Chương 2
Từ sự việc kể trên, mười lăm năm đã trôi qua; sự êm đềm, hạnh phúc không ngừng chan hòa dưới mái nhà của người gác rừng, thằng bé mồ côi lúc nào cũng tin mình là con trai yêu quí của Marguerite và Gilbert Head.
Một buổi sáng tháng Sáu đẹp trời, một người đàn ông tuổi đã suy, ăn vận giống một dân quê khá giả, cưỡi một con ngựa tơ khỏe mạnh, đi theo con đường dẫn qua rừng Sherwood đến khu làng đẹp đẽ Mansfeldwoohaus.
Trời quang tạnh; vừng đông mới mọc chiếu sáng cảnh hiu quạnh bao la, làn gió bấc thổi qua rừng nhỏ cuốn theo trong bầu không khí mùi ngai ngái, đậm đà của lá sồi và hàng ngàn hương thơm của hoa dại; trên rêu, trên cỏ, óng ánh những giọt sương giống như những hạt kim cương; ở góc khu rừng già, chim chóc bay lượn, kêu hót; hoẵng nai kêu vang trong rừng rậm; cuối cùng khắp mọi nơi thiên nhiên thức dậy, lớp sương mù sau chót của ban đêm trốn chạy ra xa.
Khách du hành vẻ mặt hớn hở vì ngày đẹp trời, ngực phồng lên, hít đầy buồng phổi, rồi bằng một giọng mạnh mẽ, sang sảng, ông hát vang những điệp khúc của một bài thánh ca cổ Saxon, bài ca nói về cái chết của bọn bạo chúa.
Bỗng một mũi tên rít lên, vút qua tai ông, rồi cắm phập vào cành cây sồi ở bên đường.
Người khách, ngạc nhiên hơn là hoảng sợ, nhảy xuống ngựa, đến núp sau một gốc cây, giương cung lên, giữ thế thủ. Ông ta chú ý trong khắp chiều dài con đường, dò xét các rừng rậm xung quanh, và lắng tai nghe ngóng những tiếng động nhỏ khẽ trong khu rừng, nhưng đều vô hiệu, ông ta chẳng trông thấy gì hết, chẳng nghe thấy gì hết, mà chỉ còn biết suy nghĩ về cuộc tấn công bất ngờ này.
Có lẽ người khách vô hại này suýt nữa đã bị té xụm dưới phát tên của một gã thợ săn vụng về; nhưng lúc bấy giờ ông ta nghe thấy tiếng bước chân của tên thợ săn, tiếng chó sủa vang, ông ta trông thấy con hoẵng trốn lủi chạy qua đường hẻm?
Có lẽ đó là một gã sống ngoài vòng pháp luật, một kẻ bị lưu đày - bá tước địa này có nhiều kẻ như vậy, chúng chỉ sống bằng giết chóc, bóc lột, suốt ngày nấp đợi khách qua đường? Nhưng tất cả những tên du đãng này đều biết ông ta; chúng biết rằng ông chẳng giàu có gì, và chẳng bao giờ ông từ chối không cho chúng một mẩu bánh mì, một ly rượu mạnh khi chúng gõ cửa nhà ông.
Có phải ông đã xúc phạm một kẻ nào đó mà giờ đây y kiếm cách báo thù không? Không, ông không có kẻ thù nào trong vòng hai chục dặm quanh đây cả.
Vậy thì bàn tay vô hình nào đã toan bắn chết ông?
Đúng là định bắn chết! Vì mũi tên đã lướt sát màng tai, hất tung cả tóc ông lên.
Vừa suy nghĩ về tình thế của mình ông vừa tự bảo:
— Mối nguy không gắt gao lắm đâu, vì bản năng con ngựa của mình không dự cảm thấy. Trái lại, nó vẫn đứng im ở đây như thể ở trong chuồng, vươn cổ hướng về đám lá cây như là về phía máng cỏ. Nhưng nếu nó lại đây, thì nó sẽ chỉ cho kẻ theo dõi mình chỗ mình nấp mất. Ê! Ngựa ơi, mau chạy đi!
