần đầu mình gặp nhau,” Marco nói.
“Em hiểu là anh đã cố tình chọn màu đó phải không?” Celia hỏi.
“Thuần túy chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên thôi. Chandresh khăng khăng rằng toàn bộ người làm phải mặc màu xanh lục. Và anh đã không dự đoán được sự độc đáo của bộ trang phục mà em chọn.”
Celia nhún vai. “Em không thể quyết định nên mặc gì.”
“Em đẹp lắm,” Marco nói.
“Cảm ơn anh,” Celia đáp lại, lảng tránh ánh mắt anh. “Anh thì quá ư điển trai. Em thích gương mặt thật của anh hơn.”
Gương mặt anh thay đổi, quay lại gương mặt mà cô vẫn nhớ đến từng chi tiết từ buổi tối họ trải qua cùng phòng ba năm về trước trong những hoàn cảnh còn gần gũi hơn nhiều lần. Có rất ít cơ hội kể từ ngày đó ngoại trừ những khoảnh khắc lén lút quá đỗi ngắn ngủi.
“Chẳng phải hơi mạo hiểm khi mang gương mặt này sao?” Celia hỏi.
“Anh làm thế này chỉ vì em,” Marco nói. “Những người còn lại sẽ chỉ thấy anh như họ vẫn thấy.”
Họ đứng nhìn nhau trong yên lặng trong khi một nhóm cười nói đi qua hành lang ở phía bên kia pho tượng. Âm thanh vang vọng khắp không gian dù họ ở đủ xa để Celia và Marco trốn đi mà không ai biết, và chiếc váy của Celia vẫn giữ nguyên màu xanh rêu ấy.
Marco đưa tay lên gạt một lọn tóc quăn rơi xuống mặt Celia, vén ra sau tai cô và lướt những đầu ngón tay qua má cô. Mí mắt cô xao động và những cánh hồng quanh chân họ bắt đầu chuyển động.
“Anh nhớ em,” anh thì thầm dịu dàng.
Không khí giữa họ như có điện khi anh ghé sát lại, nhẹ nhàng miết đôi môi mình lên cổ cô.
Ở phòng bên cạnh, khách khứa phàn nàn rằng nhiệt độ tăng đột ngột. Quạt được rút ra từ những chiếc túi sặc sỡ, phe phẩy như những chú chim nhiệt đới.
Khuất dưới bóng pho tượng đầu voi, Celia đột nhiên né mình ra. Lý do rất rõ ràng khi những đám mây xám bắt đầu xoáy lượn xuyên qua sắc xanh lục trên váy cô.
“Chào ông, Alexander,” cô nói, cúi đầu chào người đàn ông đã xuất hiện phía sau họ không một tiếng động, thậm chí còn không lay động tới cả những cánh hồng rải đầy trên sàn.
Người đàn ông mặc bộ đồ xám gật đầu lịch thiệp chào cô. “Cô Bowen, tôi muốn nói chuyện riêng với anh bạn của cô một lát, nếu như cô không phiền.”
“Phiền gì đâu ạ,” Celia nói. Cô rời đi, thậm chí không hề liếc nhìn Marco, chiếc váy của cô chuyển màu từ sắc rạng đông xam xám sang hoàng hôn tím phớt khi cô đi dọc hành lang nơi cặp song sinh Murray đang dụ dỗ lũ mèo con sọc cam bằng mấy cái thìa bạc sáng bóng.
“Ta không thể nói cách cư xử này là phù hợp,” người đàn ông mặc bộ đồ xám nói với Marco.
“Thầy biết cô ấy,” Marco khẽ nói, đôi mắt vẫn dõi theo Celia khi cô dừng ở lối vào phòng vũ hội, chiếc váy của cô nhuộm sắc đỏ thắm khi Herr Thiessen mời cô một ly champagne.
“Ta đã gặp cô ấy. Ta không có tư cách gì để nói là ta biết cô ấy trên bất kì phương diện nào.”
