← Quay lại trang sách

Chương 5 Chân dung một người nữ - Thảo mộc

Drit tưởng tượng ra các cô gái rừng, như vậy hẳn các cô phải tồn tại ở một nơi nào đó; chàng ta bèn đi tìm - lắm khi thậm chí cũng chẳng biết mình đi tìm, cuối cùng chàng tìm ra họ. Tìm ra ai? Người vợ lý tưởng chăng? Có vẻ không phải vậy; đấy không phải là giọng điệu của huyền thoại, vốn không bao giờ kết luận: “Họ sống cùng nhau hạnh phúc và có rất nhiều con.” Vậy thì, đi tìm ai? Phải chăng là đi tìm chính bản chất con người của mình, cội nguồn của mình và, nhất là một nữ tính mà chàng vẫn mang trong mình? Sau một hành trình dài đầy hiểm nguy, hay những thử thách ngặt nghèo, chàng lại thấy lại mình, ý thức tỉnh lại; nhưng chàng có biết được hơn chàng là ai không? Cuộc phiêu lưu lại tái diễn; mỗi lần như vậy, dường như nhân vật không hề còn nhớ chút gì về những điều đã xảy ra với mình trước đây... có chăng chỉ là trong trí nhớ của người kể chuyện, điều phối thật dễ dàng các yếu tố của nhiều “truyện kể” (truyện kể, hoặc là các mảnh truyện, do những người khác kể), trong cảnh này lại kéo theo một cảnh nọ, cứ như là chỉ một truyện kể duy nhất về Drit và một cô gái-rừng duy nhất. Và đấy mới là điều quan trọng, bởi vì huyền thoại chỉ tồn tại khi nó được kể ra và được một dân tộc sống động ghi nhớ. Một văn bản đơn lẻ chẳng nói được gì nhiều về dân tộc này, những lần kể lại và lặp lại làm nổi bật lên những gì bất biến. Cho nên tôi cũng muốn làm như người kể chuyện, tôi lặp lại... một cách khác.

Trong giấc mơ Drit nghe: “Đừng cấy lúa và trồng vườn nữa! Nếu trông thấy một con chó đen, thì hãy mua mà đi săn.” Cái năm ấy, Drit lại được mùa lúa còn tay lãnh chúa lại phải đi đào củ. Drit đổi tất cả lúa của chàng lấy một con chó con đen của con chó cái nhà lãnh chúa.

Drit cùng đi săn với con chó con của chàng; con chó đánh hơi bắt được nhiều con mồi đến nỗi Mẹ Rú chẳng biết làm gì cho hết. Sau bốn ngày nghỉ, Drit lại chuẩn bị ra đi; chàng giết gà và cột rượu cúng thần và cúng Trời. Vào rừng, con chó chẳng đánh hơi được con mồi nào cả, nhưng nó cứ nhằm chúi vào một bụi tre [jjörao, Lignania sp., một loại tre mảnh rất được chuộng] và chỉ ngừng sủa khi Drit quyết định chặt lấy một bó mang về nhà để đan lát. Drit đã quên bẵng bó tre ở nhà, chàng đi với Mẹ Rú. Trong khi chàng đi vắng, hai chị em Nứa từ trong bọng tre đi ra

vẻ rạng ngời làm bừng sáng cả rừng

chói chang đến làm héo tàn cả cây cỏ

rực rỡ như chưa bao giờ ai được thấy

ở vùng người Bih và người Bönong bên dòng sông Apa

hãy chiêm ngưỡng vầng trán xõa tóc dài

hàng răng ngọc dịu dàng

đôi môi như nhựa nóng

đôi bàn tay thanh tú

khuôn mặt ngọc ngà

ngời ngời như ngôi sao hôm

dáng đi uyển chuyển như cánh chim bay lượn

thướt tha qua lại làm ngây ngất cả khu rừng

“Nhanh lên chị ơi, nhanh lên em ơi, chị dệt một chiếc váy cho mẹ già, em dệt một chiếc khố cho chàng Drit!” Hai chị em bắt tay làm việc, họ dệt thật khéo; hoa văn tinh tế nhất hiện lên trên mặt vải. Rồi họ nấu cơm, làm rau, kho cá. Khi mọi việc đã xong, họ lấy bàn tay có đeo nhẫn in dấu lên tro bếp. Rồi họ chui vào thân tre, biến mất.