Lệnh đó được truyền ra bằng một tiếng huýt nhẹ nhàng, thế là con vật ngoan ngoãn kia, đã từ lâu quen với thủ đoạn của người thợ săn muốn ở lại một mình tại chỗ ẩn núp, liền vểnh tai lên, hướng cặp mắt to đỏ rực về phía bụi cây che chở chủ nó, đáp lại bằng một tiếng hí khẽ, rồi chạy vội ra xa. Trong cả một khắc, ông lão quê, mắt không ngớt coi chừng, chờ đợi hão huyền một cuộc tấn công mới. Ông tự bảo:
— Nào, kiên nhẫn mãi cũng chẳng đi đến đâu, ta thử dùng mẹo xem sao.
Rồi căn cứ vào chiều hướng của phát tên mà tính ra chỗ kẻ kịch có thể trú ẩn, ông bắn một mũi tên về phía đó với hy vọng làm cho tên gian phi phải hoảng sợ hoặc khiêu khích buộc y phải chuyển động. Mũi tên vút nhẹ trong không gian, đến cắm vào lớp vỏ một gốc cây, mà không có ai đáp lại sự khiêu khích đó cả. Có lẽ một phát tên thứ hai sẽ đạt được kết quả chăng? Mũi tên thứ hai phát ra, nhưng nó bị chặn lại trên đường bay. Một mũi tên, do nột cây cung vô hình phóng ra, gặp mũi tên kia hầu như làm thành góc vuông ở phía trên con đường, làm cho nó xoay như chong chóng rơi xuống mặt đất. Phát tên rất mau lẹ, bất ngờ, tỏ ra cái tài tuyệt diệu của tay và mắt, làm cho ông lão quê phải sửng sốt, thán phục, mà quên cả nguy hiểm, nhảy ra khỏi chỗ núp.
— Phát tên kỳ diệu, kỳ diệu tuyệt vời! - Ông lão kêu to lên, nhảy cẫng trên lề rừng đi kiếm người chung thủ huyền bí.
Một tiếng cười vui vẻ đáp lại những tiếng hoan hô đó, rồi không xa đấy bao nhiêu một giọng trong trẻo, êm ái như giọng phụ nữ vang lên, hát rằng:
“Có con hoẵng ở trong khu rừng, có bông hoa bên rìa rừng lớn,
“Nhưng hãy mặc hoẵng sống đời hoang dã, mặc hoa trên nhánh cây mềm.
“Hãy lại cùng em, hỡi bạn tình ơi, hỡi Robin Hood thân yêu;
“Em biết anh thích hoẵng trong rừng, và hoa để trang sức trán em;
“Nhưng hôm nay hãy bỏ săn hoẵng, thôi hái hoa tươi.
“Hãy lại cùng em, hỡi bạn tình ơi, hỡi Robin Hood thân yêu.”
— Ồ! Đúng là Robin, cái thằng Robin Hood mặt dày mày dạn kia đang hát. Lại đây, con. Sao thế? Mày dám bắn cung vào bố mày à? Lay thánh Dunstan, tao cứ ngõ là bọn trộm cướp kia muốn thịt tao! Ồ! Cái thằng con độc ác kia lấy cái đầu hoa âm của ta làm đích mà bắn! À! Nó đây rồi, - ông lão nói thêm, - nó đây rồi, thằng bé tinh nghịch! Nó hát bài ca ta đã soạn cho tình yêu của anh Robin… Cái lúc ta đặt cái bài ca ấy, anh chàng khốn khổ đang tán tỉnh nàng Mary xinh đẹp, vợ chưa cưới của anh.
— Sao thế! Cha ơi, mũi tên của con đã cù lét tại cha, làm cha bị thương ư? - Một thiếu niên từ phía bên kia rừng trả lời. Rồi lại bắt đầu hát:
“Không có áng mây trên bóng trăng vàng mờ nhạt, không có tiếng động trong miền thung lũng.
