← Quay lại trang sách

Chương 18 Một cô cháu gái kỳ ảo

Lời tự thú của một người Giarai cô đơn. Ông bạn Löng của tôi, thuở ấy khoảng bốn mươi tuổi, cũng như tôi hồi bấy giờ, kể lại những gì đã xảy ra với ông cùng cô bé Htot, cháu gái của ông (con gái người chị gái của ông và đúng là ông đã rất yêu), bấy giờ cô ta mười ba tuổi còn ông thì khoảng mười bốn. Về sau, Htot đã cưới một người chắt của ông nội Löng. Về phần mình, Löng đã cưới Hdit, thuộc dòng dõi quý tộc Röchom ở Cheoreo và đã sinh ra một con gái là Hju’, khiến ông có tên là “bố-cái-Hju”. Cũng chính ông Löng này đã kể câu chuyện tuyệt vời về Cây Đa mà ta đã nói đến, như một người möyun , ở chương trước.

Ấy là vào thời những cơn mưa phùn đầu mùa, lúc cây ngô mùa khô bắt đầu ra quả [tháng Tư-tháng Năm]. Bố tôi và mẹ tôi đi cắt rạ ở ruộng và trở về nhà. Tôi chỉ có một mình, trong căn chòi ở vườn, đang lùa lũ gà vào chuồng. Chẳng còn ai khác. Chính lúc ấy tôi trông thấy một người nào đó giống như Htot, giống hệt cô ta, cô đeo một chiếc gùi trên lưng. Tôi hỏi: “Cháu đi đâu đấy? - Đến chơi với cậu đây! - Cậu chưa bao giờ thấy cháu đi chơi như thế này! - Ôi dào, cháu ở vườn về, cháu nghĩ có thể tạt qua đây một tẹo”. Chỉ có hai chúng tôi, tại sao không đùa chơi với nhau? Chúng tôi đùa chơi cùng nhau một lúc. Đến lúc trời tối, Htot nói: “Thôi cậu cứ ở lại, cháu đi đây!” - Cảnh ấy diễn đi diễn lại hai ba lần.

Hôm đó mẹ tôi uống rượu, bà say, nằm ở nhà; tôi ở vườn một mình. Buổi tối, tôi nghe chiếc cầu thang động đậy, tôi nghĩ: Ai có thể ra đây lúc này nhỉ, hay là mẹ? Kỳ thực là Nàng [chữ viết hoa này là của cô gái Giarai ghi lại], Nàng mở cửa và bước vào. “Cháu đến làm gì ban đêm thế này? - Cha mẹ cháu cãi nhau ngoài đồng, thế là cháu đến đây với cậu”. Nàng nằm với tôi; tôi không nghĩ Nàng muốn làm gì, chúng tôi chỉ là những đứa trẻ con; hơn nữa, Nàng là cháu của tôi. Sau đó, tôi về nhà; khi tôi ở với mẹ tôi, tôi không nhìn thấy Nàng nữa.

Đến kỳ lúa lên đòng, tôi chăn trâu [tháng Chín-tháng Mười]; trời mưa nhiều, nước sông lớn. Tất cả bọn trẻ con đều đi trước tôi, chăn trâu của chúng; tôi ở lại sau, có một mình.

