← Quay lại trang sách

Chương 5

Tiếp theo đêm dông tố đó là một tối êm đềm, yên lặng. Chàng tu sĩ và Lincoln đã từ rừng trở về để chôn xác tên cướp; Marianne và Marguerite chỉ nghe thấy tiếng cuộc chiến đấu như ở trong cơn mộng; Allan, Robin, Lincoln và hai nhà tu nghỉ lấy lại sức trong giấc ngủ say sưa; chỉ có Gilbert Head là còn thức.

Nghiêng mình xuống giường của Ritson, vẫn luôn bất tỉnh, ông lo lắng chờ đợi kẻ hấp hối mở mắt ra, và ông hoài nghi… ông không tin rằng cái gã có khuôn mặt tím bầm, tiều tuỵ, với những nét nhuốc nhơ vì thói xấu, cằn cỗi vì truỵ lạc hơn là do tuổi tác, đang nằm đây, lại là Ritson đẹp trai, vui tính ngày xưa, là em trai yêu quí của Marguerite, chồng chưa cưới của Annette khốn khổ kia.

Rồi Gilbert chắp tay lại, nói to: - Lạy Chúa, xin cho phép y đừng chết vội!

Chúa cho được thế; khi vừng đông chiếu sáng ngập phòng, Ritson, như thể vừa từ cõi chết tỉnh dây, rùng mình, thốt lên một tiếng kêu đầy hối hận, rồi cầm lấy tay Gilbert đưa lên môi, nói lắp bắp mấy tiếng.

Gilbert vội muốn được biết về cái chết của em gái là Annette và xuất xứ của Robin liền đáp:

— Hãy nói đi đã; ta sẽ tha thứ sau.

— Vậy thì tôi sẽ được ít khổ sở hơn mà chết.

Ritson sắp bắt đầu tiết lộ bí mật, thì mấy giọng nói vui vẻ vang lên từ phòng khách dưới nhà:

— Cha ơi, ngủ rồi sao? - Robin đứng dưới cầu thang hỏi vọng lên.

— Đã đến lúc lên đường đi Nottingham rồi, nếu chúng ta muốn trở về chiều nay, - Allan Clare nói thêm.

— Thưa quí ngài, - chàng tu sĩ nói to, - nếu quí ngài vui lòng, tôi sẽ xin được là bạn đồng hành, vì một sự việc tốt lành kêu tôi tới lâu đài Nottingham.

— Nào, cha ơi, xuống đi, cho quí khách được chào từ biệt.

Gilbert bước xuống, nhưng rất miễn cưỡng; ông sợ rằng kẻ hấp hối có thể tắt thở bất cứ lúc nào; ông thu xếp sao cho mau chóng lại trở lên được chỗ y và không còn bị quấy rầy trong cuộc chuyện trò trang nghiêm này, từ đó chắc chắn sẽ phát ra nhiều tiết lộ quan trọng.

Do đó ông hối thúc ngay Robin, Allan và chàng tu sĩ khởi hành; Marianne và Marguerite sẽ tiễn đưa họ một quãng đường để vui đùa dạo chơi buổi sáng, Lincoln thì được sai đi Mansfeldwoohaus vì một lý do nào đó; còn cha Eldred thì nhân cơ hội này đi thăm viếng trong làng, mọi người đều phải tề tựu đầy đủ vào lúc cuối ngày.

Gilbert ngồi xuống đầu giường của Ritson, nói:

— Bây giờ chỉ có mình tôi và cậu, cậu hãy nói đi, tôi nghe đây.

— Thưa anh, tôi sẽ không kể lại tất cả các tội ác về các hành động bạo tàn mà tôi đã phạm. Chuyện này sẽ quá dài dòng. Vả chăng kể lại tất cả các sự ấy, thì có ích gì? Anh chỉ muốn biết có hai việc này: một việc liên hệ với Annette và một việc dính líu với Robin, phải thế không?

— Đúng thế, nhưng trước hết hãy cho tôi biết về Robin, - Gilbert đáp, vì ông sợ rằng kẻ hấp hối không có thì giờ thú nhận về cả hai việc.

— Anh biết rằng, cách đây hai mươi ba năm tôi rời Mansfeldwoohaus để đi phục vụ cho ngài Philippe Fitzooth, nam tước Beasant; tước hiệu này là do vua Henry ban cho chủ tôi để thưởng công ông về những việc đã làm trong cuộc chiến tranh ở Pháp quốc. Philippe Fitzooth là con thứ của vị lão bá tước Huntingdon, khi tôi vào làm việc tại nhà này, bá tước mất đã lâu rồi, để lại tài sản và tước vị cho người con trai lớn và Robert Fitzooth.

“Một thời gian sau ngày Robert thừa hưởng gia tài, vợ ông chết vì sinh nở; ông ta dồn hết tình thương vào đứa con trai do vợ để lại; đó là một đứa bé yếu đuối, quặt quẹo, chỉ sống được là nhờ có sự chăm sóc thường xuyên, cẩn thận. Bá tước Robert, đã không khuây khỏa được về cái chết của vợ, lại thất vọng về tương lai của con, đắm chìm trong buồn khổ rồi chết; ông trao cho em trai là Philippe nhiệm vụ trông nom đứa con độc nhất còn sót lại của dòng dõi mình.

“Từ đấy nam tước Beasant, Philippe Fitzcoth, có một bổn phận khẩn thiết cần phải làm tròn. Nhưng tham vọng và lòng ham muốn đạt được những tước vị quí tộc mới, và thừa kế một tài sản lớn lao khiến ông ta quên lời dặn dò của anh; sau mấy ngày do dự, ông quyết định dứt bỏ đứa cháu; nhưng chẳng bao lâu ông phải từ bỏ dự định ấy, vì cậu bé Robert sống giữa đông đảo kẻ hầu người hạ, lính gác dân chúng trong lãnh địa lại rất trung thành với cậu ta, họ tất sẽ phản đối và ngay cả có thể nổi loạn nữa, nếu Philippe Fitzooth dám tước đoạt trắng trợn các quyền lợi của cậu.

“Do đó ông ta đành trì hoãn bằng cách lợi dụng thể chất yếu đuối của cậu bé; theo ý các thầy thuốc, cậu ta sẽ chết yểu nếu người ta làm cho cậu ham mê tửu sắc và ưa thích luyện tập gắt gao.

“Chính nhằm mục tiêu ấy mà Philippe Fitzooth nhận tôi vào phục dịch ông ta. Lúc bấy giờ cậu bá tước Robert đã mười sáu tuổi; theo sự tính toán đê hèn của ông chú ấy, tôi phải làm cho cậu ta mất mạng bằng tất cả các phương thế như xô té, tai nạn, bệnh hoạn; rốt cuộc là tôi phải thử làm đủ mọi cách để cho cậu ta chết cho thật mau, làm tất cả ngoại trừ việc ám sát.

“Anh Gilbert ơi, tôi hổ thẹn mà thú thực điều này. Tôi là người nhận ủy thác rất xứng đáng và nhiệt thành của nam tước Beasant, cái công tác làm hủ hóa chết người của tôi, ông ta không thể tự giám sát được, vì vua Henry đã phái ông sang chỉ huy một đoàn quân tại Pháp; cầu Chúa tha tội cho tôi! Đáng lẽ tôi phải nhân cơ hội ông ta vắng mặt mà làm thất bại cái âm mưu ghê gớm đó, thì trái lại, tôi đã cố sức để có được phần thưởng mà ông ta hứa cho khi tôi báo tin về cái chết của Robert.

“Nhưng Robert khi lớn lên lại trở nên rất khỏe mạnh. Sự mệt nhọc chẳng còn làm gì được cậu ta nữa; ngày cũng như đêm, trong bất cứ thời tiết nào, chúng tôi rong ruổi khắp đồng nội, núi rừng, trà đình, tửu quán và các nơi xấu xa, thế mà cậu ta chẳng làm sao hết, còn tôi thì lại thường thường là người trước tiên phải xin chào thua! Lòng tự ái của tôi bị xúc phạm về việc đó, thế nên nếu như bây giờ mà ngài nam tước viết cho tôi một chữ, một chữ thôi có thể hiểu theo hai cách về cái sức khỏe kỳ diệu, vô địch ấy, thì tôi chẳng do dự gì mà không dùng một thứ thuốc độc nào đó để hoàn thành công trình của tôi.