“Không có âm thanh nào khác trong không khí, chỉ có tiếng chuông tu viện dịu dàng.
“Hãy lại cùng em, hỡi bạn tình ơi, hãy lại cùng em, hỡi Robin Hood thân yêu.
“Hãy lại cùng em dưới gốc cây chứng kiến lời thề đầu tiên của chúng ta.
“Hãy lại cùng em, hỡi bạn tình ơi, hỡi Robin Hood thân yêu.”
Những tiếng vang của khu rừng vẫn còn nhắc lại điệp khúc êm đềm đó, thì một chàng trai, có vẻ hai chục tuổi, mặc dầu thực ra mới có mười sáu, đứng sững trước ông lão quê. Chắc chắn các bạn nhận ra ông lão ấy chính là ông Gilbert Head trung hậu ở chương thứ nhất của truyện này.
Chàng trai trẻ mỉm cười với ông già, chàng kính cẩn cầm trong tay chiếc mũ màu xanh lục, có gắn một chiếc lông cò trắng. Một mớ tóc đen hơi xoăn trang điểm vầng trán nở nang, trắng bóng hơn ngà. Mí mắt xắn lên, để lóe ra ánh sáng quắc của hai con người màu xanh thẫm, làn sáng này phớt nhẹ dưới riền mi dài, rủ bóng trên đôi gò má hồng hào. Ánh mắt nổi trong một thể lưu động trong suốt giống như một lớp men lỏng; những tư tưởng, tín ngưỡng, tình cảm của tuổi thanh xuân trong sạch phản chiếu trong đó như trong tấm gương; nét mặt của Robin lộ rõ dũng cảm và nghị lực; chàng có vẻ đẹp tao nhã, không chút ẻo lả mềm yếu, có nụ cười hầu như là nụ cười của một người làm chủ được mình khi đôi môi hé mở để lộ hàm răng trắng ngà - cặp môi như khảm san hô này được nối liền bằng một đường cong duyên dáng với sống mũi thon thẳng với lỗ mũi linh động, mịn màng.
Vẻ mặt cao quí đó sậm nâu vì rám nắng, nhưng màu trắng mượt của sắc da lại xuất hiện ở dưới cổ và trên cổ tay.
Một chiếc mũ cắm lông cò trắng, một áo cộc da xanh của Lincoln bò sát thân mình, chiếc quần chẽn may bằng da hoẵng, đôi unhege sceo (giày ống Saxon) thắt đai chắc ở mắt cá chân, một giải da đóng đinh thép sáng loáng nâng chiếc ống đựng tên, cái tù và nhỏ và con dao sẵn giắt ở thắt lưng, và cái cung cấm ở nơi tay, đó là y phục và đồ trang bị của Robin Hood, toàn thể có vẻ dị kỳ nhưng không hại chi đến vẻ đẹp của chàng thanh niên này.
— Thay vì cù lét tai ta mà lại đâm thủng sọ ta, thì làm sao? - Ông lão nói, nhắc lại những lời sau cùng của con bằng một giọng nghiêm khắc gượng gạo. - Thưa ngài Robin, từ nay đừng có cù lét như thế nữa, chết người đấy, chứ chẳng phải là trò đùa đâu.
— Xin cha tha lỗi cho con. Con không có ý làm cha bị thương đâu.
— Cha biết thế lắm chứ! Nhưng, con ạ, có thể xảy ra như thế đấy. Một sự thay đổi trong cách đi của con ngựa, một bước chệch sang bên phải hoặc bên trái đường ta đi, một cử động của đầu ta, một cái run của tay ta, một cái trông lầm của mắt ta, một cái chẳng đáng kể gì, chỉ thế thôi là cái trò chơi của con làm chết người đấy.
— Nhưng tay con đâu có run, mắt con lúc nào cũng nhìn chắc. Thôi cha đừng trách con nữa, hãy tha cho tội tinh nghịch của con.