Drit và Mẹ Rú trở về nhà. Sau một hồi đắn đo - “Ai lại muốn gây chuyện với ta thế này nhỉ?”- Họ đói quá nên ngấu nghiến ăn chỗ cơm canh đã dọn sẵn; họ mắc nghẹn, phải uống nước cho trôi; chẳng mấy chốc đã ăn sạch.

Ngày hôm sau họ lại ra đi, sau khi đã tắt lửa, dọn sạch bếp và lật ngược cầu thang để không ai có thể leo lên nhà được. Nhưng khi trở về, lại thấy mọi thứ đúng như ngày hôm qua. Mẹ Rú bảo Drit ở nhà, trốn vào một chỗ kín để xem thử đầu đuôi thế nào. Drit thấy hai cô gái

vẻ rạng ngời làm bừng sáng cả rừng

...........................................................

Chàng sững sờ đến không động đậy gì được nữa. Ngày hôm sau nữa, Drit lại thấy hai cô, chàng nhảy ra; cô em biến vào thân tre. Drit vồ được cô chị. “Ơi anh Drit, anh làm gì thế? Anh có muốn em làm người nô lệ cho anh không? - Ta bắt lấy em để được sống cùng em!” Mẹ Rú về, Mẹ hôn rối rít cô nàng Nứa xinh đẹp.

Lãnh chúa nghe tin có một người đẹp tuyệt vời sống với thằng Drit khốn khổ; y phái bọn tay sai đến. Bọn này rất thô bạo: “Coi kìa, thằng Drit với mụ già, chúng nó quấn lấy nhau, đâm vào nhau!” Drit vung gươm, đuổi chúng đi. Bọn tay sai khác lại đến, lễ phép hơn. Drit phải đi theo chúng. Chàng đến nhà tên lãnh chúa, y muốn chiếm lấy vợ Drit [...] Tên lãnh chúa cho Drit uống rượu say, cột chàng vào một chiếc diều.. . [... Drit tìm được những vũ khí kỳ diệu (như ta đã thấy trong huyền thoại trước (Hj. 48)); chàng trở về nhà. Tên lãnh chúa lại gọi chàng đến, buộc chàng phải trải qua những thử thách trong rừng sâu. Drit vượt qua tất cả nhờ có cái gấu váy mà nàng đưa cho chàng. Cuối cùng, tên lãnh chúa bắt Drit phải đi tìm cho y hai người đẹp ở nơi tận cùng thế giới, y có được hai người đó thì Drit có thể cứ sống với nàng Nứa. Drit đi đến nơi ấy, đánh nhau với cha của hai cô gái nọ. Ông này chịu thua, cùng đi với Drit trở về, và giết chết tên lãnh chúa] (Hj. 117).

Tôi vừa tóm tắt một bản văn mà nếu kể nguyên hết ra sẽ dài hơn ba chương sách này. Dịch nguyên tất cả hẳn là sẽ thú vị hơn, nhưng ý định của tôi ở đây là muốn nghiên cứu, và đặc biệt hơn nữa, muốn vẽ một chân dung người nữ - thảo mộc - dù chân dung đã được phác ra một cách thật khó sánh bằng trong văn bản.