“Phần việc của tôi càng ngày càng nặng nề, khó nhọc hơn; tôi đã dùng hết tất cả các khả năng của trí tuệ mà không tìm ra được một phương thế tự nhiên nào khả dĩ lay động nổi cái sức mạnh phi thường của cậu học trò tôi; chính tôi thì lại kiệt sức, đang tính hủy bỏ giao ước với ngài nam tước Beasant, thì cuối cùng tôi hình như trông thấy có sự biến đổi trên vẻ mặt và trong dáng đi của cậu bá tước; những biến đổi ấy thoạt đầu hầu như không nhận thấy được, dần dần trở nên rất rõ, thực trọng yếu; cậu ta không còn hoạt bát, vui vẻ như trước nữa; cậu ngồi buồn bã, mơ mộng hàng giờ; cậu đứng dừng im lặng lúc bắt đầu thả chó săn, hoặc đi thơ thẩn một mình trong khi bầy chó đuổi theo con thú, cậu không còn ăn uống, ngủ nghê, cậu trốn tránh đàn bà con gái, và chỉ nói qua quít với tôi một hai lần trong ngày.

“Không trông đợi cậu ta chuyện trò tâm sự với mình, tôi muốn dò xét để kiếm ra nguyên nhân nào đã khiến cậu ta thay đổi nhiều như vậy, nhưng dò xét thực là khó, vì cậu ta luôn luôn viện cớ để xa lánh tôi.

“Một hôm trong lúc đi săn, chúng tôi theo dõi một con nai, đến ven khu rừng Huntingdon; tại đây cậu bá tước dừng lại, rồi sau một lát nghỉ chân, cậu ta bảo tôi mấy tiếng rất ngắn gọn:

— Robert, anh đợi tối cạnh gốc sôi này; mấy giờ nữa tôi sẽ trở lại.

— Thưa ngài, vâng, - tôi đáp.

Thế rồi cậu ta tiến vào khu rừng rậm. Ngay tức thì tôi buộc chó vào một gốc cây, rồi lao mình băng qua đám cây cối um tùm theo dõi dấu chân cậu ta; nhưng mặc dầu tôi rất lanh lẹn, cậu ta vẫn lần thoát; thế rồi tôi đi quanh quẩn một hồi lâu, lâu đến nỗi cuối cùng tôi lạc đường.

“Tôi nản lòng vì bỏ lỡ mất cơ hội vén lên tấm màn bí mật bao trùm Robert, đành kiếm lối trở lại gốc cây mà cậu ta đã bảo tôi ngồi đợi. Ngay lúc ấy tôi nghe thấy ở cách tôi nấy bước, phía sau bụi cây, một giọng nói êm dịu, một giọng thiếu nữ… Tôi dừng lại, khẽ vạch mấy cành cây ra, thì trông thấy cậu chủ tôi cùng một cô bé xinh đẹp trạc mười sáu, mười bảy tuổi, đang tay nắm tay nhau, vui cười trò chuyện.

“À! Thì ra là thế! - tôi nghĩ, đây là cái tin sốt dẻo mà ngài nam tước Beasant không hề trông đợi! Robert đang yêu điều này cắt nghĩa lý do tại sao cậu ta buồn bã, ăn không ngon, ngủ không yên và nhất là thường đi chơi dạo một mình.

“Tôi lắng tai nghe cặp tình nhân trò chuyện với nhau, hy vọng bắt chộp được một điều bí mật nào, nhưng tôi chẳng nghe thấy gì khác ngoài những lời nói thông thường trong trường hợp như vậy.

“Trời xế chiều; Robert đứng lên, cầm tay cô bé dẫn ra ven rừng, tại đây có một tên hầu với hai con ngựa đứng đợi; từ đằng xa tôi theo dõi họ từ giã nhau, rồi cậu chủ rảo bước trở lại chỗ đã để tôi lại.

“Tôi có đủ thì giờ tới đó trước cậu ta; khi cậu ta xuất hiện, tôi liền thả chó ra rồi ráng sức thổi kèn thực to.

“- Tại sao lại thổi to như vậy? - Cậu ta hỏi.

” - Thưa bá tước, mặt trời đã lặn rồi, tôi sợ cậu bị lạc trong rừng.

— “Tôi không bị lạc, - cậu lạnh lùng đáp. - Chúng ta trở về lâu đài thôi.

“Những cuộc gặp mặt của Robert với người yêu tiếp diễn một thời gian dài. Để cho được dễ dàng, Robert bèn ngỏ cho tôi biết chuyện kín đó, tôi chỉ thuật lại việc này cho nam tước Beasant sau khi đã tìm biết thực rõ về địa vị của cô gái kia. Cô Laura thuộc về một gia đình không cao sang bằng gia đình của cậu Robert trong hệ cấp quí tộc, nhưng cuộc kết hôn của hai người cũng kể là khá vinh dự.

“Ngài nam tước bảo tôi phải ngăn trở bằng bất cứ giá nào cuộc hôn nhân của Robert với Laura; thậm chí ông còn ra lệnh cho tôi phải thủ tiêu cô bé. Lệnh đó đối với tôi có vẻ quá tàn ác, nguy hiểm, và nhất là rất khó thi hành; tôi định không tuân theo, nhưng biết làm sao được, tôi đã bán cả xác lẫn hồn cho nam tước Beasant?

“Tôi không còn biết nên quyết định ra sao, cũng chẳng biết nên xin ý kiến quỉ thần nào, thì cậu Robert, cũng cả tin và không kín chuyện giống như mọi con người hạnh phúc, ngỏ cho tôi biết rằng, vì muốn nàng chỉ yêu mình và chính mình mà thôi, cậu đã giấu cô Laura về đẳng cấp của mình.

“Cô Laura tin Robert là con của một người sinh sống trong rừng, nhưng mặc dầu cậu xuất thân hạ tiện, cô vẫn ưng thuận kết hôn.

“Robert thuê một căn nhà nhỏ trong làng Loockeys, Nottinghamshire; cậu sẽ cùng với cô vợ trẻ đến ẩn náu tại đây, và để cho mọi người khởi nghi ngờ, khi rời khỏi lâu đài Huntingdon cậu thông báo sẽ đến ở mấy tháng tại Normandie với nam tước Beasant, chú cậu.

“Kế hoạch thành công tuyệt vời, một linh mục thầm kín kết hợp đôi trẻ yêu đương đó, tôi là người chứng duy nhất trong lễ thành hôn, sau đó chúng tôi đến ở trong ngôi nhà nhỏ tại Loockeys.

“Tại đây trôi qua nhiều ngày dài hạnh phúc, bất chấp các mệnh lệnh khẩn cấp của ngài nam tước, bắt tôi phải tường trình mọi việc xảy ra, và phẫn nộ đe dọa tôi vì tôi đã không cản trở cuộc kết hôn này… Bây giờ thì xin tạ ơn Chúa! Điều ấy sức tôi không làm nổi.

“Sau một năm tuyệt vời hạnh phúc không vấn mây đen, Laura sinh một đứa con trai, nhưng sự sinh nở này làm cô mất mạng.

— Thế đứa con đó có phải là…? - Gilbert lo lắng hỏi.

— Phải, chính là đứa bé mà chúng tôi đã gửi gắm anh mười lăm năm trước đây.

— Thế ra Robin phải được mang danh hiệu bá tước Huntingdon sao?

— Đúng thế, Robin là bá tước, Robin…

Ritson nhờ cảm kích vì ăn năn hối hận, nên đã nói được lâu như vậy, bây giờ hình như sắp thở hơi cuối cùng, lúc Gilbert ngắt lời.

Ông già Gilbert Head rất hãnh diện nhắc lại:

— A! Con nuôi của ta là bá tước, bá tước Huntingdon! Cậu ơi, hãy kể hết đi, kể hết cho tôi về lai lịch của Robin.

Ritson thu hết sức tàn, nói tiếp:

” - Robert đau đớn đến phát cuồng, không chịu để ai an ủi; cậu ngã lòng nản chí, rồi mắc bệnh trầm trọng.

“Nam tước Beasant, bất bình về sự canh chừng của tôi đối với Robert, báo cho tôi biết ông sắp trở về, tôi cho chôn cô bá tước Laura trong một nữ tu viện ở cạnh bên mà không tiết lộ cô là vợ của bá tước Robert; tôi tin rằng làm thế là theo đúng sở vọng của ngài nam tước; rồi tôi đem đứa bé đến nhờ một bà chủ trại quen biết nuôi giùm. Đến đây, nam tước Beasant trở về Anh quốc; ông ta thấy rằng không phủ nhận việc Robert đã qua Pháp thì có lợi cho các dự tính của mình, liền cho đem cậu ta vào lâu đài và báo tin là cậu ta đã bị nhuốm bệnh trong lúc du hành.