— Cha thực lòng thứ lỗi cho con; nhưng, thầy tư tế thường kể chuyện ngụ ngôn của Esope cho con nghe, mà Esope nói rằng: Cái trò chơi có thể làm chết người thì có phải là trò tiêu khiển của một người được không?
— Thưa đúng thế, - Robin đáp bằng giọng hối hận. - Con van xin cha, hãy quên đi cái sự dại dột của con. Cái lỗi mà con phạm phải chính là do lòng kiêu ngạo.
— Kiêu ngạo ư?
— Thưa phải, lòng kiêu ngạo. Tối hôm qua cha chẳng từng bảo con như thế này sao, mày chưa phải là cung thủ đủ tài giỏi để có thể bắn phớt vào lông tai con mang, làm cho nó sợ mà chẳng làm nó bị thương? Thế là… con đã muốn chứng tỏ rằng không phải vậy.
— Trổ tài như vậy thì hay lắm đấy! Nhưng mà thôi, con ạ; cha tha lỗi cho con, cha không giận con, nhưng con phải hứa là không bao giờ được đối xử với cha như là một con nai cả.
— Cha đừng ngại gì cả, cha ạ, - Robin trìu mến kêu lên, - cha đừng ngại gì cả, con có tinh nghịch, sai trái, hay đùa bỡn đến đâu chăng nữa, con cũng sẽ không bao giờ quên lòng tôn kính, thân ái đối với cha đâu. Dù cho có được cả cái khu rừng Sherwood này, con cũng không muốn làm rụng đến một sợi tóc trên đầu cha.
Ông già âu yếm nắm lấy, siết chặt bàn tay chàng thanh niên đưa ra, nói:
— Cầu Chúa giáng phúc cho tấm lòng tốt đẹp của con, và ban cho con sự khôn ngoan!
Rồi với một niềm kiêu hãnh hồn nhiên mà bấy lâu nay ông kiềm hãm lại để mà rầy la tên cung thủ khinh xuất kia, ông nói thêm: “Mà đó chính là học trò của ta! Phải rồi, chính ta đây, Gilbert Head này, là người đầu tiên dạy nó giương cung, bắn tên! Trò xứng với thầy, nếu nó cứ tiếp tục thế này thì rồi ra sẽ chẳng có ai bắn giỏi hơn được nó, trong cả vùng bá tước địa này, và ngay khắp cả Anh quốc nữa.”
— Thưa cha, con xin thề rằng nếu bao giờ con quên tình thương yêu của cha, thì cánh tay phải của con sẽ mất hết sức lực, và không một mũi tên nào của con sẽ bắn trúng đích cả.
— Con ơi, con đã biết rằng ta chỉ là cha của con do tấm lòng mà thôi.
Ồ! Xin cha đừng nói đến cái quyền mà cha không có đối với con, bởi vì nếu thiên nhiên đã không cho cha quyền đó, thì cha đã đạt được do lòng ưu ái và tận tuỵ trong mười lăm năm.
— Ta hãy nói, trái lại.
Gilbert lại cất bước đi, cầm dây cương dắt theo con ngựa tơ; một tiếng còi chát chúa đã nhắc nhở ngựa làm phận sự.
— Ta ngầm cảm thấy trước là sắp có điều gì không hay.
— Cha nghĩ kỳ lạ quá!
— Nhờ ơn Chúa, con đã lớn, mạnh, có đầy khí phách; nhưng cái tương lai mở ra phía trước con thì không giống như con đoán phỏng lúc con còn là đứa bé nhỏ dại, khi thì hờn dỗi, khi thì vui vẻ, lớn lên ở trên đầu gối của Marguerite đâu.
— Con chẳng cần! Con chỉ phát nguyện là: tương lai giống như quá khứ và hiện tại.
— Từ rày về sau, chúng ta có già nua, cũng chẳng có chi hối tiếc, nếu như vén lên được bức màn bí mật bao trùm nguồn gốc xuất sinh của con.
— Cha có bao giờ gặp lại vị quân nhân trung hậu đã cậy cha chăm sóc con không?