Tính song đối giữa huyền thoại này và huyền thoại đã kể trước đây (Hj. 48) thật rõ ràng. Con chó ở truyện này đóng vai trò của sợi chỉ gai trong truyện trước (cả hai đều được lấy từ nhà tên lãnh chúa), và đều được dùng để đi săn, săn cô gái-rừng, là cô Gà lôi mái hay cô Nứa. Hai chị em cô Nứa chỉ là một - là một bộ đôi - vọng lại kinh điển trong hệ huyền thoại này, vả chăng sau đó người ta không nói đến cô em đã biến mất nữa; cũng vậy, ta có thể nói tất cả các cô vợ của Drit chỉ là một (và có thể, cùng với chàng chỉ là một). Các thứ vũ khí kỳ diệu mà chúng ta đã thấy tung hoành trong truyện trước (Hj. 48) dường như đã bị quên (một trong những móc nối vô thức của các đề tài huyền thoại có thể xê dịch), chúng được thay thế bằng gấu váy của nàng Nứa, cứu Drit thoát mọi hiểm nguy - bao giờ đấy cũng là những hiển lộ của cô tiên. Trong một dị bản khác ( Hj. 99 ) do con trai người đã kể huyền thoại trước (Hj. 117) kể cho tôi nghe, các đồ vật kỳ diệu có nhiệm vụ giúp Drit trong cuộc chinh phục của chàng và giúp chàng vượt qua các thử thách được thay thế bằng các con vật bị sa bẫy (từ đó chàng không còn đi săn với một con chó nữa); những cư dân của núi rừng này, mà Drit lần lượt thả từng con, Cầy, Nhím, Beo, Hổ, Voi ma-mút, tỏ ra là những đồng minh sau khi một nàng tiên từ trong ngà Voi ma-mút đi ra như nàng Nứa đi ra từ thân tre, đã biến chúng thành gà trống, chó, trâu và voi để chiến đấu chống lại tên lãnh chúa. Các hệ biến hóa xuất hiện một cách hiển nhiên; bao giờ cũng là những quyền năng (những hiệu năng) của cô gái-rừng thống trị trong rừng đầy dã thú.

Cuối cùng tôi xin chỉ ra đây một chi tiết dân tộc học thích đáng và sắc sảo, sẽ giải thích một cảnh trong huyền thoại này (Hj. 117): trong một bữa ăn Giarai, khi người ta đòi uống nước, thì có nghĩa là bữa ăn đã kết thúc, người khách đã no; lúc đó người nữ chủ nhân sẽ mang ra một bầu nước và mời khách ngay (mặc xác cho những người phương Tây cứ nghĩ phải vừa ăn vừa uống, người Đông Dương không bao giờ làm như vậy); Drit và Mẹ Rú khốn khổ đã ăn tham quá! - Họ đói quá mà!

Tuy nhiên, người nữ-thảo mộc không giống hệt như cô gái- rừng hay người nữ-thú. Người nữ-thú khoác một cái lốt bề ngoài nào đó và biến đổi tùy thích để thử thách con người. Người nữ- thảo mộc có một mối quan hệ khác với “bản nguyên”. Tất cả họ đều đi lại dễ dàng tự do giữa rừng và làng, và luôn luôn cứu nguy cho con người, trong khi cô gái-làng thường trở về nhà mình. Nhưng người nữ-thảo mộc thì khác hẳn; nàng là - và cứ nguyên là - một nữ thần, điều đó khiến chúng ta đặt dấu hỏi phải chăng có một mối quan hệ ưu tiên giữa người đàn bà và thảo mộc trong nền văn hóa này và ở ngoài nữa.

Nàng Nứa ở trong thân tre cũng như các “Thần” yang dlei ở trong rừng; đấy còn hơn là môi trường của nàng, đấy là một phương diện trong “bản nguyên” của nàng. Trong một câu chuyện khác, chàng săn chim tên là Diung bắt được một con chim đẹp, và chàng đem lòng yêu nó; chàng làm cho nó một chiếc lồng bằng tre, nhưng con chim sẩy mất. Rồi Diung đi đánh nhau với những người khổng lồ, bắt được những người vợ của họ, đem nhốt trong những ống tre (Hj. 20). Chúng ta đã thấy nàng Thảo (Hj. 110) lấy sinh khí của những người dân làng đem nhốt trong một ống tre. Trong hai trường hợp này, cây tre (là ống rỗng hay được đan thành lồng) có cùng một chức năng, gắn với chim hay với sinh khí. Tôi đặt sự so sánh ấy để ghi nhận chỗ khác biệt: Nàng Nứa không bị nhốt trong thân tre, không ai đặt nàng vào trong ấy cả; nàng là nữ-tre. Do tính chất lưỡng ước của mình, nàng nối liền cô gái-rừng với bà già-rừng, thâu tóm lại trong mình cả cái thảo mộc lẫn chất người. Nhân vật nữ trong truyện kể Sre sau đây cũng vậy:

Đây là câu chuyện về nàng Chuối-Tiêu [prit pha, Musa paradisiaca var, sapientum, rất được ưa chuộng]. Nàng gặt lúa và Bloh giúp đỡ nàng. Sau khi đã ăn và uống, họ ngủ cùng nhau. Lúc trở về nhà, Bloh vốn rất nghèo, thấy thóc lúa đầy kho, lại có cả trâu nữa. Ông bác của Bloh hay được; ông bắt Bloh phải rời bỏ người con gái không quen biết nọ, hẳn cô ta sẽ gây cho họ những điều chẳng lành. Bloh xô nàng Chuối-Tiêu xuống nước cho nàng chết đuối. Nàng Chuối- Tiêu biến mất; nàng trở vào trong cây chuối của nàng, nơi nàng vẫn sống trước khi gặp người con trai. Bloh trở về nhà: chẳng còn gì nữa hết, lúa không, trâu cũng không!

Cha của Bloh đi đào củ trong rừng cùng với đứa con trai thứ là Blan. Gặp mưa bất ngờ, họ trú dưới một cây chuối. Họ nghe một giọng nói đàn bà: “Cẩn thận với đàn trâu của ta đấy! - Dẫu người là ai, xin cho chúng tôi trú, chúng tôi đói lắm!” Nàng Chuối-Tiêu nhỏ vào mắt họ một thứ nước; họ nhìn thấy lối vào, họ đi vào trong ngôi nhà-thân cây; họ nhận ra ở đấy tất cả các của cải đã từng ở nhà mình, đã bị mất do lỗi của người con trai lớn. Blan xin cô gái cưới chàng. Người cha trở về nhà một mình.

Người cha trở vào rừng, Bloh biến thành chó đi theo. Nàng Chuối-Tiêu đón tiếp ông, cho ông ăn, cho cả con chó ăn. “Đừng có cho nó ăn, nó là Bloh đấy!” Nàng lấy cần rượu đánh vào mắt con chó, con chó lăn ra chết. Nàng cắt nó ra thành từng miếng, gói lại bằng bảy lần lá chuối; nàng đem đun sôi lên. Bloh lại hiện ra từ đó, trở thành một chàng trai đẹp hơn trước. “Nàng đã lấy người em, bây giờ hãy lấy cả người anh!”. Họ sống cùng nhau. Họ chẳng cần làm việc gì cả mà vẫn có đủ mọi thứ (Hs. 19).

Đối với người Sre, Chuối-Tiêu là yang bri, Thần rừng. Nàng cũng là người nữ-thảo mộc; cũng như nàng Nứa, nàng mang tên cây thảo mộc mà nàng đảm nhiệm. Chàng Bloh nghèo khổ là bà con với chàng Drit Giarai. Người bác đã gây ra bất hạnh cho Bloh, có thể đặt song đôi với lãnh chúa mà ta vẫn thường gặp, nhất là khi ta chú ý đến điều này: nếu người bác (bên ngoại) của Bloh không cho chàng lấy người con gái lạ, ấy là vì ông ta định cưới Bloh cho con gái mình (đây là ẩn ý không thể nhầm trong một xã hội có những ưu tiên trong việc cưới xin); mặt khác, trong những bản văn Giarai mà tôi không dẫn ra đây, chính tên lãnh chúa đề nghị gả con gái của y cho Drit. Nhưng ta cần chú ý hơn cả đến nữ nhân vật.

Cảnh anh chàng khốn khổ bị đem nấu hoàn toàn giống với một thao tác kinh điển của Mẹ Rú, đặc biệt trong việc phục sinh những người anh hùng bị chết - cái chức năng chúng ta cũng đã thấy một cô gái-rừng thực thi (Hj. 95); và như vậy mối liên kết các tính cách nữ này trong hệ huyền thoại càng được nhấn mạnh. Một huyền thoại khác kết thúc bằng những cảnh “thiên đường” này: “Chiếc thuổng cứ tự nó đào đất... gùi và rổ thúng cứ mọc ra trên cành cây như những trái chín...”. Giàu sang mà chẳng phải lao động có thể là một mong ước phổ cập; nhưng trong huyền thoại Sre và bao nhiêu huyền thoại Giarai khác, giàu sang đến từ đâu? Từ một người đàn bà, không chỉ là người ngự trị trên thế giới rừng, mà còn là cội nguồn của mọi tài sản trồng cấy và văn hóa - trong đó quan trọng nhất, biểu hiện hoàn hảo nhất của sự giàu có - là thóc lúa.