“Thời vận thực là may cho nam tước Beasant, ông đạt được mục tiêu mong muốn, ông thấy mình đã là người thừa kế tước vị và tài sản của bá tước Huntingdon: vì Robert sắp chết. Một thời gian trước khi thở hơi cuối cùng, chàng thanh niên bất hạnh này cho mời nam tước đến đầu giường, kể lại việc hôn nhân của mình với cô Laura, và yêu cầu ông lấy sách Phúc âm mà thề sẽ nuôi nấng đứa trẻ mồ côi kia. Ông chủ thề… nhưng xác của cậu Robert khốn khổ vẫn còn chưa lạnh thì nam tước đã gọi tôi vào phòng tang, và bây giờ đến lượt ông bảo tôi lấy sách Phúc âm mà thề: suốt đời không bao giờ được tiết lộ gì về cuộc hôn nhân của Robert, sự xuất sinh của đứa con và trường hợp cậu ta chết.

“Tôi rất thương tâm, tôi khóc cho kỷ niệm về cậu chủ tôi, hay đúng hơn về người học trò của tôi, người bạn đồng hành của tôi, là người rất hòa nhã, tử tế và cao quí đối với tôi và tất cả mọi người, thế nhưng phải tuân lệnh nam tước Beasant.

“Vì thế tôi đã thề, rồi chúng tôi đem đến cho anh đứa bé bị tước quyền thừa kế đó”.

— Thế còn nam tước Beasant, kẻ tiếm ngôi bá tước Huntingdon, bây giờ ông ta ở đâu? - Gilbert hỏi.

— Ông ta chết trong một vụ đắm tàu ở bờ biển nước Pháp, chính tôi đã đi cùng ông ta lúc đó, cũng như tôi đã đi cùng ông ta khi chúng tôi đến đây, chính tôi đã đem tin ông ta chết về Anh quốc.

- Vậy thì ai đã nối nghiệp ông ta?

— Tu viện trưởng giàu có Ranisay, tên là William Fitzooth.

— Sao thế! Một tên tu sĩ bóc lột Robin, con ta à?

— Đúng thế, tên tu sĩ đó mướn tôi vào phục dịch, và mới cách đây mấy ngày đã sa thải tôi một cách bất công, tiếp theo việc tôi cãi lộn với một tên bầu của y. Tôi bước ra khỏi nhà y, tức giận, thâm gan tím ruột, thề quyết phải báo thù… Và bây giờ mặc dầu cái chết khiến tôi không thể làm gì được nữa, tôi vẫn báo thù, bởi vì tôi quyết không nhận Gilbert Head nếu như ông ta để cho Robin còn bị chiếm đoạt gia tài lâu nữa.

— Không, Robin sẽ không mất gia tài lâu đâu, - Gilbert đáp; - tôi phải làm, kỳ chết mới chịu thôi. Robin có bà con nào bên đằng mẹ không? Robin được thừa nhận là bá tước Anh quốc, việc này có quan hệ lợi hại đối với họ.

— Ngài Guy ở Phủ đệ Gamwell là thân phụ của nữ bá tước Laura.

— Sao? Có phải chính là ngài Guy già ở Phủ đệ Gamwell phía bên kia rừng với sáu cậu con trai lực lưỡng, là thợ săn hùng dũng của rừng Sherwood không?

— Thưa anh, phải.

— Được rồi! Với sự giúp đỡ của ngài đó, ta có thể đủ mạnh để đuổi ra khỏi lâu đài Huntingdon cái ông tu sĩ kia, cho dù người ta có gọi ông ta là tu viện trưởng Ramsay giàu có, oai quyền, là nam tước Broughton.

— Anh ơi, thế là em chết, thù sẽ được trả, phải không? - Ritson hơi hé miệng hỏi.

— Ta xin lấy lời nói và cánh tay ra mà thề rằng, nếu Chúa cho ta được sống, thì Robin sẽ là bá tước Huntingdon, bất chấp tất cả bọn tu sĩ Anh quốc!… Thế nhưng số này khá đông.

— Cám ơn anh! Ít nhất thì tôi cũng sẽ sửa chữa được một vài lỗi lầm.

Thời gian hấp hối của Ritson kéo dài, thỉnh thoảng y lấy lại đôi chút sức lực để thú nhận thêm. Y vẫn còn chưa nói ra hết; phải chăng vì hổ thẹn, hoặc vì trí nhớ mờ tối đi do cái chết đến gần?

— À! - Y rên rỉ, rồi nói tiếp, - tôi quên mất một điều quan trọng… rất quan trọng…

— Hãy nói đi. - Gilbert vừa nâng đầu y lên vừa nói.

— Chàng kỵ sĩ và cô tiểu thư mà anh đã tiếp đón…

— Sao thế?

— Tôi đã muốn giết họ. Hôm qua… nam tước Fitz Alwine đã trả tiền cho tôi để làm việc này; vì sợ rằng lỡ ra tôi không gặp họ ông ta đã sai thêm mấy người đồng mưu với tôi, để theo dõi; bọn này vừa bị các anh đánh bại tối nay. Tôi không biết tại sao nam tước lại muốn giết hại người đó… nhưng xin anh hãy theo lời tôi, báo cho họ chớ có đến gần lâu đài Nottingham.

Gilbert run sợ nghĩ tới Allan và Robin đang đi Nottingham, nhưng đã quá trễ để báo cho họ biết nguy hiểm.

— Này Ritson, tôi quen một cha dòng Benedictins không xa đây mấy; cậu có muốn tôi đi kiếm ông ta để ông ta đem cậu trở về với Chúa không?

— Không, tôi bị đọa địa ngục rồi; vả chăng, ông ta không đến kịp nữa… tôi chết đây.

— Hãy can đảm lên, cậu ạ.

— Tôi chết đây, anh Gilbert, nếu anh tha thứ cho tôi, thì xin hãy hứa sẽ chôn tôi ở giữa cây sồi và cây dẻ gai phía dưới kia, chỗ ngã ba đường Mansfeldwoohaus; anh đào huyệt cho tôi giữa hai cây đó. Xin anh hãy hứa làm đúng như vậy?

— Tôi hứa.

— Cám ơn anh, anh Gilbert tốt bụng…

Rồi Ritson vặn vẹo tay tỏ ý thất vọng, nói tiếp:

— À! Anh không biết tất cả các tội ác của tôi đâu! Tôi phải thú nhận hết!… Nhưng nếu tôi thú nhận hết, thì liệu anh có còn hứa sẽ chôn tôi ở đó không?

— Tôi cũng hứa.

— Anh Gilbert Head, anh có một cô em gái! Anh còn nhớ không?

— Ôi! - Gilbert kêu lên, mặt tái nhợt, tay chắp lại run rẩy. - Tôi còn nhớ lắm chứ! Cậu có điều gì cho tôi được biết về cô em khốn khổ của tôi, nó bị lạc trong rừng, bị cướp bắt đi, hay bị chó sói ăn thịt; Annette, Annette xinh đẹp, dịu hiền của tôi.

Ritson rùng mình vì sắp chết; bằng một giọng gần như sắp tắt, y nói:

— Anh Gilbert, anh yêu chị Marguerite của tôi, còn tôi, tôi yêu em gái anh, tôi yêu cô ta say đắm, điên cuồng, mà anh chị tất cả đều chẳng ai hay biết tôi đã yêu cô ta như vậy. Một hôm tôi gặp cô ta ở rừng, và tôi đã quên rằng một người có danh dự thì phải tôn trọng cô gái mà mình muốn cưới làm vợ. Annette khinh bỉ đẩy tôi ra và thề rằng sẽ không bao giờ tha thứ cho tội lỗi của tôi. Tôi khẩn khoản xin cô ta tha lỗi, tôi quì gối xuống, tôi nói đến cái chết… Cô ta mủi lòng, thế rồi ở đây, dưới những cây mà tôi muốn được chôn, chúng tôi trao đổi lời thề thốt yêu đương… Mấy ngày sau đó, tôi đã lừa dối cô ta một cách hèn hạ, ghê tởm… Một tên bạn tôi, giả trang làm linh mục, thầm kín kết hôn cho chúng tôi.

— Mi phải chết! - Gilbert nổi giận, gầm lên, tay bám chặt vào thành giường để cưỡng lại ý muốn bóp nghẹt tên khốn nạn đó.