Tôi định đưa trâu ra bãi cỏ, cạnh ao, nhưng nước lớn quá. Nên tôi phải đi ra phía chân đồi. Để mặc cho lũ trâu gặm cỏ, tôi chặt tre và đan một cái lờ; thỉnh thoảng, tôi ngước lên nhìn lũ trâu, rồi lại cúi xuống đan. Tôi nghe một tiếng động nhẹ, tôi nhìn lên, lại là Nàng. “Cháu đi đâu đấy? - Cháu chăn trâu, nhưng chúng lội sông bơi qua bên kia hết rồi, thế là cháu đến với cậu đây. - Nhưng cháu chăn trâu từ bao giờ thế? Thằng bé Tölèl chăn trâu cho nhà cháu kia mà! - Tölèl bị sốt”. Cô bé rất ngoan, cô không đi lung tung bao giờ. Nàng ngồi cạnh tôi, tôi tiếp tục chẻ tre. Mặt trời cứ đứng mãi trên đỉnh đầu; dù mặt trời không lặn, tôi vẫn quyết định ra về. Tôi ra về cùng đàn trâu của mình, chúng quay về bãi cỏ chẳng khó khăn gì; tôi vừa đi vừa uốn mép chiếc lờ của tôi; Nàng vẫn đi theo tôi. Trên đường về làng, tôi trông thấy các dấu chân trâu. “Có thể là trâu của cháu đã về đấy… - Làm sao cháu biết được? Nhưng mẹ cháu sẽ mắng cháu mất thôi! - Sao mẹ cháu lại có thể mắng cháu? Nước sông lớn thế kia! Hãy đi về cùng cậu. Cậu sẽ bảo mẹ cháu nếu mẹ mắng. - Không, cậu cứ về đi; cháu ở đây chờ trâu; chốc nữa cháu sẽ về. - Tùy cháu vậy!” Tôi trở về, vẫn vừa đi vừa uốn cái mép lờ; tôi vẫn nhìn thấy đàn trâu, trong khi chúng đã tự quay về bãi cỏ từ lâu; nhưng chính là Nàng đã làm cho tôi nhìn thấy trâu. Mặt trời vẫn cao và tôi ngạc nhiên sao mãi vẫn không tối. Khi tôi nhìn về hướng cô gái thì là ban ngày; nhưng về hướng kia thì lại đã là đêm. Tôi bèn đi gấp về nhà, tự bảo: mình nhìn thấy thần linh rồi.

Ở nhà, cha mẹ tôi tìm tôi; họ đốt đuốc và đi về hướng vườn. Khi tôi về đến nhà, thì chẳng có ai ở nhà. Tôi sang nhà một người đàn bà láng giềng. “Cha mẹ tôi đi đâu cả? - Không, mày ngủ hay sao thế! Đêm tối đen rồi đây này. - Tôi đang chăn trâu, bỗng nhiên, tôi thấy trời đã tối.” Cuối cùng cha mẹ tôi về; tôi kể cho họ nghe tất cả những gì đã xảy ra, từ cuộc gặp đầu tiên trong vườn. “Đồ nói dối! Đến mà hỏi cha mẹ Htot xem thử!” Tôi đi đến nhà cha mẹ Htot, bước lên nhà. “Có việc gì mà em đến thế. Em có thường hay sang đây đâu. - Có một chuyện nhỏ thôi!” Tôi ngồi xuống bên bếp lửa; tôi hỏi mẹ Htot: “Ngày hôm nay Htot có đi chăn trâu không? - Cháu gái của em làm sao mà đi chăn trâu được trong khi nó ở ngoài ruộng với chị kia mà? - Em thấy nó ở chân đồi, ngoài kia. - Anh chị thuê Tölèl chăn trâu chứ. - Nó bảo em là Tölèl bị sốt”. Đến lúc đó Htot chen vào: “Cháu ở ngoài ruộng. - Sao lại cố tình đánh lừa cậu thế? - Cháu chẳng lừa cậu. - Nó bảo em là nó chăn trâu. - Cháu gái em không có chăn trâu đâu.” Tôi không kể thêm gì nữa và tôi đi về nhà. “Thế nào? - Con bé không chăn trâu - Lần sau con gặp nó, con phải kéo nó về tận đây cho ta!”