— Ta chưa bao giờ gặp lại ông ta, chỉ có một lần nhận được tin tức của ông thôi.
— Có lẽ ông ta bị chết trận?
— Có lẽ thế. Một năm sau khi con đến nhà ta, một người lạ đem đến cho cha một túi tiền và một tờ giấy súc gắn sáp, nhưng dấu niêm phong không có mang huy hiệu. Ta đưa tờ giấy đó cho thầy rửa tội của con; thây mở ra rồi cho ta biết nội dung như sau, từng chữ một: “Thưa ông Gilbert Head, từ mười hai tháng nay tôi đã đặt một đứa bé dưới sự bảo hộ của ông, tôi đã cam kết trả ông số tiền thù lao hàng năm; nay tôi gửi số tiền đó đến ông, tôi rời Anh quốc, và không biết khi nào mới trở lại. Do đó, tôi đã thu xếp sao cho năm nào ông cũng lãnh được khoản tiền ấy. Như vậy, đến kỳ hạn, ông chỉ việc trình diện tại văn phòng quận trưởng ở Nottingham, là ông sẽ được trả tiền. Xin ông hãy nuôi dạy đứa bé đó giống như con ruột của ông; khi trở về, tôi sẽ đến xin ông lại.” Không có chữ ký, không đề ngày tháng; tờ giấy này từ đâu gửi tới? Ta không rõ. Người đưa thư ra đi, mà không muốn thỏa mãn sự tò mò của ta. Ta vẫn thường nhắc cho con biết những điều mà vị quí tộc xa lạ kia đã kể cho chúng ta về nguồn gốc xuất sinh của con và cái chết của cha mẹ con. Vậy là ta chẳng biết được gì hơn về xuất xứ của con cả, khi ta hỏi ông quận trưởng, là người trả tiền cấp dưỡng cho con, thì bao giờ ông ta cũng trả lời là ông không biết chi về tên và chỗ ở của người đã uỷ quyền cho ông hàng năm đến cho ta ngần ấy đồng ghi-nê. Nếu bây giờ vị bảo hộ của con mà đòi con lại, thì Marguerite và ta, chúng ta sẽ tự an ủi về việc con ra đi, vì nghĩ rằng nay con tìm lại được của cải, quyền thế thuộc về con do quyền thế tập; còn nếu như trước khi vị quí tộc kia lại xuất hiện mà chúng ta phải chết, thì cái giờ cuối cùng của chúng ta sẽ bị đầu độc vì buồn khổ.
— Buồn khổ gì thế, thưa cha?
— Buồn khổ vì thấy con bị bỏ một mình trơ trọi, phó mặc cho những đam mê trong lúc mới trưởng thành.
— Mẹ con và cha còn sống nhiều năm nữa mà.
— Điều đó chỉ có Chúa mới biết được!
— Chúa sẽ cho được như thế.
— Cầu sao ý Chúa được thành tựu! Dù sao, nếu rồi đây sự chết chia cắt chúng ta, thì con ơi, con nên biết rằng con là người kế tự duy nhất của cha mẹ; túp lều tranh mà ở đó con đã lớn lên là thuộc về con, mảnh đất khai hoang quanh nhà là tài sản của con, và với số tiền con được cấp dưỡng, chất chứa từ mười lăm năm nay, con sẽ chẳng phải lo sợ vì nghèo khổ, con sẽ được sung sướng nếu con biết khôn ngoan. Con đã phải chịu bất hạnh ngay từ lúc mới ra đời, cha mẹ nuôi của con đã cố gắng làm dịu nỗi bất hạnh ấy; con hãy luôn luôn tưởng nhớ đến các người, họ không tham cần sự báo đáp nào khác đâu.