— Phải lắm, tôi thực đáng chết, và thần chết sắp đến thôi… Anh Gilbert, xin đừng giết tôi, tôi nói còn chưa hết… Thế rồi Annette tin tưởng đã là vợ tôi; cô ta quá trong sạch, quá ngây thơ, nên chẳng nghi ngờ gì về sự dối trá của tôi, cô ta tin các lý do tôi bịa đặt ra, nên không bắt tôi phải bày tỏ với gia đình cô về việc kết hôn này, tôi luôn luôn đẩy lùi cái lúc phải bộc lộ ấy, thì được biết cô ta sắp làm mẹ. Từ đây cô ta không thể sống dưới mái nhà của cha nữa. Thế rồi anh cưới chị tôi; đã tới lúc phải thú thực tất cả, cô ta khẩn khoản van xin tôi làm việc ấy; nhưng lúc đó tôi không còn yêu cô ta nữa, tôi mơ tưởng những phương tiện để rời bỏ xứ này mà không báo cho cô ta biết việc tôi ra đi. Một buổi chiều, Annette đợi tối dưới gốc cây sồi, nơi tôi đã thề yêu thương cô ta mãi mãi; tôi đến chỗ hẹn, trong đầu chứa đầy ý nghĩ độc ác, tôi lạnh lùng nghe những lời trách móc xen lẫn nước mắt và tiếng nức nở của cô ta. Chao ôi! Tôi đang đứng hững hờ, giả điếc như vậy, thì cô ta chợt như điên cuồng gục xuống dưới chân tôi, ôm chặt đầu gối tôi vào ngực, van xin tôi thà đâm cô một nhát dao còn hơn là dứt bỏ cô. Khi mấy tiếng “giết em đi!” vừa mới thoát ra khỏi môi cô ta thì ác quỉ, đúng rồi, ác quỉ thúc đẩy tôi cầm lấy con dao găm, và… tôi đâm xuống một lần, hai lần, ba lần… Lúc ấy chỉ có mình hai chúng tôi, đêm tối mò; tôi đứng đó im lặng, tôi không nhận ra tội ác của mình, tôi không còn nhớ là đã đâm, tôi không nghĩ đến gì cả, tôi tin rằng…; thình lình tôi cảm thấy nong nóng ở chân; đó là máu của Annette bắn tóe lên tôi!… Thế rồi tôi tỉnh cơn mê, tôi biết tội ác, tôi muốn chạy trốn, nhưng tay cô ta ghì chặt lấy chân tôi, và tôi nghe thấy giọng cô ta dịu dàng nói: “Anh Roland ơi, cám ơn anh!” Hỡi ôi! Chúa muốn trừng phạt tôi suốt đời, vì vào cái lúc tôi hiểu ra tầm mức của tội đại ác ấy, thì Chúa khước từ, không cho tôi sức mạnh để đâm vào xác của cô Annette khốn khổ kia.

— Đồ khốn kiếp! Đồ khốn kiếp! Mi đã giết em ta, - Gilbert đáp mỗi lần Ritson ngừng nói để lấy lại hơi. - Tên sát nhân thối tha kia, mi đã làm gì các em ta?

— Trong khi cô ta nói cảm ơn tôi, ánh trăng xuyên qua khe lá, chiếu lên khuôn mặt nhợt nhạt của cô, tôi đọc thấy trong mắt cô ý muốn tha tội cho tôi… Rồi cô ta chìa bàn tay về phía tôi và thốt ra tiếng thở dài cuối cùng, sau khi đã lẩm bẩm nói mấy tiếng này: “Cám ơn, Roland, cám ơn! Vì em thích được chết hơn là sống mà không có tình yêu của anh! Em mong rằng mọi người không bao giờ biết em như thế này cả, hãy vùi xác em dưới gốc cây này.” Tôi không biết tôi đã bàng hoàng rồi ngất đi trong bao lâu bên cạnh xác của Annette; tôi chỉ tỉnh lại hình như bị những chiếc răng nhọn cắn xé ra, tôi đã không lầm: một con chó sói ngửi thấy hơi máu, đã chạy xổ tới đây… Vì phải vật lộn với con thú đó, tôi bình tĩnh trở lại, tôi hiểu rằng nếu không vùi thật mau xác nạn nhân, tội ác mình sẽ bị khám phá; tôi liền đào một cái huyệt ở giữa cây sồi và cây dẻ gai mà tôi đã nói với anh rồi đặt Annette xuống đó; rồi tôi chạy trốn; lương tâm cắn rứt vì hối hận, tôi lang thang trong rừng cho đến lúc trời sáng… Thế rồi anh gặp tôi đang nằm sõng soài trên mặt đất, mình đây vết cắn và đẫm máu… Chó sói đã đuổi theo tôi, chúng sắp ăn sống nuốt tươi tôi, nếu không có anh thì tôi đã nhận sự trừng phạt về tội ác của mình rồi!… Ngay hôm sau, khi người ta lo lắng về việc Annette bị mất tích, tôi không hề có ý định thú tội, tôi lại còn giúp anh tìm kiếm cô ta; tôi để cho mọi người tin rằng cô ta bị một tên cướp nào đó bắt cóc hoặc là đã làm mồi cho thú dữ…

Gilbert không còn nghe Ritson nói nữa; ông đứng tựa vào thành cửa sổ mà khóc nức nở. Tên khốn kiếp kia kêu to: “Tôi chết! Tôi chết đây! Xin đừng quên cây sồi!” Nhưng vô hiệu; ông đứng nguyên chỗ đó rất lâu, im lặng, đắm chìm trong đau khổ; khi ông trở lại bên giường thì Ritson đã thở hơi cuối cùng.

Trong khi Roland Ritson hấp hối dai dẳng như vậy, ba người khách đi Nottingham là Allan, Robin và chàng tu sĩ háu ăn, có tấm lòng dũng cảm, tay chân cường tráng, đang đi mau qua khu rừng Sherwood bao la, bát ngát. Họ vui cười trò chuyện và ca hát, khi thì chàng tu sĩ to con kể lại một câu chuyện phiêu lưu khoái trá, khi thì giọng trong như bạc của Robin hát lên một bài tiểu thi, khi thì Allan lôi cuốn sự chú ý của các bạn đồng hành bằng những suy nghĩ đầy cơ trí của mình.

— Thưa ngài Allan, Robin thình lình nói, - mặt trời đã đứng bóng rồi, mà dạ dày tôi thì không còn nhớ gì đến bữa điểm tâm sáng nay nữa. Nếu ngài tin thế, thì chúng ta hãy tới bờ một con suối cách đây mấy bước; tôi có sẵn thức ăn trong bị đây, chúng ta sẽ vừa ăn vừa nghỉ chân.

— Cậu đề nghị như thế thật là chí phải, cậu ạ. - chàng tu sĩ đáp; - ta đồng ý với tất cả tấm lòng, ta muốn nói là với tất cả răng ta.

— Tôi không thấy chi trở ngại, cậu Robin, - Allan nói; - nhưng xin cho phép tôi lưu ý cậu là tôi muốn phải tới lâu đài Nottingham trước lúc mặt trời lặn; nếu đề nghị của cậu mà ngăn trở việc đó, thì tôi muốn cứ tiếp tục đi mà không ngừng nghỉ.

— Xin nghe ý ngài, - Robin đáp; - ngài đi đâu, chúng tôi đi đấy!

— Đến suối! Đến suối! - Chàng tu sĩ kêu lên; - chúng ta chỉ còn cách Nottingham có ba dặm, chúng ta có đến mười lần thời gian để tới đó trước lúc trời tối; không phải một giờ nghỉ chân và một bữa ăn ngon mà có thể ngăn trở chúng ta đến đó đâu.

Yên tâm vì lời nói của chàng tu sĩ, Allan bằng lòng nghỉ lại; họ đến ngồi dưới bóng một cây sồi lớn, ở cuối một thung lũng tuyệt đẹp, có một dòng suối nhỏ uốn lượn vòng vèo, nước suối trong vắt, lòng suối trải đá cuội trắng hồng, bờ suối đây cỏ đang trổ hoa.

— Phong cảnh đẹp đến mê hồn! - Allan kêu lên, mắt nhìn lượt khắp các vẻ đẹp của nơi hẻo lánh, nhỏ hẹp này; - nhưng, này cậu Robin, hình như chỗ thiên đường địa giới này thì xa nhà ở quá, nên cậu không thường đến đây nghỉ ngơi, phải không?