Một cái cây chết có thể là một người đàn bà sống. Đấy là điều tôi đã được nghe từ miệng những cậu con trai kể chuyện nàng Hbia Tögok (tögok, cây chết nhưng vẫn còn đứng nguyên; töpong cũng còn có nghĩa là gốc cây, hay còn có hnua , cây đã đốn ngã, để nằm tại chỗ). Bản văn ngắn gọn, như một bản tóm tắt (nhưng liệu bạn và tôi, chúng ta sẽ làm gì khi phải kể chuyện Tấm Cám hay chuyện Con yêu râu xanh?); tuy nhiên, các cậu bé này không tự mình nghĩ ra chuyện và ta phải xem câu chuyện này là bằng chứng, quả là về một trường hợp cực đoan, của cái truyền thống người đàn bà-cây, ảo ảnh thường gặp, nếu không nói là một ý tưởng cố định.

Hôm ấy ba anh em nhà nọ cùng đi tắm. Người anh cả chỉ một khúc gỗ chết giữa dòng sông và bảo hãy nhằm vào đó mà ném đá: “Ai ném trúng thì sẽ lấy khúc gỗ đó làm vợ!”. Chỉ có cậu út ném trúng; hai người anh buộc em phải làm đúng như đã giao ước. Nàng Gốc (Hbia Tögok) đi theo cậu con trai, chàng rất thẹn khi về đến làng. “Ha ha, thiên hạ đều lấy người làm vợ, còn mày thì lại cưới một cái cây, một cái Gốc [tôi giữ đúng chữ viết hoa như trong bản ghi lại]!”

Vậy là cậu con trai và Gốc trở thành vợ chồng. Một hôm họ đi tắm; nàng ở trên dòng, chàng ở dưới dòng. Khi lặn xuống, nàng chui ra khỏi cái lốt mà nàng cứ để trôi nổi theo dòng nước. “Em đây này!”, nàng gọi to. “Thôi đừng có ghẹo tôi! Vợ tôi là cái gốc kia!” Chàng bơi theo để chụp lấy cái gốc, bị nó đâm xuyên qua người. Nàng dìu chàng đã chết vào bờ; nàng làm cho chàng sống lại. Nàng muốn trở vào trong cái gốc; chàng không cho; nàng ném cái gốc xuống sông.

Họ trở về làng. Nàng đẹp, rỡ ràng như ánh trăng. Mọi người đều đổ ra nhìn họ đi qua. “Thế cậu đã bỏ cái gốc của cậu rồi à? - Không, tôi có bỏ đâu!” Họ kể lại mọi chuyện (Hj. 35).

Tôi dịch bản văn này để ta có đôi ý niệm về sự mở rộng của đề tài và để thấy những hình thức tưởng tượng của người Giarai có thể phong phú đến đâu. Trong một phương hướng khác hơn đôi chút, tôi muốn nói đến, như là một hằng số trong hệ huyền thoại này, sự tương cận giữa người đàn bà và trái cây (hay cây có trái), đặc biệt là trái cam.

[...] Chàng Thân mất vợ, chàng khóc, nước mắt chan hòa. Chàng chôn cất vợ, trồng nhiều cây cam trên mộ vợ. Cây ra nhiều quả, khắp nơi người ta đến mua. Mẹ Rú cũng đến mua cam cho cháu là Drit đang bị sốt và thèm cam. Bà mang theo con dao để đổi lấy cam. Bà tìm mãi trên các cành cây, người ta đã hái sạch; chỉ còn sót lại một quả chín to lấp sau đám lá. Mẹ Rú hái lấy, bỏ vào chiếc gùi nhỏ của mình, lấy lá phủ lên. Thân hỏi bà có tìm được cam không. “Chẳng thấy gì cả!” Về nhà, bà đặt trái cam ở phía trái của ngôi nhà [tức chỗ được coi là cao quý, chứ không phải ở phía tây là nơi thường xếp các loại quả và rau]. Bà nấu cơm và cùng ăn với cháu. “Bà ơi, cho con ăn với! - Drit, con muốn ăn thì cứ ăn đi, sao lại còn xin? - Nào con có nói gì đâu!” Bà cháu cùng ăn nhóp nhép. “Cho tôi ăn với, ơ Drit! - Bà muốn ăn thì cứ ăn đi, sao lại còn xin? - Nào Drit, bà có nói gì đâu. Ôi, nếu có một con người ở đây, thì hãy hiện ra! Nếu là ma, thì hãy ở yên!”. Nàng Thảo từ trong trái cam bước ra. Mẹ Rú và Drit rất hạnh phúc giữ nàng sống cùng họ... [Drit đem trồng các hạt cam - các cây cam mọc lên - một con voi ma-mút đến ăn mất - Drit bắt con voi ma-mút - voi ma-mút phá nát ruộng nương của lãnh chúa - lãnh chúa hứa gả con gái cho người nào trị được voi ma-mút - chỉ có Drit thành công] (Hj. 8).

