← Quay lại trang sách

ĐÙA VỚI LỬA

Ánh sáng duy nhất trong căn lều này đến từ đám lửa. Những ngọn lửa có màu trắng rực rỡ ấm áp thoắt ẩn thoắt hiện, giống như vạc lửa ngoài sân.

Bạn đi qua một người nuốt lửa được bợ trên bục diễn kẻ sọc. Anh ta giữ những mẩu lửa nhỏ nhảy nhót trên đỉnh những cây gậy dài trong khi chuẩn bị nuốt trọn tất cả.

Trên một bục diễn khác, một người phụ nữ giữ hai sợi xích dài, mỗi đầu là một quả cầu lửa. Chị ta quay chúng thành những vòng móc và đường tròn, tạo thành những vệt cháy rực ánh sáng trắng trên đường đi, nhanh đến mức trông như những dải lửa chứ không phải những đốm lửa rời rạc tách biệt trên sợi xích.

Nghệ sĩ trên rất nhiều bục biểu diễn, tung hứng những ngọn đuốc, quay tít thật cao trong không trung. Thi thoảng, họ tung những ngọn đuốc bốc cháy vào nhau trong cơn mưa rực rỡ ánh lửa.

Đâu đó, có những vòng lửa cao thấp khác nhau mà các nghệ sĩ lao qua dễ như trở bàn tay, như thể đó chỉ là những vòng kim loại không có lửa bập bùng bao quanh. Người nghệ sĩ trên bục diễn này cầm những đốm lửa trên đôi bàn tay trần, rồi cô biến chúng thành rắn, thành hoa và muôn hình vạn trạng. Tia lửa lóe lên từ những ngôi sao chổi, chim rực cháy rồi biến mất như những con phượng hoàng nhỏ xíu trong lòng bàn tay cô.

Cô ấy mỉm cười với bạn khi bạn ngắm nhìn những ngọn lửa trắng trên tay cô vụt biến đổi, chỉ bằng cử động ngón tay điêu luyện, thành hình một con thuyền. Một cuốn sách. Một trái tim lửa.

* 月子[32] HÀNH TRÌNH TỪ LONDON TỚI MUNICH, 1 THÁNG MƯỜI MỘT, 1901

Con tàu chẳng có gì đáng chú ý khi nó xịch bánh qua vùng nông thôn, xịt từng đám mây khói xám vào không trung. Động cơ đen xì xịt. Những toa tàu đơn sắc như nhau. Những toa có cửa sổ nom sáng màu hơn và âm u; những toa không cửa sổ thì đen kịt như than. Con tàu im lặng suốt chặng đường, không hụ hay rít còi hiệu. Bánh tàu không mài lên đường ray rin rít mà lướt đi trơn tru và tĩnh lặng. Đoàn tàu lao đi mà gần như không hề bị nhận ra trong suốt hành trình, chẳng hề dừng lại.

Từ ngoài nhìn vào, con tàu trông giống như tàu chở than, hoặc thứ gì đó từa tựa thế. Quả tình chẳng có gì đáng nói.

Nhưng nội thất thì hoàn toàn khác.

Phía bên trong, con tàu thật xa hoa, hào nhoáng và ấm áp. Hầu hết các toa khách được trải thảm hoa văn dày dặn, phủ nhung đỏ tía, tím phớt và màu kem, như thể được nhúng trong ánh chiều tà, tráng qua ánh trăng non và cứ lưu giữ những sắc màu ấy trước khi nhạt nhòa dần vào màn đêm và dưới ánh sao.

Đèn treo tường soi sáng dọc hành lang, những tấm màn rủ bằng pha lê buông lơi từ chân đèn xuống, xoay vòng cùng chuyển động của con tàu. Mượt mà và an nhiên.

Ngay sau khi tàu khởi hành, Celia cẩn thận cất cuốn sách bìa da đi, ngụy trang cho nó một dáng vẻ bình thường giữa những cuốn sách khác của cô.

Cô đã thay chiếc váy dài dính máu và mặc một chiếc khác màu xám ánh trăng tha thướt, đính dây nơ màu đen, trắng và chì than, nó đã từng là một trong những chiếc váy Friedrick đặc biệt yêu thích.

Những dải nơ bập bềnh phía sau Celia khi cô đi dọc con tàu.