— Thưa ngài, đúng thế, chúng tôi rất ít khi đến đây, mỗi năm chỉ đến có một lần, mà chẳng phải là vào lúc tất cả đều xanh mướt, nở hoa, đẹp đẽ như hôm nay, mà là vào lúc mùa đông đã tàn phá hết thảy. Trận gió sầu thảm lắc lư những cành cây trụi lá và nặng trĩu giá sương; lúc ấy lòng chúng tôi tràn ngập u buồn, mà trời cũng phủ đầy mây xám, cảnh vật tiêu điều đồng tình với lòng chúng tôi sầu não.

— Tại sao lại sầu não như vậy, cậu Robin?

— Ngài có trông thấy cái cây sồi nhô cao giữa đám cây dã tường vi ở phía dưới kia không? Dưới cây sồi đó có một nấm mộ, mộ của anh trai cha tôi tên là Robin Hood - tôi mang tên ấy. Trước khi tôi sinh ít lâu: hai người đi săn trở về, thì bị một bọn cướp chặn đánh; họ tự vệ rất dũng cảm, nhưng, than ôi! Bác Robin tôi bị một mũi tên bắn trúng giữa ngực, gục xuống để không còn đứng lên nữa; ông Gilbert phục thù cho anh, rồi vì anh mà xây cất ngôi phần mộ tầm thường kia; hàng năm cứ vào ngày kỷ niệm tai biến này, chúng tôi lại tới đây để khóc và cầu nguyện.

— Trong vũ trụ này không có chốn nào, dù đẹp đến đâu, mà con người lại không xúc phạm, - chàng tu sĩ nói bằng giọng nghiêm trang.

Rồi, đổi giọng, chàng vui vẻ, bồn chồn nói tiếp:

— Bớ này! Cậu Robin, hãy để cho người chết của cậu được ngủ yên, mà nghĩ đến những kẻ sống đang đi cùng cậu; người chết thì không đói, còn cái đói đang trêu ghẹo chúng ta đây. Nào, mở bị ra; cậu vừa bảo với tôi là nó đựng cả kho tàng đồ ăn, thức uống.

Ba người ngồi trên đám cỏ bên bờ suối; nhờ có bà Marguerite lo liệu trước đây đủ, họ ăn uống hả hê thỏa thích; một cái bầu tơ đựng đầy thứ rượu vang Pháp lâu ngày, luôn luôn đưa lên đưa xuống từ tay lên môi, từ môi xuống tay; ai nấy đều vui vẻ hân hoan; thời gian để nghỉ chân kéo dài vô cùng tận mà họ không nhận thấy. Robin hát, hát mãi không thôi. Allan thì say sưa huênh hoang tả các vẻ đẹp và đức tốt của tiểu thư Christabel. Chàng tu sĩ thì leo lẻo nói quàng nói xiên, oang oang tuyên bố; “ta tên là Gilles Sherbowne, ta là con một nhà dân giả lương thiện, ta thích cuộc đời hoạt động, độc lập của người thợ săn hơn là đời sống trong viện tu, ta đã phải trả rất đắt cho cha bề trên nhà dòng để mua cái quyền được hành động tùy theo ý thích và được tự do sử dụng cây gậy”.

— Người ta đặt biệt hiệu cho ta là Sư huynh Tuck, vì cái tài đánh gậy của ta, và vì ta có thói quen vén áo lên đến tận đầu gối. Ta tốt với người tốt mà ác đối với kẻ hung ác; ta đưa tay ra giúp bạn bè nhưng đập một nhát gậy vào bọn thù nghịch; ai thích cười thì ta hát bài tiểu thi, ai thích rượu thì ta hát bài ca nhậu; ta cầu nguyện với người sùng tín, ta ngâm bài Dremus với bọn tin ngu; ta có các truyện vui để kể cho kẻ nào ghét những bài giảng đạo nhạt phèo. Đấy, sư huynh Tuck là thế đấy! Còn ngài, thưa ngài Allan, xin cho chúng tôi được biết ngài là ai?

— Xin sẵn lòng, nếu như thầy để cho tôi nói, - Allan đáp.

Lúc ấy Robin đang cầm trong tay cái bầu chưa phải hoàn toàn rỗng không, thầy Tuck giơ tay giật lấy.

— Chà! Hãy đợi lát nữa! - Chàng thanh niên kêu lên; - này thầy Tuck, tôi sẽ đưa cho thấy cái bầu này, nếu như thấy không ngắt lời ngài Allan Clare.

— Cứ đưa đây, ta sẽ không ngắt lời đâu.

— Để xem đã, khi ngài kỵ sĩ đã nói hết.

— Cậu ác quá, Robin ạ! Cái khát đang làm tôi nghẹt thở!

— Ừ! Thầy hãy quẳng cái khát đó xuống nước đi.

Chàng tu sĩ nhăn mặt tỏ ý tức giận, rồi nằm dài trên cỏ như thế nằm ngủ thay vì nghe Allan Clare kể lai lịch.

— Tôi là người gốc Saxons, - Allan nói; - cha tôi là bạn thân của ngài Thomas Becket, thủ tướng của vua Henry đệ nhị, tình bạn đó đem lại bất hạnh cho cha tôi, vì khi vị thủ tướng này chết thì cha tôi phải đi đày.

Robin sắp bắt chước chàng tu sĩ, vì chàng không lưu ý chút nào đến lời chàng kỵ sĩ kia long trọng tán dương về tổ tiên và gia đình, nhưng từ lúc nói đến tên của Marianne thì chàng không còn thờ ơ nữa, mà tim để trong tai, chàng lắng nghe… chàng nghe chăm chú đến nỗi không thấy Tuck ngồi nhổm dậy, và giật lấy bầu rượu ở tay mình. Mỗi khi Allan ngừng nói về cô nàng Marianne xinh đẹp thì Robin lại kiếm cách lái câu chuyện trở lại nàng; tuy nhiên chàng cũng phải để cho chàng kỵ sĩ nói về tình yêu của mình và mê mẩn tâm thần hướng về vẻ kiều diễm của tiểu thư Christabel, con gái của nam tước Nottingham. Allan chuếnh choáng vì rượu vang Pháp, liền thổ lộ nỗi lòng, nói tới nỗi hận của mình đối với nam tước.

— Khi ơn mưa móc của triều đình còn tưới xuống gia đình tôi, nam tước Nottingham rất niềm nở đối với tình yêu của chúng tôi, thường kêu tôi là con; nhưng khi thời vận xoay chiều, thì ông ta cấm cửa tôi và kiên quyết bảo rằng Christabel sẽ chẳng bao giờ thành vợ tôi cả; còn tôi, tôi cũng quyết tâm làm cho ông ta phải nhụt chí, và mình sẽ là chồng của con gái ông; từ đó tôi không ngừng phấn đấu để đạt mục tiêu, và tôi tin là đã thành công… Tối nay, phải tối nay, ông ta phải gả Christabel cho tôi, nếu không sẽ bị trừng trị vì thói hợm hĩnh phách lối. Do tình cờ, tôi khám phá một điều bí mật mà nếu tiết lộ ra thì ông ta tất sẽ bị phá sản và chết; tôi sẽ bảo thẳng vào mặt ông ta rằng: thưa ngài nam tước Nottingham, tôi đề nghị với ngài một cuộc trao đổi: sự im lặng của tôi đổi lấy con gái của ngài.

Allan có lẽ còn cứ tiếp tục kể lể dông dài như thế còn Robin thì trong óc còn bận so sánh Marianne với Christabel, cũng chẳng để ý ngắt lời; thế rồi chàng chợt trông thấy vầng ô đã xế ở phía chân trời.

— Lên đường thôi, - Allan nói.

— Lên đường thôi, thầy Tuck, - Robin nói tiếp.

Nhưng sư huynh Tuck còn đang nằm nghiêng say sưa ngủ, chiếc bầu rỗng đặt nằm trên chỗ trái tim.

Robin để mặc cho Allan đánh thức chàng tu sĩ, mà chạy đến quì gối trước mộ của anh ông Gilbert; chàng tin là sẽ phạm tội đại bất kính nếu rời nơi đây mà không làm tròn phận sự hiếu thảo này.

Sau khi cầu nguyện chàng đang làm dấu, thì bỗng nghe thấy những tiếng kêu thét chửi thề, cười cợt, chàng kỵ sĩ và chàng tu sĩ đang đánh lộn, hay đúng hơn thì chàng tu sĩ đang vung cây gậy khủng khiếp phía trên đầu Allan, còn Allan thì giơ thương cố chống đỡ lại; chàng kỵ sĩ cười ha hả đến vỡ họng ra, còn thấy tu dòng Bénédictins thì kêu la om sòm, thốt lên những tiếng trù rủa.