Một cô gái đi hái rau để nấu, ở một nơi xa làng. Cô thấy những quả cam chín tuyệt đẹp, từ cây rụng xuống; cô nhặt lấy và ăn. Về nhà, cô thấy thèm ăn các thứ như một người có thai. “Con đã ngủ với ai? - Con thề là con không hề biết một người đàn ông nào hết!” Vậy mà cô có thai thật. Mẹ cô mắng, cha cô đánh. Cô sinh ra một cậu con trai; người ta gọi tên nó là Cam. Nó khóc suốt ba lần bảy ngày; rồi nó nín bặt, đưa ngón tay chỉ ra hướng sông. Bị cha mẹ đuổi, cô gái bế con ra đi cùng với một con chó, theo hướng đứa bé đã chỉ. Cô đi đến chỗ cô đã nhặt cam trước đây. Ở đấy có một con sông, phải qua sông, bên kia sông có một lối mòn. Lối mòn dẫn đến chòi của Srai-anh-chàng-bị-bệnh-phong. Đứa bé không khóc nữa. Người đàn ông ôm siết lấy đứa bé, vuốt ve nó bằng hai bàn tay cụt của anh. Cô gái kể lại sự việc, và anh ta nói: “Cô đã ăn những quả cam của ta đấy!”

Đứa bé lớn lên... [Srai nhận thấy có ai đã ăn cắp trứng gà của anh, món của cải duy nhất anh có được, vì với hai bàn tay cụt hết ngón anh không thể trồng trọt trên đất đai của mình dù người thiếu phụ đã giúp anh. Cậu bé chộp được kẻ ăn trộm; đó là tên chúa của bọn khỉ, nó chuộc tội bằng một lá bùa (hạt dây leo lany, Entada scandens, Légumineuses ), nhờ có lá bùa đó nhà trở nên giàu có và Srai lành bệnh. Cậu bé dùng một cây gậy cắm xuống sông, chặn đứng dòng sông lại; tất cả nước sông chảy hết vào cái lỗ cậu ta đã chọc; bọn người ở phía dưới chỉ còn những cái ao hôi thối. Người mẹ của cậu Cam thương hại cha mẹ mình, cô gửi con chó đeo một bầu nước mát về cho họ. Bà mẹ già uống nước ấy rồi đi theo con chó khi nó trở về chỗ cô; bà đến chỗ con gái, mãi mới nhận ra được cô: bây giờ cô đã lớn, đã búi tóc, ăn mặc đường hoàng. Họ hòa giải với nhau] (Hs. 64).

Từ một quả cam bước ra một người con gái Giarai, một quả cam làm cho một cô gái Sre có thai - ta nhận ra ở đây cái chủ đề người con gái chửa “hoang”, nó cho ta giả thiết về một mối quan hệ, nếu không phải là loạn luân, thì ít ra cũng là “có tội” đối với xã hội đức độ (cũng như bệnh phong, không phải là một căn bệnh, mà là kết quả một sự trừng phạt của các yang ). Quả cam bào tử sinh sản vượt ra ngoài bán đảo Đông Dương; nó xuất hiện ở vùng người Ami tại Đài Loan (cũng là ở trong cái thế giới Đông Nam Á này): Hai anh em tìm thấy nhiều trái cam; người anh lớn giành lấy quả đẹp nhất trong đó lại có một bà già, anh phải cưới bà ta; người em chỉ được một quả cam xanh, bóc ra chàng tìm thấy một cô gái trẻ đẹp, chàng cưới cô.