Chàng thanh niên cảm động, những giọt lệ bắt đầu rưng rưng trên mi mắt, nhưng chàng nén xúc động để không làm tăng thêm nỗi xúc động của ông già. Chàng ngoảnh đầu, đưa tay lên lau mắt, rồi bằng một giọng hầu như vui vẻ chàng nói to:
— Xin cha đừng bao giờ nói đến một vấn đề buồn bã như vậy nữa; cái ý nghĩ về một sự cách biệt, dù có xa xôi chăng nữa, cũng làm cho con mềm yếu như đàn bà, mà sự mềm yếu thì chẳng thích hợp với một người đàn ông (chàng tưởng mình đã là đàn ông trưởng thành rồi). Chắc chắn một ngày nào đó con sẽ biết được con là ai, nhưng nếu con không biết điều đó thì cái sự không biết ấy cũng không bao giờ ngăn trở con ngủ ngon êm đềm và thức dậy vui vẻ. Đúng thế! Nếu con không biết được tên thực của con là gì, là quí tộc hay là bình dân, thì không phải con không biết rằng con muốn là ai… con muốn là người bắn hoẵng tài giỏi nhất trong khu rừng Sherwood này.
— Ngài đã là người đó rồi đấy, thưa ngài Robin. - Gilbert kiêu hãnh đáp; - mà ta không phải là thầy dạy con sao?
Ông già lại ngồi lên yên, nói tiếp:
— Nào, lên đường, Gip, con ngựa tơ ngoan ngoãn của ta, ta phải đến mau Mansfeldwoohaus rồi trở về, kẻo Maggie lại sẽ làm cái mặt dài thượt, dài hơn cả cái tên dài nhất này. Còn con thì hãy luyện tập cho thật giỏi; chẳng bao lâu đâu, tài bắn của con sẽ ngang với tài của Gilbert Head này trong những ngày huy hoàng nhất… Chào con.
Robin chọn những chiếc lá trên chòm cây lớn nhất, bắn rách nát ra; chơi đùa như thế trong một lát, đã chán, chàng nằm dài trên đám cỏ dưới bóng của khu rừng thưa, rồi ôn tóm tắt lại trong óc từng lời chàng vừa trao đổi với cha nuôi. Mù tịt về thế giới này. Robin chẳng thèm khát gì cả, ngoài cái hạnh phúc mà chàng được hưởng dưới mái nhà của người gác rừng, và cái niềm vui tuyệt đỉnh đối với chàng là được tự do săn bắn trong cảnh hiu quạnh nhiều thú săn của rừng Sherwood: được như vậy thì còn cần chi đến cái tương lai là quí tộc hay là tiện dân nữa?
Một tiếng sột soạt kéo dài trong lá cây và những tiếng răng rắc dồn dập trong bụi rậm gần đây chợt làm rộn cơn mơ màng của chàng cung thủ trẻ; chàng ngẩng đầu lên, và trông thấy một con hoẵng hoảng sợ xuyên qua rừng rậm, băng qua rừng thưa rồi mất hút ngay vào trong khoảng sâu thẳm của khu rừng.
Robin tức thì định giương cung đuổi theo con thú, nhưng do tình cờ hay do bản năng chàng xem xét chỗ xuất phát trước khi khai chiến, thì trông thấy cách đấy mấy thước có một người đang ngồi chồm hỗm sau một mô đất nhô cao bên đường; ẩn núp như vậy, người đó có thể trông thấy hết những gì xảy ra trên đường mà không ai thấy được mình; với con mắt coi chừng và mũi tên đặt sẵn trên dây cung, y chờ đợi.
Y ăn vận quần áo trông giống hệt một thợ săn thực thụ, biết từ lâu đường đi nước bước của con thú và đang thong thả lừa bắt. Thế nhưng nếu y quả thực là thợ săn, nhất là thợ săn hoẵng, thì y đã chẳng chần chừ gì mà không theo dõi vết chân con thú. Thế thì tại sao y lại phải mai phục như vậy? Có lẽ đây là một con sát nhân núp rình du khách chăng?
Robin dự cảm thấy một tội ác; hy vọng cản trở việc này, chàng nấp sau một bụi cây dẻ gai, chú ý dò xét cử động của kẻ lạ mặt. Tên này vẫn ngồi xổm sau mô đất, quay lưng lại phía Robin, do đó y ở giữa chàng và con đường.