Ít lâu sau tôi lại đi chăn trâu. Nước không lớn lắm; tôi để cho đàn trâu tự do lang thang ở chân đồi. Tôi ngồi trên một tảng đá bằng và thiu ngủ. Tôi choàng thức dậy và tôi thấy Nàng. “Cháu làm gì ở đây? - Cháu chăn trâu cùng với Tölèl, nhưng cháu lạc mất Tölèl. - Con nói dối! Cậu đã hỏi cha mẹ cháu, cha mẹ cháu bảo cháu không có chăn trâu. - Ai bảo cậu thế? Cháu chăn trâu thật đấy chứ. - Được rồi, cứ ở đây, đừng có chạy trốn đi đâu! - Cháu còn đi đâu nữa? Chiều nay chúng ta cùng về”. Chúng tôi ở bên nhau; trong suốt thời gian đó mặt trời không lặn. Tôi bảo Nàng: “Ta về đi! - Chốc nữa hẵng về, trâu ăn chưa no đâu”. Chúng tôi cùng đi về; đến nửa đường, Nàng bảo: “Cậu đi về đằng cậu đi, cháu ở đây chờ Tölèl. - Nhưng nó đã về rồi mà! - Không, nó chưa về đâu! Cháu nghe thấy tiếng mõ trâu của nhà cháu đấy”. Tôi bèn thả mặc cho đàn trâu đi đâu thì đi và tôi nắm lấy tay Nàng: “Thôi đủ rồi! Lần trước cháu đã làm như vậy, mẹ cháu đã mắng cậu vì cậu bỏ cháu lại một mình; đừng có đứng ở đây, hổ sẽ ăn thịt cháu mất!” Nắm tay Nàng, tôi cố kéo đi, nhưng Nàng ngồi thụp xuống và cưỡng lại, và đột nhiên… biến mất; tôi cố tìm, không thấy đâu cả. Đột nhiên tôi không nhìn thấy Nàng nữa, Nàng đã biến mất.

Tôi trở về nhà - Vẫn còn sớm. Tôi kể lại mọi chuyện cho mẹ; mẹ không nói lại với ai hết.

Đến mùa khô tiếp sau [từ tháng Hai đến tháng Tư], trâu được thả rông [vì không còn lúa ngoài đồng], tôi ở trong vườn cùng với mẹ và bác tôi, để làm cỏ. Trong khi chúng tôi ăn cơm, tôi nghe có tiếng gọi sau lưng: “Cậu ăn cơm xong chưa, cậu Löng?” Cha mẹ tôi chẳng nghe thấy gì cả, chỉ có mình tôi nghe. “Đây rồi! Nàng đã trở về! - Ai trở về, Löng? Htot đã trở về, cô ấy mặc một chiếc váy ngắn và đeo một chiếc gùi; cô ấy rủ con đi hái măng ở gần ao, ngoài kia.” Tôi chuẩn bị đi. “Nhưng mà con đi đâu thế? - Đi hái măng với Htot chứ! Con điên đấy à? Làm gì có măng đúng giữa mùa khô này? - Thế mà vẫn có đấy!” Htot cứ gọi tôi mãi; tôi ra đi, tôi quay nhìn lại, tôi không nhìn thấy mẹ tôi nữa, không nhìn thấy ai nữa. Tôi cầm lấy cái dao quắm và lao tới, theo gót Htot. Bác tôi cố giữ tôi lại bằng cách nắm lấy đuôi khố của tôi: tôi quay nhìn lại, tôi không thấy ai cả, tôi tưởng là tôi bị vướng trong bụi rậm, tôi chặt phăng cái đuôi khố rồi tôi chạy theo gót Htot. Bác tôi đuổi kịp tôi và giữ tôi lại - hồi ấy tôi còn nhỏ lắm và không đủ sức chạy. Nhưng cô gái, ở đằng kia, cứ gọi tôi mãi. Bác tôi dắt tôi về chỗ mẹ; tôi trông thấy họ, nhưng không nhận ra họ nữa, cứ như toàn những người xa lạ. “Con làm sao thế? - Con không nhìn thấy mẹ và bác, con chỉ nhìn thấy Htot! Thôi đi con ơi! Con sẽ bị nó bắt mất thôi!”.