— Bớ này! Quí ngài ơi, con muỗi nào đốt thế?

— Tên kỵ sĩ kia, nếu thương của mi đâm khỏe, thì gây của ta đây đánh cũng mạnh, - chàng tu sĩ bừng bừng tức giận nói.

Allan vừa cười vừa giữ cho khỏi bị chàng tu sĩ đánh trúng; thế nhưng, khi trông thấy mấy giọt máu từ gấu áo chàng ta rơi đỏ trên đám cỏ xanh, thì chàng hiểu rằng sự phẫn nộ của đối phương là hợp lẽ, chàng liên tức khắc xin chịu thua. Chàng tu sĩ cũng ngừng vung gậy, và thậm càu nhàu tỏ vẻ đau đớn, chàng đưa tay lại phía sau nắm vào chỗ dưới áo, rồi trả lời chàng cung thủ trẻ hỏi về lý do cuộc đánh lộn:

— Lý do, lý do là thế này đây: phá rối lòng sùng kính của một người thánh thiện như ta đây bằng cách đâm một mũi thương vào cái chỗ thịt không xương, thế đúng là một sỉ nhục, một tội ác!

Allan vừa rồi đã dám chọc mũi thương lên hông sư huynh để đánh thức chàng ta dậy; chàng thực ra chỉ muốn vui đùa chớ không phải định đánh cho Tuck bị thương đổ máu, vì thế chàng theo đúng thể thức xin tạ lỗi sư huynh; thế rồi sau khi kết hòa xong, đoàn người lại lên đường đi đến Nottingham. Chưa đầy một giờ sau, họ đến làng, rồi bước lên ngọn đồi có tòa lâu đài phong kiến sừng sững nhô cao ở trên đỉnh.

Allan nói:

— Khi tôi yêu cầu được nói chuyện với nam tước, người ta sẽ mở cổng lâu đài cho tôi vào; nhưng các bạn thì sẽ nói lý do gì để đi theo tôi?

— Chàng tu sĩ đáp:

— Xin ngài chớ lo gì về việc đó. Trong lâu đài này có một cô gái mà ta là cha tinh thần, là người rửa tội; khi nào thích là cô ta ra lệnh nhấc cầu treo, chính nhờ uy thế đó mà ta có thể vào được lâu đài ban đêm cũng như ban ngày. Thưa ngài kỵ sĩ, xin hãy coi chừng; nếu đối với nam tước mà ngài cứ hành động thô lỗ như đối với ta, thì sẽ hỏng việc mất thôi; ông ta đúng là một con sư tử, ngài sắp vào đến tận hang nó; hãy bắt nó bằng cách nhẹ nhàng, nếu không thì sẽ bất hạnh cho ngài đó, ngài ạ.

— Tôi sẽ đồng thời vừa nhẹ nhàng vừa cương quyết.

— Cầu Chúa gợi ý cho ngài! À mà ta đến nơi rồi, lưu ý đấy!

Rồi bằng một giọng sang sảng, chàng tu sĩ hét to:

— Cầu tôn chủ của dòng tôi, thánh Benoit vĩ đại, ban nhiều phước lành cho ông và quí quyến, thưa ông Hubert Lindsay, vị gác cổng lâu đài Nottingham! Xin cho chúng tôi vào; tôi đi theo hai người bạn: một người muốn nói chuyện với ông chủ của ông về những việc rất hệ trọng; người kia thì cần được giải khát, nghỉ ngơi, còn tôi thì, nếu ông vẫn còn cho phép, tôi sẽ đem lại cho lệnh ái những lời khuyên tinh thần mà linh hồn cô ta cần có.

— Té ra là thầy đó ư, sư huynh Tuck vui tính, trung thực, viên trân châu của hàng tu sĩ ở tu viện Lincoln đó, phải không? - Từ bên trong có tiếng thân mật đáp lại. - Xin kính chào quí vị, chào thầy và các bạn của thầy, chào nhà quí tộc rất thân thương của tôi.

Ngay tức thì cầu treo hạ xuống, các du khách bước vào trong lâu đài.

Allan muốn được dẫn ngay vào gặp nam tước, Lindsay đáp:

— Nam tước đã lui vào phòng rồi; nếu những lời mà ngài định nói với Đức Ông mà không phải là lời hòa bình, thì tôi khuyên ngài nên hoãn hội kiến này đến ngày mai, vì tối nay ngài nam tước đang nổi cơn lôi đình.

— Nam tước bệnh à? - Chàng tu sĩ hỏi.

— Ngài bị bệnh thống phong ở một bên vai, đau đớn ghê gớm; nếu để ngồi một mình, thì ngài nghiến răng kêu cứu; nếu lại gần, thì ngài giận sôi đến trào bọt mép và dọa giết chết kẻ nào dám nói một tiếng an ủi. À, các bạn ạ, - Hubert buồn bã nói tiếp, - từ khi Đức Ông bị mấy nhát gươm cong đánh trúng đầu ở xứ Jerusalem, thì ngài mất hết cả kiên nhẫn và lương tri.

— Cơn giận của ông ta chẳng làm tôi lo ngại đâu, - Allan nói, - tôi muốn nói với ông ta ngay tức thì.

— Xin theo ý ngài. Bớ! Tristan, - viên gác cổng lớn tiếng gọi một tên đầy tớ đang đi qua sân, - hãy cho ta biết khí sắc của Đức Ông hôm nay ra sao.

— Thưa vẫn như vậy; ngài nạt nộ và gầm lên như cọp, vì cớ thầy thuốc đã gấp phải băng không đúng cách. Thưa quí ngài, xin hãy hình dung xem: nam tước đã đá cho tên thầy thuốc kia mấy cái rồi đuổi y ra, sau đó ngài cầm dao bắt tôi phải thế vào chỗ y, ngài thét lên bảo, tôi mà sơ suất thì ngài sẽ xẻo mũi ngay.

— Thưa ngài kỵ sĩ, - Hubert buồn rầu nói tiếp, - tôi van ngài, tối nay đừng có ra mắt Đức Ông, xin hãy đợi đã.

— Ta không đợi một phút nào, một giây nào, hãy dẫn ta tới phòng ông ta.

— Ngài bắt buộc thế nào?

— Ta bắt buộc thế.

— Thế thì xin cầu Chúa phù hộ cho ngài. - Hubert vừa nói vừa làm một dấu thánh giá lớn. - Này Trisan, hãy dẫn lối ngài.

Tristan xanh tái đi vì sợ hãi, tay chân run rẩy; y lấy làm mừng đã bình an vô sự thoát khỏi nanh vuốt của con vật hung dữ đó, và không tưởng là lại phải lâm vào cảnh ấy nữa; y dự liệu hợp lý là cơn giận của nam tước sẽ rơi xuống kẻ đưa khách cũng như là người khách tới thăm.

— Chắc hẳn Đức Ông đang đợi vị quí tộc này đến thăm? - Y bối rối hỏi.

— Không phải thế đâu.

— Thế thì xin cho phép tôi được vào bẩm trước với Đức Ông?

— Không được, ta muốn đi theo ngươi; hãy dẫn lối cho ta.

— Chao ôi! - Tên đầy tớ đau đớn kêu lên, - mình nguy mất!

Rồi y đi, Allan bước theo; trong lúc ấy lão gác cổng vừa cười vừa nói:

— Cái thằng Tristan khốn khổ này, y bước lên thang đến phòng của ngài nam tước cũng vui vẻ y như là bước lên đoạn đầu đài vậy. Lạy Chúa! Chắc là y phải sợ cuống cuồng. Nhưng tôi đã mất thời giờ ở đây, lẽ ra phải đi kiểm tra bọn lính canh đặt ở trên lũy. Này sư huynh Tuck, thầy sẽ kiếm thấy con gái tôi ở trong phòng sự vụ, xin hãy tới gặp nó; một giờ nữa tôi sẽ xin đến chỗ thầy.

— Xin đa tạ, - chàng tu sĩ nói.

Rồi có Robin đi theo, chàng bước vào một nơi chằng chịt những đường cầu, hành lang, bậc thang mà Robin sẽ phải lạc lối đến hàng ngàn lần. Ngược lại, sư huynh Tuck biết rất rõ nơi này: tu viện Linton đối với chàng cũng không quen thuộc hơn là lâu đài Nottingham, cho nên với vẻ thư thái và cương trực của một người tự mãn nguyện và hãnh diện về một số quyền dĩ nhiên có từ lâu, chàng gõ vào cửa phòng sự vụ.