Thình lình tên cướp hay người thợ săn nọ bắn một phát tên về phía đường, rồi chồm người lên như thể nhảy xổ về phía mục tiêu, nhưng y đứng sững lại, xẵng tiếng chửi thề, rồi lại tiếp tục núp đợi với một mũi tên đặt sẵn trên cung.
Phát tên này phóng ra, tiếp theo một tiếng của độc địa như phát tên trước.
— Y muốn hại ai thế kia chứ? - Robin tự hỏi. - Hay là y muốn bắn phớt thử một mũi cho một người bạn như là mũi tên sáng nay ta đã dành cho ông già Gilbert? Cái trò chơi này chẳng dễ dàng gì. Nhưng ta chẳng thấy gì ở phía y nhắm bắn cả; tuy nhiên đúng là y trông thấy một cái gì rồi, vì y đang chuẩn bị một mũi tên thứ ba.
Robin sắp sửa rời khỏi chỗ núp để nhận mặt kẻ xa lạ bắn vụng về kia, thì khi tình cờ vạch cành cây dẻ gai, chàng trông thấy, ở cuối lối nhỏ chỗ hợp với con đường Mansfeldwoohaus thành một khúc cong, một nhà quí tộc cùng một tiểu thư nhỏ tuổi đang đứng dừng lại, hình như có vẻ lo lắng, tự hỏi không biết nên quay cương trở lại hay là cứ liều nguy hiểm. Ngài thở phì phào; nhà quí tộc đưa ngắt nhìn khắp mọi phía, cố tìm ra kẻ địch để mà đương đầu, rồi đồng thời cố gắng trấn an cô bạn.
Bỗng nhiên cô thiếu nữ thốt ra một tiếng thét kinh hoàng rồi té xuống hầu như ngất đi: một mũi tên bay đến cắm lên đầu yên ngựa của cô.
Chẳng còn nghi ngờ gì nữa, kẻ mai phục kia đúng là một tên sát nhân hèn nhát.
Bừng bừng nổi giận, Robin chọn trong ống đựng tên rút ra một mũi tên bén nhọn, rồi gương cung, nhắm bắn. Bàn tay trái của tên sát nhân bị đóng chặt vào gỗ của cây cung, đang lại đe dọa nhà kỵ sĩ và cô bạn đồng hành.
Tên cướp gầm lên tức giận, đau đớn; y ngoảnh đầu lại định tìm xem từ đầu phát ra cuộc tấn công bất ngờ này, nhưng thân hình mảnh dẻ của chàng cung thủ trẻ tuổi thì ẩn sau thân cây dẻ gai, và màu sắc của áo choàng thì hòa lẫn với màu lá cây.
Lẽ ra Robin có thể giết chết tên cướp, nhưng chàng chỉ muốn trừng phạt khiến y hoảng sợ, nên chàng bắn thêm một mũi tên nữa hất tung mũ y ra ngoài hài chục bước.
Vừa choáng váng vừa sợ hãi, gã bị thương nhổm dậy, rồi đưa bàn tay lành nâng bàn tay đẫm máu, y la hét, dậm chân, xoay lộn một lát, đưa cặp mắt hung dữ ngó rừng cây xung quanh, sau đó bỏ chạy, thét lên:
— Có quỉ! Có quỉ!
Robin chào sự ra đi của tên cướp bằng một tiếng cười vui vẻ, chàng bắn thêm một phát tên nữa, thúc y chạy đi, bắt y phải còn lâu mới ngồi xuống nghỉ được.
Cơn nguy hiểm đã qua, Robin ra khỏi chỗ núp, bước tới uể oải dựa lưng vào gốc một cây sồi ở ven đường; chàng đứng như vậy, chuẩn bị chào mừng các khách du hành kia, nhưng họ chạy vội đến, vừa mới trông thấy chàng, thì cô tiểu thư thốt ra một tiếng kêu lớn, còn nhà kỵ sĩ cầm kiếm lăm lăm hướng phía chàng mà xông tới.