“Thầy đã biết chính xác cô ấy là ai trước khi chuyện này bắt đầu và thầy chưa bao giờ nghĩ là sẽ nói với con ư?”
“Ta đã không cho là cần thiết.”
Một nhóm khách lững thững từ phòng ăn vào phòng vũ hội, một lần nữa khiến những cánh hoa hồng dạt đi. Marco đi cùng người đàn ông mặc bộ đồ xám qua thư viện, trượt mở tấm thủy tinh màu để bước vào một gian phòng giải trí vắng vẻ và tiếp tục cuộc đối thoại.
“Mười ba năm và không một lời nào, vậy mà giờ thầy lại muốn nói chuyện với con ư?” Marco hỏi.
“Ta không có điều gì cụ thể để nói với cậu cả. Ta chỉ đơn giản muốn ngăn cuộc đối thoại của cậu... và cô Bowen.”
“Cô ấy biết tên thầy.”
“Rõ ràng là cô ấy có trí nhớ rất tốt. Cậu muốn thảo luận gì nào?”
“Con muốn biết liệu có phải con đang làm tốt hay không,” Marco nói, giọng trầm và lạnh lẽo.
“Những bước tiến của cậu đáng kinh ngạc,” người thầy nói. “Công việc của cậu ở đây ổn định, cậu có một vị thế thích hợp để từ đó tiếp tục.”
“Vậy mà con không thể là chính mình. Thầy dạy con tất cả và rồi thầy để con ở đây, vờ vĩnh làm một thứ vốn không phải là con, trong khi cô ấy lại ở sân khấu trung tâm, làm chính xác những điều cô ấy vẫn làm.”
“Nhưng không một ai trong căn phòng đó tin như thế. Họ nghĩ cô ấy chỉ đang đánh lừa họ. Những gì họ thấy được ở cô ấy cũng chẳng nhiều hơn những gì họ thấy ở cậu, cô ấy chỉ đơn giản là dễ nhận ra hơn mà thôi. Cậu cũng có thể làm chẳng kém gì cô ấy mà không cần phải biến nó thành màn trình diễn khoa trương và màu mè. Cậu có thể duy trì được sự ẩn danh tương đối của mình mà vẫn đạt được những thành tựu như cô ấy. Ta nghĩ cậu nên giữ khoảng cách với cô ấy và tập trung vào công việc của chính mình.”
“Con yêu cô ấy.”
Chưa bao giờ bất cứ điều gì Marco nói hay làm có thể gây ra một phản ứng rõ ràng từ người đàn ông mặc đồ xám, kể cả khi có lần anh sơ ý làm cháy một cái bàn trong những buổi học, thế nhưng biểu cảm vụt qua gương mặt của ông bây giờ rõ là sự buồn bã không thể nhầm lẫn.
“Ta rất tiếc khi nghe thấy thế,” ông nói. “Điều đó sẽ khiến thử thách này khó khăn hơn gấp bội với cậu.”
“Bọn con đã chơi trò này hơn một thập kỉ rồi, đến bao giờ mới kết thúc đây?”
“Nó sẽ kết thúc khi có một người chiến thắng.”
“Vậy cần bao lâu nữa ạ?” Marco hỏi.
“Khó nói lắm. Thách thức gần đây nhất kéo dài ba mươi bảy năm.”
“Bọn con không thể giữ cho rạp xiếc hoạt động trong ba mươi bảy năm được.”
“Vậy thì cậu sẽ không có nhiều thời gian để chờ đợi nữa. Cậu là một học trò giỏi, cậu là một đối thủ mạnh.”
“Làm thế nào thầy có thể biết được chứ?” Marco cao giọng hỏi. “Thầy thậm chí còn không thèm ở đó nói chuyện với con trong bao nhiêu năm qua. Con đã không làm gì vì thầy cả. Mọi thứ con làm, mọi thay đổi con thực hiện cho rạp xiếc, mỗi hành động tưởng chừng như không thể ấy, mỗi cảnh quan ấn tượng đến khó tin ấy, con đều làm vì cô ấy.”
“Mục đích của cậu không ảnh hưởng gì tới trận đấu.”