Sáng hôm sau, bố-thằng-Nuany được mời đến để giải quyết “vụ thần linh”, köddi yang; ông ta làm một mình, tôi chỉ được nghe nói lại. Ông ta đã tuyên bố cuộc ly hôn, chuyện này dễ thôi, bởi vì tôi chưa cưới một thần-rừng. Có một chiếc vòng bằng sợi tre cho vị thần đã bắt tôi, và một chiếc vòng bằng đồng thau cho tôi. Dẫu sao ông ta cũng tuyên bố ly hôn, cúng một con lợn và ba ghè rượu.

Sau đó, một buổi tối, tôi về nhà muộn; mọi người đều đã ngủ. Đến lượt tôi cũng ngủ, rồi tôi nghe có tiếng nói, có người ở ngoài hiên, họ nói về tôi. Tôi trở dậy, mở cửa, và nhìn thấy một người có râu. “Ai đấy?” Htot đi theo ông ta. Đôi mắt tôi vẫn ngủ, nhưng tai tôi nghe. Tôi sợ đấy là bố của nàng, tay cầm một thanh kiếm, như muốn giết tôi. Mắt tôi vẫn ngủ, tôi trở dậy đi về phía cửa nhà, ngực tôi va vào tấm gỗ của một cái gác. Tôi quay lại phía mẹ tôi đang nằm ở cuối nhà, tôi đánh thức mẹ tôi dậy. “Có chuyện gì thế con? - Nhanh lên, mẹ ơi! Có kẻ muốn giết con!” Mẹ tôi đốt lửa lên và tôi nói với bà: “Nàng trở về đấy, đi cùng ông bố, ông ấy muốn giết con!” Tôi sợ, người ta bàn tán trong nhà. Từ đấy tôi không còn thấy Nàng nữa, hoặc giả Nàng đã hiện lên dưới dạng khác (Tl. 2a. 65).

Ngoài việc câu chuyện này cung cấp một bằng chứng thật quý về những công việc thường ngày của một người thiếu niên Giarai, vào ngày hôm trước tuổi các cuộc tình, bằng chứng được kể một cách tự do (giống như những mẫu chuyện đời khác mà tôi đã thu thập được) chứ không phải được đọc thuộc (trường hợp các thầy lang), nó còn đặt ra rõ ràng vấn đề riêng của Löng, mà hai mươi năm sau ông ta nhớ lại khá tinh tường để có thể sống lại với nó đồng thời lại có đủ khoảng cách để trình bày nó với sự sáng suốt lạ lùng.

Htot được mô tả như là đang cố tìm cách gần gũi người cậu trẻ tuổi của mình, đeo đuổi cậu ta, ngày càng tấn công ráo riết hơn. Trong thực tế, nếu hình ảnh Htot ám ảnh Löng, ấy chính là vì cậu ham muốn cô; cô ở trong cậu, ở đâu cậu cũng nhìn thấy cô - và vậy là cậu không còn nhìn thấy gia đình mình nữa; ta nhìn thấy những người thân của mình hay nhìn thấy “những người khác”, ta không thể cùng lúc ở cả hai phía của tấm gương; hơn nữa, khi một bên là ngày, thì bên kia là đêm - cũng giống như đối với những người chết. Cảnh Löng nắm lấy tay Htot, kéo cô đi theo mình, cho đến khi cô biến mất, ta lại tìm thấy trong một huyền thoại:

Một người đi săn; anh đi rất xa, đến tận xứ sở của những người chết - Ở đấy anh trông thấy mẹ mình - anh muốn mang bà về nhà, anh nắm lấy tay mẹ - nhưng, trước khi họ về đến làng, bà đã biến mất… (Hj. 88, do một người anh em rể của Löng kể).