Cô dừng lại ở cánh cửa duy nhất có hai chữ thư pháp cùng cái tên viết tay trên tấm biển cạnh đó.

Tiếng gõ cửa lịch sự của Celia được đáp lại ngay lập tức, mời cô vào bên trong.

Dù hầu hết các toa tàu đều rực rỡ đủ sắc màu, toa riêng của Tsukiko gần như hoàn toàn trung tính. Một không gian trống trải bao quanh bằng bình phong giấy và rèm lụa thô, sực nức hương gừng và kem.

Tsukiko ngồi trên sàn giữa phòng, mặc kimono đỏ. Một trái tim đỏ thắm đập trong căn buồng nhợt nhạt.

Và cô ấy không ở một mình. Isobel nằm trên sàn, đầu đặt trong lòng Tsukiko, khẽ khàng thổn thức.

“Tôi không cố ý chen ngang đâu,” Celia nói. Cô ngần ngại ở lối ra vào, sẵn sàng trượt cửa đóng lại.

“Cô không chen ngang mà,” Tsukiko nói, ra hiệu cho Celia đi vào. “Có lẽ cô sẽ giúp được tôi thuyết phục Isobel rằng cô ấy cần nghỉ ngơi chút đỉnh.”

Celia không nói gì, nhưng Isobel quệt mắt, gật đầu khi ngồi dậy.

“Cảm ơn chị, Kiko,” cô vừa nói vừa vuốt phẳng những nếp nhăn trên váy.

Tsukiko vẫn ngồi yên, sự chú ý của cô dồn cả vào Celia.

Isobel dừng lại bên Celia khi đi ra phía cửa. “Tôi rất tiếc về Herr Thiessen,” cô nói.

“Tôi cũng vậy.”

Trong khoảnh khắc, Celia nghĩ rằng Isobel định ôm cô, nhưng rồi cô ấy chỉ gật đầu trước khi rời đi, trượt cánh cửa đóng lại sau lưng.

“Những giờ phút cuối cùng thật dài với tất cả chúng ta,” Tsukio nói sau khi Isobel rời đi. “Cô cần trà,” cô ấy nói thêm trước khi Celia kịp giải thích vì sao mình ở đây. Tsukiko mời Celia ngồi xuống một cái đệm và lướt đi nhẹ nhàng tới cuối khoang tàu, lấy đồ pha trà từ một trong mấy tấm bình phong cao.

Không hẳn là một buổi trà đạo đúng nghĩa mà Tsukiko đã trình diễn vài lần trong mấy năm qua, nhưng khi cô chậm rãi pha hai bát trà bột, tất cả vẫn thật đẹp và tĩnh tại.

“Tại sao chị chưa bao giờ nói với tôi?” Celia hỏi khi Tsukiko yên vị trước mặt mình.

“Nói với cô điều gì?” Tsukiko hỏi, mỉm cười nhấp trà.

Celia thở dài. Cô băn khoăn không biết có phải Lainie Burgess cũng đã chán nản tương tự sau hai tuần trà ở Constantinople. Celia nửa muốn đập vỡ bát trà của Tsukiko, chỉ để xem cô ấy sẽ làm gì.

“Cô đã tự làm mình bị thương sao?” Tsukiko hỏi, hất đầu về vết sẹo trên ngón tay Celia.

“Gần ba mươi năm trước tôi đã bị cuốn vào một cuộc đấu,” Celia nói. Cô nhấp trà trước khi tiếp, “Giờ chị đã nhìn thấy vết sẹo của tôi, chị có định cho tôi xem vết sẹo của chị không?”

Tsukiko mỉm cười đặt bát trà xuống sàn trước mặt mình. Rồi cô xoay người và hạ thấp cổ áo kimono xuống. Ở gáy cô, giữa muôn vàn những biểu tượng xăm, nấp trong đường cong của vầng trăng khuyết là một vết sẹo mờ mờ có kích cỡ và hình dáng của một chiếc nhẫn.

“Cô thấy đấy, những vết sẹo dai dẳng hơn trận đấu,” Tsukiko nói, dựng thẳng áo kimono quanh vai.

“Đó là do một trong mấy chiếc nhẫn của bố tôi,” Celia nói, nhưng Tsukio không khẳng định cũng chẳng phủ nhận lời nói ấy.