Việc ăn quả mà có thai và quan hệ loạn luân gắn liền với nhau rõ ràng trong truyện Sre sau đây:

Cô con gái của Chöduön chết; cha cô chôn cô; trên mộ mọc lên một cây xoài thật đẹp.

Một đôi vợ chồng già dừng chân dưới một gốc xoài [chính cái cây ấy, đương nhiên] - bà cụ bảo chồng trèo lên cây hái xoài cho mình, bà vừa cầm quả xoài thì nó tuột luôn vào mồm - Vừa về đến nhà, bà cụ sinh ra đứa con gái; bà gọi nó là Quả-Xoài - Chöduön đi qua đó, xin ở nhờ nhà hai cụ; ông không nhận ra Quả-Xoài chính là con gái mình; ông ăn cơm với cô, nhai trầu cùng cô, rồi ngủ với cô; ông ta ở hẳn luôn đấy - Nhưng ở làng, vợ Chöduön vì chồng vắng nhà lâu, bà đi tìm - Vợ Chöduön đến nhà hai cụ già, bà gặp Quả-Xoài, thấy cô thật đẹp, đem cô về nhà mình, Chöduön rất lấy làm thích - Nhận ra Quả-Xoài là ai, bà điên lên, giết chết cô và ném xác cô xuống biển - Bà cụ già đi qua đó, thấy tóc con gái mình bập bềnh trên mặt nước; bà cầu xin nước đưa xác cô vào bờ; bà làm cho Quả-Xoài sống lại...

Chán ngán vì những rắc rối do cô gây ra và những cuộc đánh nhau tiếp sau đó, Quả-Xoài, mà bao nhiêu người theo đuổi vì sắc đẹp của cô, quyết định trở lên trời; cô bay thẳng về trên ấy - Chöduön làm một cái thang để lên gặp cô - Lên đến trên ấy, ông không nhìn thấy “vợ” mình; cô rót một thứ nước vào mắt ông, thế là ông nhìn thấy đường; ông đến được ngôi nhà của người bác cô Quả-Xoài - ở đấy ông tranh chấp với hai đứa con trai của người bác; ông giành được phần thắng - Người bác mở một ché rượu hòa giải cho Chöduön và Quả-Xoài (Hs. 16).

Qua nhiều tình huống khác nhau, các tính cách chính lại gặp nhau; Bà cụ già toàn năng (bà chỉ huy ở biển, bà làm cho người ta sống lại), người con gái đến từ ngoài kia, thậm chí từ thế giới bên kia, để trở về trên Trời (Hs. 13) nơi gia đình (bên mẹ) cô đang sống - một gia đình kỳ lạ: một người mẹ tình địch, một người cha-là chồng, những người anh em họ coi là của ông bác trên trời. Cô gái-xoài là một cô gái nhà trời; cô có thể không biết gì các chuẩn mực thông thường của con người; cái điều mà ta gọi là loạn luân không hề khiến cô bối rối.

Theo một huyền thoại của người Santal ở Ấn Độ, cô em gái của sáu chàng trai trở thành măng tre; người ta lấy một khúc tre đó làm ống sáo; một người con gái từ ống sáo đi ra. Tôi vận đến bản văn này chỉ là để minh họa - một lần nữa và vẫn là ở Nam Á - chủ đề về người nữ-thảo mộc và nhấn mạnh tiến trình ở đây: chu trình Á Đông đàn bà/ thảo mộc/ đàn bà trái ngược với hệ huyền thoại phương Tây, từ người Hy Lạp - La Mã cho đến người Balto - Slaves, ở đó người đàn bà kết thúc trong một cây thảo mộc, khi họ không hóa thân thành thú, nhưng bao giờ cũng là không thể đảo ngược lại được.

Dù ý định của tôi không phải là làm chuyện so sánh, tôi cũng xin nhân thể đây nói về vai trò của cây trong hệ huyền thoại châu Phi Sahara (trường hợp cưới một cái cây trở thành đàn bà) và nhất là về cây baobab kỳ lạ mà tất cả các bộ phận đều ích dụng - ngay cả những khoảng trống của nó. Cây baobab, hình ảnh của phong nhiêu, mang tính mẹ, chữa trị và khai tâm; trong một chừng mực nào đó, đấy là cây tri thức. Ta cũng sẽ tìm thấy những đức tính ấy trong Bà già-rừng gắn với cây đa, là loài cây tương đồng với cây baobab châu Phi, tương đồng văn hóa chứ không phải về mặt thực vật.