Hình ảnh kỳ ảo của Htot, rõ ràng được đồng nhất với một yang dlei , thần-rừng, do sự gắn kết này, tương đương với một atau, hồn ma; sau đây ta sẽ thấy nàng có thể trở thành đàn bà-hổ. Cảnh mặt trời không lặn để cho những người yêu nhau có đủ thì giờ nằm bên nhau, ở bên ngoài thời gian, có thể thấy trong nhiều huyền thoại: huyền thoại về nàng Thảo (Hj. 110) và đặc biệt trong huyền thoại về chàng Vụng:

Anh chàng Vụng kinh tởm, vẹo vọ và khốn khổ, chăn trâu cho lãnh chúa - Một cô con gái của lãnh chúa nhìn thấy khi anh cởi bỏ cái lốt dị hợm của mình; chàng rực rỡ lên - Nàng mang cơm đến cho chàng, ở trong rừng; họ sống với nhau, bao nhiêu ngày, bao nhiêu tuần, họ không còn biết nữa, bởi vì chàng Vụng đã ngăn mặt trời lại… (Hj. 44, do bà của vợ Löng kể).

Dù Löng đã kể lại một trải nghiệm rất riêng tư, ông cũng không thể ngăn được các hồi tưởng của nền văn học truyền khẩu, nhất là những hình mẫu ông từng nghe được ở gia đình nhà vợ.

Trong phần thứ hai câu chuyện của Löng, ông khoảng hai mươi tuổi, đi lính - nhưng chưa có vợ, vẫn ở làng Plöi Pa, trong gia đình của mình.

Tôi còn gặp lại Nàng, nhưng không giống như trước, không phải dưới dạng người; tôi chỉ nghe giọng nói của Nàng. Trong khi đi dạo chơi, tôi gặp một con hổ, tôi không hề sợ.

Bé và Kong cũng là lính, cùng với tôi: chúng tôi có thói quen cùng nhau trở về làng. Tối hôm đó, tôi đi về một mình, tôi đang đi trên đường, tôi nghe có tiếng động trong rừng, đấy là Nàng. Tôi không còn sợ nữa, ngay đến cả ma. Ngày hôm sau, tôi lại nghe thấy Nàng. Tôi nói với Kong và Bé: “Nếu các anh nghe thấy có tiếng động, đừng chạy, nếu không Nàng sẽ bắt các anh đấy! - Cái gì? Hóa ra anh có vợ-hổ hay sao? - Tôi không cưới Nàng, nhưng nếu các anh trông thấy Nàng thì đừng có mà chạy!” Bé đi trước, Kong đi giữa và tôi đi sau. Có tiếng động trong rừng. Nàng [nyu, dưới dạng hổ] hiện ra ngay trước mặt Bé, anh ta ngã ngửa ra. “Ôi mẹ ơi, tôi chết mất rồi! - Có chuyện gì thế? Một con trâu đấy mà! - Tôi thấy nó to như một con ngựa! - Cứ đi tiếp đi, Nàng chỉ đường cho ta đấy!” Mỗi khi nghe thấy tiếng động, Bé và Kong lại chạy lung tung; tôi phải nắm tay họ dắt về làng. “Ối giời ôi, từ nay không bao giờ dám đi với ông nữa!”

Trong đêm, chúng tôi nghe hai con hổ gầm trên núi [núi Mô’]. Bé và Kong về nhà họ. Tảng sáng tôi đến nhà Kong; mọi sự yên lặng, người ta thậm chí không dám đi ra khỏi nhà để tiểu tiện và đại tiện. Tôi gọi anh ta, người anh rể của anh ta trả lời: “Gan anh to thật! Anh không nghe thấy tiếng hổ gầm trong núi đó à? - Đấy là chuyện của họ, mặc họ!” Từ đó tôi sang tiếp nhà bố-cái-Hnyai, ông ta đại tiện ngay chân cầu thang. Tôi hỏi ông: “Có chuyện gì thế? - Anh không nghe thấy tiếng thú trong núi đấy sao? Không ai dám ra khỏi nhà nữa”. Tôi đi về nhà và gọi to: “Ơi Kong, ơi Bé!” Có một tiếng trong rừng trả lời tôi: “Nhanh chân mà theo cho kịp họ, họ đã ra đi từ lâu rồi!” Tôi không trông thấy ai nói, nhưng đấy là Nàng.