— Xin cứ vào, - một giọng trẻ trung, tươi tắn nói.

Họ bước vào phòng. Trông thấy chàng tu sĩ to lớn, một cô gái xinh xắn trạc mười sáu, mười bảy tuổi, thay vì kinh ngạc, nhanh nhẹn chạy bổ ra đón tiếp họ bằng một nụ cười niềm nở, đỏm dáng.

“À, à ra thế, - Robin nghĩ, - vậy đây là cô nàng xám hối ngây thơ của anh chàng nhà tu rất thánh này. Thực đúng thế! Cái cô gái xinh xắn này với cặp mắt sáng ngời vui vẻ, với đôi môi đỏ thắm tươi cười đúng là một cô gái cơ đốc đẹp tuyệt trần”.

Robin không che giấu nổi cái ấn tượng do nhan sắc của cô gái khả ái gây ra nơi chàng, thế nên khi cô Maude chìa đôi bàn tay bé nhỏ ra chào chàng, thì Tuck, lúc này đúng là một người anh tốt, kêu lên:

— Cậu em ơi, chớ có hài lòng với bàn tay thôi, nhằm vào môi kia, cặp môi đỏ mọng tuyệt đẹp, hãy hôn lên chúng đi; đả đảo tính e thẹn nhút nhát! Nhút nhát là đức tính của kẻ ngu.

— Phỉ thui! - cô gái vừa đáp vừa lắc đầu với vẻ chế nhạo, - phỉ thui cha! Sao cha lại dám nói với em những điều như vậy, thưa cha.

— Thưa cha! Thưa cha! - Chàng tu sĩ trâng tráo nhắc lại.

Robin làm theo lời khuyên của chàng tu sĩ, bất chấp sự phản kháng yếu ớt của cô gái, sau đó Tuck ban cái hôn ân xá, rồi đến cái hôn giải hòa… cuối cùng, ta phải nhận thực là Maude đối xử với sư huynh Tuck như là một người tình hơn là một cha cố vấn tinh thần; ta cũng phải thừa nhận là cử chỉ của sư huynh cũng có chỗ hơi ít hợp với giáo luật.

Robin nhận thấy điều đó, thế nên trong khi họ thưởng thức các đồ ăn, thức uống mà Maude bày đây trên bàn, chàng bằng vẻ ngây thật nói bóng gió là chàng tu sĩ chẳng giống chút nào với một cha giải tội đáng sợ và khả kính cả.

— Một chút tình cảm, thân mật giữa họ hàng bà con thì có gì đáng trách đâu,- chàng tu sĩ nói.

— À! Té ra sư huynh và cô đây là bà con? Tôi không biết đấy.

— Là bà con rất gần, cậu ạ, rất gần và rất ít bị cấm chế, có nghĩa là ông của ta là con trai của một người cháu của người anh họ của bà dì của Maude.

— Chà! Đây đúng là một tình anh em họ được thiết lập toàn hảo.

Trong lúc hai người nói chuyện với nhau, Maude đỏ bừng mặt, có vẻ cầu xin Robin thương hại buông tha. Các chai cạn hết, căn phòng vang lên tiếng ly cốc chạm nhau, tiếng cười rộn rã và tiếng hôn trộm thì thầm ở Maude.

Đúng lúc buổi tối đang tưng bừng vui nhộn, thì cửa phòng chợt mở; một viên đội, với sáu tên lính đi kèm, hiện ra trên ngưỡng cửa.

Viên đội lịch sự chào cô gái, rồi đưa mắt nghiêm trang nhìn các thực khách, nói:

— Các anh có phải là người cùng đi với kẻ lạ đã đến yết kiến Đức Ông chúng tôi, ngài Fitz Alwine, nam tước Nottingham không?

— Phải, - Robin ung dung đáp.

— Thế thì sao? - Sư huynh Tuck táo tợn hỏi lại.

— Cả hai anh hãy đi theo tôi tới phòng Đức Ông.

— Để làm gì kia chứ? - Tuck lại hỏi.

— Tôi không biết; có lệnh đây, hãy tuân lệnh.

— Nhưng trước khi đi, chú hãy uống một hớp đi nào, - Maude vừa nói vừa đưa cho viên đội một ly đầy rượu mạnh; - uống tí chút, cũng chẳng hại gì.

— Xin vâng.

Sau khi đã uống cạn ly, viên đội lại nhắc với các thực khách của Maude lệnh phải đi theo mình.

Robin và Tuck đành tuân theo, miễn cưỡng để lại nàng Maude xinh đẹp một mình buồn bã trong phòng sự vụ.

Sau khi đi qua nhiều hành lang rộng và một gian phòng chứa vũ khí, viên đội tới trước một cái cửa lớn bằng gỗ sồi đóng chặt, rồi gõ mạnh vào đó ba nhát.

— Cứ vào, - mấy tiếng cộc cằn thét lên.

— Hãy theo sát tôi, - viên đội bảo Robin và Tuck.

— Vào đi, vào đi chứ, đồ du côn, trộm cướp, vô lại! Vào đi, - lão nam tước oang oang nhắc lại, - Vào đi, Simon.

Cuối cùng viên đội mở cửa ra.

— À! Mi đó à, thằng đểu kia! Mi đã mất thì giờ ở đâu từ lúc ta sai mi đi kiếm bọn chúng? - Lão nam tước vừa nói vừa đưa mắt dữ dội nhìn viên chỉ huy nhóm người này.

— Bẩm Đức Ông, tôi đã…

— Mi nói dối, đồ chó! Sao mi lại cả gan xin lỗi sau khi đã bắt ta phải đợi suốt ba tiếng đồng hồ?

— Ba tiếng sao? Thưa Đức Ông lầm rồi, ngài vừa mới ra lệnh cho tôi dẫn họ đến cách đây có ba phút thôi.

— Quân nô lệ láo xược! Mi dám cãi lại tao, lại cãi trước mặt tao nữa! - Lão nói tiếp với mấy tên lính đang ngẩn người vì kinh ngạc.

— Quân bay, không được vâng lời tên phản bội này; hãy tước khí giới, bắt lấy y, đem nhốt y vào phòng giam; nếu giữa đường mà y dám kháng cự, thì cứ ném y vào ngục tối, không được thương xót! Mau lên đi, hãy tuân lệnh!

Bọn lính đưa mắt khích lệ lẫn nhau, rồi đến gần viên chỉ huy để tước khí giới; viên đội, sợ hãi đến chết được, đứng yên lặng.

— Bọn khốn khiếp kia, - lão nam tước nói tiếp, - y chưa trả lời câu hỏi của ta mà bọn mi đã dám đụng tới y à?

Bọn lính lùi lại.

— Còn tên kia, ta đã tỏ ra có lòng tốt ngăn không cho mấy thằng thô lỗ này tước khí giới mi, vậy thì bây giờ mi có còn do dự không chịu trả lời cho ta được biết hai tên chó má kia có phải là đồng bọn của cái thằng vô đạo hỗn láo đã dám đến đây nhục mạ ta không?

— Thưa ngài, phải.

— Làm sao mi biết thế, thằng ngốc kia? Làm sao mi đã được biết? Làm sao mi quả quyết như vậy?

— Thưa ngài, họ đã thú thực với tôi.

— Thế ra mi đã dám tra hỏi chúng mà không có phép của ta à?

— Thưa ngài, họ đã nói với tôi như thế khi tôi ra lệnh cho họ đi theo tôi đến trước ngài.

— Họ đã nói với tôi, họ đã nói với tôi, - lão nam tước nhái giọng run run của viên đội nhắc lại; - được lắm! Thế ra bất cứ ai nói, mi cũng tin à?

— Thưa ngài, tôi tưởng là…

— Im miệng đi, đồ giảo hoạt! Thế đủ rồi; mi hãy ra khỏi đây.

Viên đội bảo lính quay bước.

— Hãy đợi đã!

Viên đội ra lệnh dừng lại.

— Không, hãy đi đi!

Viên đội lại ra hiệu bước đi.

— Bọn mi đi đâu vậy, đồ khốn nạn?

Viên đội lại một lần nữa ra lệnh dừng lại.

— Nhưng thôi, hãy ra đi, ta bảo mi thế, đồ chó chì, đồ sên ốc, đi ra!

Lần này thì toán lính đi ra được, họ trở về trại, trong lúc lão nam tước vẫn còn gầm thét.