“Trà của cô uống có được không?” cô ấy hỏi.

“Tại sao chị lại ở đây?” Celia bật lại.

“Tôi được thuê làm nghệ sĩ uốn dẻo.”

Celia đặt bát trà xuống.

“Tôi không có tâm trạng để nghe chuyện này, Tsukiko,” cô nói.

“Nếu chọn lựa câu hỏi cẩn trọng hơn thì có thể cô sẽ nhận được câu trả lời đáng hài lòng hơn đấy.”

“Tại sao chị chưa bao giờ nói với tôi rằng chị biết về thử thách đó?” Celia hỏi. “Rằng chính chị cũng đã tham gia?”

“Tôi đã có một thỏa thuận rằng sẽ không bao giờ tiết lộ bản thân trừ phi được hỏi trực diện,” Tsukiko trả lời. “Nói lời thì giữ lấy lời.”

“Tại sao từ đầu chị lại đến đây?”

“Tôi tò mò. Đã chẳng có cuộc đấu nào kể từ lần tôi tham gia. Tôi vốn không định ở lại.”

“Tại sao chị lại ở lại?”

“Tôi thích Monsieur Lefèvre. Đấu trường của tôi là một nơi yên ả hơn, còn lần này có vẻ như địa điểm thi đấu là độc nhất vô nhị. Chẳng mấy khi khám phá ra được những nơi thực sự độc đáo. Tôi đã ở lại để quan sát.”

“Chị đã theo dõi chúng tôi,” Celia nói.

Tsukio gật đầu.

“Kể cho tôi nghe về trận đấu đi,” Celia nài nỉ, hi vọng nhận được lời hồi đáp cho câu hỏi gợi mở vì Tsukiko đã thẳng thắn hơn.

“Có nhiều điều hơn cô nghĩ,” Tsukiko nói. “Bản thân tôi đã chẳng hiểu gì về luật chơi khi đó. Không chỉ về những gì cô gọi là pháp thuật. Cô tin rằng thêm một căn lều mới cho rạp xiếc là một bước đi ư? Còn hơn thế nữa. Mỗi việc cô làm, mỗi thời khắc của ngày và đêm là một bước động thủ. Cô mang bàn cờ theo mình, nó không chỉ bó hẹp giữa những tấm bạt và những dải sọc. Dù cô và đối thủ không nếm trải sự xa hoa được đứng trên những ô vuông thanh lịch.”

Celia ngẫm ngợi về điều này trong lúc nhấp trà. Cố gắng chấp nhận sự thật rằng mọi chuyện đã xảy ra với rạp xiếc, với Marco, là một phần của trận đấu.

“Cô có yêu anh ta không?” Tsukiko hỏi, quan sát cô với ánh mắt quan tâm và nét cười có lẽ là cảm thông, nhưng Celia luôn thấy khó giải mã những biểu cảm của Tsukiko.

Celia thở dài. Chẳng có lý gì để chối bỏ điều này. “Có,” cô đáp.

“Cô có tin là anh ta cũng yêu cô không?”

Celia không trả lời. Cách đặt câu hỏi khiến cô khó chịu. Chỉ mới vài giờ trước, cô thật sự chắc chắn. Giờ đây, ngồi trong khoang tàu phủ lụa thoảng hương này, cảm giác như những gì tưởng chừng bền chặt và không thể bàn cãi bỗng trở nên mong manh như làn khói tỏa ra trên bát trà của cô. Mỏng manh như một ảo giác.

“Ái tình là bất định và phù du,” Tsukiko tiếp tục. “Nó hiếm khi là nền tảng vững chãi để từ đó đưa ra các quyết định, trong bất kỳ cuộc chơi nào.”

Celia nhắm mắt lại để ngăn đôi tay mình khỏi run rẩy.

Cô mất nhiều thời gian hơn mình tưởng để lấy lại kiểm soát.

“Isobel cũng đã có lúc nghĩ rằng anh ta yêu cô ấy,” Tsukiko nói tiếp. “Cô ấy đã chắc chắn về điều đó. Đó là lý do cô ấy đến đây, để trợ giúp anh ta.”