Người đàn bà-thảo mộc, phải chăng là một thừa từ?

Ở Đông Nam Á, cây lúa thuộc giống cái. Đó là Mẹ Lúa, người nuôi sống toàn nhân loại. Người đàn bà-thảo mộc đặc hiệu chính là cây lúa. Oriza sativa là loại cây duy nhất khi làm đòng thì các dân tộc Đông Dương gọi là nó “có chửa” (tiếng Sre là bun , tiếng Giarai là mtian , tiếng Việt là chửa ), cách nói chỉ dùng cho động vật có vú, trong đó có người đàn bà; nó là loại cây duy nhất có “hồn” [ soan hay böngat ], cái hồn mà ta phải cẩn thận không được xúc phạm, phải được gìn giữ một cách kính cẩn trên ruộng nương và trong kho, để cho lương thực được dồi dào và các vụ sau được mùa - từ đó mà có bao nhiêu điều kiêng cữ để tránh làm phật lòng cây lúa và bao nhiêu lời cầu khấn để giữ lúa lại với người. Không được nấu gạo chung với những thứ khác (trong cùng một nồi, ngay cả chung với muối cũng không được), không được trộn chung (trong một cái bát) với một thứ thức ăn khác! Tự nó thôi đã đủ rồi. Lúa là đàn bà, lúa là sự sống. Chỉ đàn bà mới biết cách chăm lo cho nó, từ trên ruộng rẫy đến trong bếp núc nấu nướng. Bên cạnh người đàn bà-bản nguyên, người đàn ông-lời nói chỉ có được mỗi việc khẩn cầu:

Hỡi lúa của người ở ven biển

lúa của người trên sườn núi dốc đứng

lúa trên cao, lúa của Mặt Trời

hạt nhiều hằng hà sa số

chán kẻ khác, xin hãy đến với ta

cho bữa ăn chớ bao giờ hụt hẫng

cho ghè rượu chẳng bao giờ vơi...

Lời cầu khấn này là của người Sre, và chẳng phải ngẫu nhiên đâu: sre có nghĩa là ruộng, và người Sre là những người làm ruộng chân chính, trong khi người Giarai, giống như người anh hùng Drit của họ, thiên về săn bắn hơn... song may thay họ cũng có những người đàn bà để mà làm ruộng, nghĩa là để làm mọi việc, và cả rượu cần nữa mà rồi ta sẽ còn phải nói đến.

Các vị thần yang không có tên riêng, chỉ có đúng mỗi một tính từ, như các vị yang dlei (“thần rừng” hay “hoang thần”) mang nữ tính nhiều hơn, nhất là khi do một người đàn ông nói. Ngoại lệ là trường hợp đối với thần của cây lúa, yang Hri hay Sri , tùy theo ngôn ngữ (Seri trong tiếng Mã Lai - Indonesia), và lại mang giống cái - được gọi là Cérès trong văn hóa Ấn - Âu; đấy là loài cốc thiêng liêng. Những loài cốc được trồng này có khiến chúng ta tách xa rừng, xa “tự nhiên” hoang dã? Không đâu, nếu ta biết rằng cây lúa là một loại thảo mộc bản địa của Đông Nam Á, ở đây vẫn còn một giống lúa tự nhiên, Oriza spontanea , và rất có thể chính người đàn bà đã thuần hóa nó - loài thảo mộc của sự sống, đấy thực là công việc của nàng.

Nhiều người đàn bà, khi thấy mình có thai, đã nói: “Tôi cảm thấy mình là cây.” Mong cho đứa trẻ tìm thấy cội rễ của mình nơi đó!

Persephone mơ thấy những chiếc lá xanh mọc ra từ hai bàn chân và từ vai nàng, nàng thì đang đứng trần truồng giữa một đám những cây phong bạc, cũng giống như nàng là những cô gái trần truồng với những chiếc lá xanh mọc ra trên đầu...

J. Cowper Powys , Một thiên anh hùng ca Glastonbury 1 .

1 Trong nguyên bản, câu trích dẫn này được viết bằng tiếng Anh - ND.