Ít lâu sau, tôi gặp lại một con hổ ở ngay chỗ trước đây. Tôi nhìn nó, nó nhìn tôi; tôi không dám bước tới, cũng không dám bỏ chạy. Nhiều người dân làng đi tới, một đứa bé đi trước; nó nhìn thấy con hổ, nó rú lên vì sợ, cha mẹ nó cũng vậy. Con hổ bỏ chạy. Từ đấy tôi không gặp lại Nàng nữa (Tl. 2b. 65).

Không chỉ cô gái rừng che lấp cô gái làng (ta nhìn thấy cô này hoặc cô kia; khi cô Htot thật không đi ra khỏi nhà, thì ảo ảnh của cô ta hiện ra trong rừng) mà, lần này, cô cháu gái kỳ ảo đã mang dạng hổ - và Löng không sợ cô ta nữa! Nhưng chính anh lại làm cho những người khác sợ. Là tình yêu hay là ảo ảnh, thì anh cũng biết đó là Nàng. Trong một lời bình tiếp liền đó, Löng có nói rõ rằng “con hổ” và “tiếng nói” ấy là “cuộc möyun của ông” - điều đó mở rộng cách hiểu từ này, đến mức ở đây có nghĩa gần như là “một cuộc tình hoang dã”, theo nghĩa mạnh nhất của từ này; möyun sẽ là người tình trong ảo mộng. Giữa Löng và Htot, ai là người bị ám? Trong câu chuyện, chính nàng bị ám, còn trong thực tế thì là chàng. Các từ ngữ möyun người bị ám, yang thần, römung hổ, atau ma là những từ chìa khóa của những lời chứng này và, tổng quát hơn, của loại diễn từ này; như ta đã gặp trong cuốn sách này, chúng lập thành một dãy kết thúc bằng atau và cái cõi bên kia tuyệt đối mà từ đó người ta không còn trở về nữa. Löng đã điên vì cô cháu gái của mình, bị ám, nhưng ông ta đã không đi quá xa và đã hồi phục. Câu chuyện không nói về chỗ cô nàng có cảm tình với anh ta như thế nào. Về sau, họ đã có vợ có chồng, ai có phần nấy và thật lành mạnh.

Đỉnh cao của người möyun không phải là làm tình với một con hổ cái, mà là bị một người đàn bà đã chết bắt. Hai huyền thoại tiếp sau đây không phải không có liên quan đến câu chuyện của Htot, chúng biểu hiện một giai đoạn cực điểm.

Một người trẻ tuổi khai phá một đám ruộng mới, cắt ra từ rừng, không xa làng của anh. Ngày trước ở đấy có một nấm mồ, bỏ hoang từ lâu. Anh cất chiếc chòi ở ruộng và ngủ đêm tại đấy; chung quanh, không có đám ruộng nào khác, chẳng có ai nữa.

Đêm hôm đó, một “cô gái ma” dra atau đi về phía chòi và hỏi: “Có ai ở đây không? - Có, nhưng mà ai đấy? - Tôi đây, tôi muốn ngủ với anh!” Anh chàng trai trẻ đồng ý. Họ ngủ với nhau, như đã cưới nhau. Đúng vào trước lúc gà gáy, anh không thấy cô gái đâu nữa; cô ta đã ra đi.

Đêm nào cô cũng đến ngủ với anh; anh chàng thanh niên không muốn về làng nữa vì bây giờ anh đã có người để ngủ cùng. Đến mức cô gái có thai. Ban ngày, anh chàng không thấy cô, nhưng anh suy nghĩ.