“Con chấm dứt, không tham gia trận đấu của thầy nữa,” Marco nói. “Con sẽ từ bỏ.”
“Cậu không từ bỏ được,” thầy anh đáp lại. “Cậu gắn kết với nó. Với cô ấy. Thử thách này sẽ tiếp tục. Một trong hai người sẽ thua. Cậu không có lựa chọn nào trong chuyện này.”
Marco nhặt một quả bóng từ bàn bi-a lên và quăng nó về phía người đàn ông mặc đồ xám. Ông dễ dàng né được, quả bóng lao thẳng vào mảng màu ráng chiều trên tấm kính màu.
Không một lời nào, Marco quay lưng về phía thầy của mình. Anh đi ra cửa ở phía cuối phòng, thậm chí còn chẳng nhận ra Isobel khi anh đi qua cô trong hành lang, nơi cô ngồi đủ gần để nghe thấy trận cãi vã.
Anh đi thẳng vào phòng vũ hội, bước tới chính giữa sàn nhảy. Anh kéo tay Celia, xoay người cô khỏi Herr Thiessen. Marco kéo cô về phía anh trong vòng ôm màu lục bảo, sát đến mức không còn khoảng cách giữa bộ vét của anh và chiếc váy dài của cô.
Với Celia, đột nhiên chẳng còn ai trong căn phòng này khi anh ôm cô trong vòng tay.
Nhưng cô chưa kịp thốt lên lời nào vì sửng sốt thì môi anh đã khép kín môi cô, Celia lạc trong niềm hạnh phúc không lời.
Marco hôn Celia như thể họ là hai người duy nhất trên thế gian này.
Không khí cuộn lại như cơn bão quanh họ, làm bung mở những cánh cửa kính hướng ra vườn, tung bay những tấm rèm.
Mọi ánh mắt trong căn phòng đều hướng về phía họ. Rồi anh buông cô ra và rời đi.
Ngay khi Marco rời khỏi căn phòng, hầu như tất cả mọi người đều quên bẵng đi sự kiện vừa rồi. Chỉ còn lại cảm giác bối rối trong giây lát được đổ tại cơn nóng hoặc do đã uống quá nhiều champagne.
Herr Thiessen không thể nhớ nổi tại sao Celia lại đột nhiên ngừng khiêu vũ, hay từ khi nào mà chiếc váy của cô đã đổi sang màu xanh sâu thẳm như hiện giờ.
“Có chuyện gì sao?” ông hỏi, khi ông nhận ra cô đang run rẩy.
•ÔNG A.H- LAO QUA SẢNH TRƯỚC, không biết bằng cách nào đã tránh không để vấp vào Poppet và Widget đang nằm rạp ra sàn dạy Bootes và Pavo xoay tròn trên hai chân sau.
Widget bế Bootes (hoặc Pavo) đưa cho Poppet và đi theo người đàn ông mặc đồ xám. Cậu nhìn theo khi ông đi vào sảnh, lấy lại chiếc mũ chóp cao màu xám và cây gậy bạc từ người quản gia, rồi rời đi qua cửa chính. Sau khi ông đi ra, Widget gí mũi vào ô cửa sổ gần nhất, dõi theo ông khi ông bước dưới những ngọn đèn đường trước khi biến mất hẳn vào bóng tối.
Poppet bắt kịp cậu sau đó, lũ mèo con bám trên vai cô bé gừ gừ sung sướng. Chandresh đi ngay sau cô, xuyên qua đám đông ở hành lang.
“Sao thế anh?” Poppet hỏi. “Có chuyện gì à?”
Widget quay mặt lại.
“Người đàn ông đó không có bóng,” cậu nói, khi Chandresh nhoài người qua đầu cặp song sinh để nhìn ra ngoài khung cửa sổ về phía con phố vắng ngắt.
“Cháu nói gì cơ?” Chandresh hỏi, nhưng Poppet và Widget cùng lũ mèo con màu cam đã chạy về phía cuối hành lang, mất hút trong đám đông đầy sắc màu.