Robin chăm chú theo dõi những giai đoạn khác nhau của cuộc nói chuyện lý thú giữa Fitz Alwine và viên đội; chàng lấy làm sửng sốt, rồi bằng cặp mắt ngạc nhiên hơn là khiếp sợ chàng ngắm tên lãnh chúa hung hăng, kỳ quặc của lâu đài Nottingham.

Khoảng năm mươi tuổi, thân hình tầm thước, mắt nhỏ và linh động, mũi khoằm như mỏ diều hâu, ria dài mày rậm, nét mặt cương nghị, mặt đỏ rần như xịt máu, dáng vẻ tàn nhẫn dị thường, đó là chân dung của lão nam tước. Lão ta mặc bộ giáp trụ gợn vẩy cá, một chiếc áo choàng rộng bằng vải trắng, nổi bật hình chữ thập đỏ của các dũng sĩ miền đất thánh. Trong cái bản tính rất dễ bắt lửa, như có chứa cường toan ấy, chỉ một chút trái ý thôi là cũng đủ gây nên những vụ bùng cháy khủng khiếp; một cái nhìn, một lời nói, một cử chỉ làm phật lòng lão là có thể biến lão ta thành kẻ thù chẳng đội trời chung, từ đó lão chỉ nghĩ đến báo thù, báo thù đến chết.

Cái cách tra hỏi mà hai bạn của chúng ta sắp phải chịu, báo hiệu tối đó sẽ nổi lên những trận bão táp mới.

— Bước lại đây, thằng sói con rừng Sherwood kia, cả mi cũng thế, tên thầy tu du đãng, loài chấy rận của tu viện kia, bước lại đây! Không được che đậy, trí trá, hãy cho ta biết vì sao bọn mi đã cả gan vào lâu đài của ta? Một đứa rời bụi rậm, một đứa bỏ lều bẩn, bọn mi có kế hoạch trộm cướp gì đây? Hãy nói đi, nói thực ra đi, nếu không ta biết có một cách thật là tuyệt diệu để móc lời từ họng của những đứa câm ra; lạy thánh Jean d’Acre! Cái cách ấy, ta sẽ dùng trên da thịt của những kẻ vô đạo như bọn mi.

Robin đưa mắt khinh bỉ nhìn lão nam tước, không thèm trả lời, chàng tu sĩ cũng im lặng như vậy, tay lật bật xiết lên cây gậy oai hùng - đây là cái cành cây dương đào cao quí mà các bạn đã biết, chàng ta luôn luôn chống lên trong khi đi cũng như trong lúc nghỉ, để tỏ ra vẻ khả kính.

— À! Các ngài không trả lời; các ngài hờn dỗi hả, thưa các ngài quí tộc, - lão bá tước kêu lên, - tôi không biết được vì lý do gì mà tôi có vinh dự được quý ngài đến thăm? Thưa quí ngài, các ngài có biết rằng các ngài thực rất xứng đôi với nhau không, một đứa con hoang lưu đày và một tên ăn này nhớp nhúa?

— Mi nói dối, nam tước ạ, - Robin cáp; - ta không phải là con hoang của một kẻ lưu đày, mà tu sĩ đây cũng không phải là một gã ăn mày nhớp nhúa; mi nói dối!

— Bọn nô lệ hèn hạ!

— Mi lại nói dối nữa; ta không phải là nô lệ của mi, cũng chẳng phải là nô lệ của ai cả và nếu tu sĩ này có giơ tay về phía mi, thì chẳng phải là để ăn xin đâu.

Tuck vuốt ve cây gậy.

— À! À! Đồ chó gỗ, nó lại dám coi khinh ta, nhục mạ ta! - Lão nam tước tức đến nghẹn thở, kêu lên. - Bay đâu! Vì nó có tai dài, hãy đóng tại nó lên cổng lâu đài, và đánh cho nó một trăm nhát roi.

Robin, mặt tái đi vì tức giận, nhưng luôn luôn bình tĩnh, vẫn đứng im lặng, nhìn trừng trừng lão Fitz Alwine khủng khiếp, còn tay thì rút một mũi tên trong ống ra. Lão nam tước rùng mình, nhưng không có vẻ gì là hiểu rõ ý định của chàng thanh niên. Sau một lát im lặng, lão ta nói tiếp bằng một giọng ít hùng hổ hơn:

— Tuổi trẻ khêu gợi lòng thương hại của ta, cho nên, dẫu rằng mi hỗn láo, ta cũng không muốn tống mi vào ngục ngay; nhưng mi phải trả lời những câu hỏi của ta, và khi trả lời như thế mi cần phải nhớ rằng, nếu ta để cho mi được sống, thì chính là do lòng nhân từ.

— Tôi chưa phải hoàn toàn thuộc quyền ngài như ngài tưởng đâu, thưa ngài, - Robin khinh bỉ, bình tĩnh đáp; - chứng cớ là tôi đâu có thèm trả lời các câu hỏi của ngài.

Nam tước quen được bọn tôi tớ và các kẻ yếu thế hơn mình tuyệt đối vâng lời, nên lão lấy làm kinh ngạc, miệng há hốc ra; thế rồi những ý nghĩ náo loạn xô chạm nhau trong óc lão ta, tạo thành những lời nói rời rạc và những tiếng chửi rủa. Lão cười ha hả, nói:

— À! À! À ra là thế! Mi không thuộc quyền ta à, tên gấu con mất dạy? à! Mi muốn im miệng hả, đồ khỉ lai, đồ con phù thuỷ? Nhưng chỉ với một cử chỉ, một cái nhìn, một dấu hiệu, là ta có thể xô mi xuống địa ngục. Hãy đợi đấy, đợi đấy, ta sẽ bóp nghẹt mi bằng chiếc thắt lưng này.

Robin vẫn thản nhiên, giương cung tên sẵn sàng bắn vào nam tước, thì lúc ấy Tuck xen vào, nói giọng dã lã:

— Tôi mong rằng Đức Ông sẽ không thực hiện lời hăm dọa đó?

Lời của chàng tu sĩ làm cho câu chuyện lảng ra; Fitz Alwine quay về phía chàng, giống như một con sói điên hướng về mồi mới.

— Hãy buộc cái lưỡi rắn độc của mi lại, tên thầy tu quỉ sứ kia! - Nam tước vừa hét lên vừa nhìn Tuck khắp từ trên đầu xuống đến gót chân; rồi muốn lộ rõ thêm cái nhìn khinh miệt đó, lão nói tiếp:

— Thực đúng là cái lũ phàm ăn, háu đói mà người ta gọi là bọn sư huynh ăn mày.

— Thưa Đức Ông, tôi không hoàn toàn đồng ý với ngài, - sư huynh Tuck bình tĩnh nói; - xin cho phép tôi được nói với tất cả sự kính cẩn dành cho một vị quí nhân rằng, cái cách nhìn của ngài hoàn toàn sai lầm, nó tỏ ra là ngài chẳng có chút lương tri nào cả. Chắc hẳn ngài đã vì một cơn thống phong dữ dội mà mất trí rồi; cũng có thể là ngài đã để nó ở dưới đáy cái chai rượu mạnh kia.

Robin cười phá lên.

Lão nam tước nổi xung vớ lấy một quyển sách lễ, quăng vào đầu chàng tu sĩ mạnh đến nỗi Tuck phải chuếnh choạng, choáng váng, nhưng chàng đứng lại được ngay, rồi, vì chàng không phải là kẻ nhận một món quà như vậy mà không tỏ ngay tức thì tấm lòng biết ơn, chàng liên vung cây gậy khủng khiếp lên, giáng một nhát thật nhanh xuống bả vai thống phong của Fitz- Alwine.

Đức Ông nhảy chồm lên, gầm gừ, la rống, giống hệt con bò mộng của rạp xiếc vừa mới bị vết thương đầu tiên, rồi giơ tay ra tháo lấy thanh kiếm thánh chiến treo trên tường, nhưng Tuck không cho lão ta có đủ thời giờ, chàng vừa giữ thế thủ, vừa đập một nhát gây dữ dội lên ngài lãnh chúa Nottingham tối cao, tối quí, tối oai này; lão ta, mặc dầu mang nặng giáp trụ và tàn phế về bệnh thống phong, vẫn ba chân bốn cẳng chạy quanh phòng, cố tránh thoát những nhát gậy khủng khiếp.

Lão nam tước ầm ĩ kêu cứu; phải nhiều phút sau thì viên đội, tên đã bắt Tuck và Robin, mới mở hé cửa, thò đầu vào, thản nhiên hỏi xem có cần đến y kh