Đêm đó, trong khi cô đang ngủ, anh lấy một sợi chỉ xanh buộc vào chân cô, sợi chỉ gắn vào cả cuộn chỉ. Sáng ra, khi cô đã biến mất, anh lần theo sợi chỉ, đến một cái hang chuột, bên dưới chiếc chòi của anh. Anh lấy mai đào, gặp một con chuột có thai, với một sợi chỉ xanh buộc ở chân; anh giết chết con chuột, mổ con chuột ra và thấy bên trong có một con người bé nhỏ. Đêm sau, anh chờ cô gái, không thấy cô đến, anh chờ đến sáng, anh không còn thấy cô dra atau bé nhỏ của mình nữa; anh nhớ tiếc cô nàng vô cùng, bỏ ăn bỏ uống. Thương nhớ đến cùng cực, anh nghe thấy trong mơ: “Anh thương nhớ em thật không? - Ôi anh nhớ em quá lắm! - Nếu vậy, sáng mai anh hãy quét dưới chòi của anh!” Anh thức dậy, không thấy ai cả. Rạng sáng, anh quét dưới chòi. Một cơn gió cuốn anh đi; anh chết. Khi đã chết, anh gặp lại cô gái ma của mình, anh sống cùng cô và không rời cô nữa (Hj. 82).

Một cơn ác mộng? Ảo ảnh? Dẫu sao anh chàng phải chết để gặp lại người yêu bao đêm của mình trong cõi bên kia. Bị một người chết quyến rũ, chính anh ta phải chết. Nói cho cùng, đấy chẳng phải là một định nghĩa tình yêu đấy sao? Các nàng dra atau hẳn phải rất hấp dẫn; sau đây là một dấu hiệu khác, trong một loạt truyện có thể đặt tên là “Ngôi mộ và cô gái”:

Mỗi đêm, có một chàng trai lại lang thang phía những ngôi mộ đã bỏ hoang để gặp một dra atau; anh không theo đuổi các cô gái trong làng như những chàng trai khác cùng lứa tuổi.

Một người bạn của anh hỏi: “Đêm nào anh cũng đi như vậy? - Đi chơi với cô gái ma - Đồ nói dối! Thôi được tôi sẽ cùng đi với anh xem sao”. Buổi tối, sau khi cơm nước xong, họ cùng ra đi. Họ đến khu nghĩa trang cũ, ở đấy giống như một cái làng; họ lên nhà cô gái. Cô nấu cho họ những trái chuối xanh. Anh chàng trai trẻ nói với anh bạn: “Nếu cậu muốn ngủ ở đây, thì đừng ngại! Tôi sẽ đánh thức cậu khi phải ra về”. Tảng sáng, khi gà rừng gáy, anh đánh thức bạn dậy: “Dậy đi! Về thôi!” Nhưng anh chàng nọ không hề động đậy, anh ta ngủ thật say. Trời sắp sáng bạch ra rồi, sẽ không thể đi ra khỏi chỗ này được nữa. Anh bảo các cô gái ma: “Cứ để cậu ta ngủ ở đây, tối nay tôi sẽ đến tìm lại cậu ta”. Anh đi về nhà, mặt trời đã lên cao. Cha mẹ cậu bạn đi tìm cậu, họ hỏi anh thanh niên, anh bảo: “Cậu ta ngủ với ma; tối nay tôi sẽ đi tìm cậu ta”. Họ không tin cậu, họ bắt lấy cậu và giết chết; nhưng cậu con trai của họ từ đó đã lạc mất mãi mãi, anh không còn tìm được đường về (Hj. 85).

Löng đã cố kéo các bạn vào cuộc phiêu lưu của mình, nó khiến anh gặp con hổ, con hổ này lại biến thành nhiều con; ở đây, trong huyền thoại, là một cô gái trở thành “những con ma”; anh chàng trai trẻ đã bỏ mạng ở đấy. Trong huyền thoại cũng như trong cõi ảo mộng, trí tưởng tượng vận hành giống nhau; để đi sang được “phía bên kia” và ở lại bên ấy, thì phải chết… hoặc là điên - điều đó khiến “người điên” là một “người chết” đối với xã hội. Trường hợp cực đoan của người möyun , anh ta ra đi mãi mãi, không còn có thể trở về, và thường là anh tự vẫn.