“Anh ấy có yêu tôi,” Celia nói, dù những lời lẽ ấy khi được thốt ra từ đôi môi cô nghe chẳng còn mạnh mẽ như lúc chúng vang lên trong đầu.

“Có thể,” Tsukiko đáp lại. “Anh ta khá có tài thao túng người khác. Chẳng lẽ cô chưa từng một lần nói dối mọi người, chỉ nói cho họ nghe những điều họ muốn được nghe ư?”

Celia không dám chắc điều gì tệ hơn. Biết rằng để kết thúc trận đấu, một trong hai kẻ bọn cô sẽ phải chết, hay khả năng rằng cô chẳng là gì với anh. Rằng cô chỉ là một quân cờ trên bàn cờ. Chờ đợi để bị đốn ngã và chiếu tướng.

“Đây là vấn đề về góc nhìn, sự khác biệt giữa đối thủ và tri kỉ,” Tsukiko nói. “Cô bước sang bên và vẫn con người đó có thể là một trong hai, hoặc cả hai hoặc một thứ gì khác hoàn toàn. Thật khó biết được bộ mặt nào là thật. Và cô có cả đống yếu tố phải đương đầu chứ không chỉ là đối thủ của mình.”

“Chị thì không ư?” Celia hỏi.

“Đấu trường của tôi không ngợp thế này. Nó hệ lụy tới ít người hơn, ít chuyển động hơn. Nếu không có thử thách thì chẳng có gì ở đó để cứu rỗi cả. Tôi nghĩ bây giờ chỗ đó là một vườn trà. Tôi đã không quay lại chốn đó kể từ khi cuộc đấu chấm dứt.”

“Rạp xiếc có thể tiếp tục, sau khi trận đấu này... chấm dứt,” Celia nói.

“Thế thì hay,” Tsukiko nói. “Một cách tưởng nhớ đầy ý nghĩa dành cho Herr Thiessen của cô. Nhưng để rạp xiếc hoàn toàn độc lập khỏi cô và đối thủ là một việc rất phức tạp. Cô đã lãnh cả đống trọng trách vì tất cả việc này. Cô là yếu tố sống còn với quá trình hoạt động của nó. Giả dụ như tôi mà đâm dao vào tim cô ngay bây giờ thì con tàu này sẽ đi tong.”

Celia đặt bát trà xuống, quan sát chuyển động êm ái của con tàu làm gợn lên những nếp mềm mại trên bề mặt chất lỏng. Cô căng óc tính toán phải mất bao lâu để dừng con tàu lại, và cô có thể giữ cho trái tim mình còn đập trong bao lâu. Cô quyết định rằng rất có thể sẽ phụ thuộc vào con dao.

“Có thể,” cô nói.

“Nếu tôi dập tắt vạc lửa, hoặc kẻ trông coi nó, thì việc đó cũng gây họa, phải không?”

Celia gật đầu.

“Nếu muốn duy trì rạp xiếc này thì cô còn nhiều việc phải làm,” Tsukiko nói.

“Chị đang đề nghị giúp đỡ phải không?” Celia hỏi, hi vọng rằng Tsukiko sẽ trợ giúp giải mã các hệ thống của Marco vì họ là bạn đồng môn.

“Không,” Tsukiko đáp lại với cái lắc đầu lịch sự, nụ cười của cô làm dịu bớt sự khắc nghiệt của lời lẽ. “Nếu cô không thể tự mình xoay xở, tôi sẽ can dự vào. Chuyện này đã kéo dài quá lâu rồi, nhưng tôi sẽ cho cô chút thời gian.”

“Chút là bao lâu vậy?” Celia hỏi.

Tsukiko nhấp trà.

“Thời gian là thứ tôi không thể kiểm soát,” cô nói.

“Cứ để xem.”

Họ ngồi tĩnh lặng trong dòng thời gian không thể kiểm soát ấy, chuyển động của con tàu khẽ khàng lay động những tấm rèm lụa, mùi hương gừng và kem bao bọc lấy chúng.

“Chuyện gì đã xảy ra với đối thủ của chị?” Celia hỏi.

Tsukiko không nhìn Celia mà cúi xuống bát trà khi đáp.

“Đối thủ của tôi hiện giờ là cột tro tàn trên một cánh đồng ở Kyoto,” cô nói. “Trừ phi gió và thời gian đã thổi bay cô ấy.”