— Bớ! Ngài kỵ sĩ, - Robin hét to, - xin hãy kìm tay và nén giận. Những mũi tên bắn ngài không phải từ ống tên của tôi phát ra đâu.
— Mi đây rồi, đồ khốn kiếp! Mi đây rồi! - Nhà kỵ sĩ nổi giận bừng bừng, nhắc lại.
— Tôi không phải là kẻ ám sát đâu, mà trái lại, chính tôi đã cứu sống quí ngài.
— Thế còn tên sát nhân, nó ở đâu? Hãy nói ra, không thì ta đập bể sọ mi.
— Ngài nghe đây, rồi sẽ biết, - Robin lạnh lùng đáp. - Còn đập bể sọ tôi, thì đừng có hòng; thưa ngài, xin ngài biết cho rằng, mũi tên này đang chĩa vào ngài, nó sẽ xuyên thấu tim ngài trước khi thanh kiếm của ngài chạm vào da tôi. Ngài đã được báo trước rồi đó, xin hãy bình tĩnh mà nghe đây: tôi nói sự thực.
— Ta nghe đây, - nhà kỵ sĩ đáp hầu như bị lôi cuốn bởi vẻ ung dung của Robin.
— Vừa rồi tôi nằm yên lặng trên đám cỏ phía sau rặng cây sồi này, một con hoẵng chạy vụt qua, tôi định đuổi theo, nhưng đúng lúc theo dõi vết chân nó, tôi trông thấy một người đang bắn tên hướng về một cái đích mà thoạt tiên tôi không nhìn thấy. Thế rồi tôi quên cả con hoẵng; tôi ngồi coi chừng con người khả nghi kia, và tôi thấy ngay là y nhằm bắn cô tiểu thư xinh đẹp. Người ta nói tôi là cung thủ giỏi nhất khu rừng Sherwood; tôi muốn nhân dịp này để tự chứng tỏ với mình là người ta nói đúng. Với phát thứ nhất bắn ra, bàn tay và cây cung của tên cướp bị mũi tên của tôi đóng chặt vào nhau; phát thứ hai hất tung lũ của y, mà ta dễ dàng tìm lại được, cuối cùng bằng phát thứ ba tôi đã buộc tên cướp phải bỏ chạy, và bây giờ y vẫn còn chạy… Thế đấy.
Nhà kỵ sĩ vẫn luôn giơ cao thanh kiếm; ông hãy còn nghi ngờ.
Robin nói tiếp:
— Thưa ngài, xin hãy nhìn thẳng vào mặt tôi, ngài sẽ nhận ra rằng tôi không có dáng vẻ gì là đạo tặc cả.
— Phải, phải, cậu em ạ, tôi nhận ra rồi, cậu không có dáng vẻ của một tên đạo tặc, - cuối cùng sau khi đã ngắm kỹ Robin người khách lạ nói. Vầng trán tươi tắn, vẻ mặt thành thực, cặp mắt long lanh ánh lửa dũng cảm, đôi môi hé nở nụ cười tự hào chính đáng, tất cả nơi chàng thanh niên cao quí này đều khiến cho, bắt buộc người ta phải tin cậy.
Kỵ sĩ nói thêm:
— Xin cho biết cậu là ai, và hãy dẫn chúng tôi đến một chỗ nào mà ngựa chúng tôi có thể ăn cỏ và nghỉ ngơi được.
— Xin sẵn lòng; mời quí vị đi theo tôi.
— Nhưng trước hết xin hãy nhận cho túi tiền này, trong lúc chờ đợi Chúa ban thưởng cho cậu.
— Thưa ngài kỵ sĩ, xin hãy giữ lại số vàng này; vàng chẳng ích gì cho tôi cả, tôi không cần vàng. Tôi tên là Robin Hood, tôi ở với cha mẹ tôi cách đây hai dặm, ven khu rừng này. Xin hãy đi, quí vị sẽ thấy trong căn nhà bé nhỏ của chúng tôi một tấm lòng hiếu khách chân thành.