Chương 19 Trần trụi điên
Diễn từ của huyền thoại về các trường hợp bị ám hay tình yêu “điên dại”, diễn từ của đối tượng về chính trường hợp thực của mình và diễn từ của xã hội về những người điên của nó không thuộc cùng một loại (tuy là Hj. 85, chẳng hạn, có thể bắt nguồn từ một câu chuyện có thực), chúng không nhằm nói cùng một điều, chúng không cắt nghĩa lẫn nhau (và lý do: ta không thể cùng một lúc ở về cả hai “phía”). Tuy nhiên, chúng bổ sung cho nhau và có quan hệ với nhau, đặc biệt do sử dụng cùng các hình mẫu quen thuộc đối với các nền văn minh truyền khẩu và những hình ảnh chìa khóa chung cho mọi diễn từ. Do vậy không đặt chúng trên cùng một thang bậc, tôi xem xét chúng chung với nhau, nhất là tôi nghiên cứu cõi mơ tưởng với tư cách của một nhà dân tộc học chứ không phải nghiên cứu bệnh “điên” với tư cách thầy thuốc lâm sàng.
Tôi sẽ mô tả những trường hợp, có thực và gắn với các huyền thoại, để tìm cách xem tình trạng điên có thể được hình dung trong thế giới biểu hiện của người Giarai như thế nào.
Mẹ-của-Kla bị những cơn động kinh hàng tháng, Hbblot bị những trạng thái lả đi và khóc, Hmui nói lảm nhảm và thường muốn đốt nhà, v.v… Các trường hợp bất bình thường so về mặt tỷ lệ là khá nhiều đối với cái xã hội nhỏ bé này; nhiều trường hợp kết thúc bằng tự vẫn. Chúng không cùng độ nặng như nhau và ngữ vựng Giarai rất phong phú để chỉ rõ từng mức riêng biệt.
1) Trước hết tôi đặt riêng ra một bên những người bị chấn thương tâm thần (chỉ riêng đàn ông thôi) vì một sự tiếp biến văn hóa quá mạnh: những sinh viên và viên chức, họ chỉ hơi “loạn trí” ram.
2) Gần với những người này, là những người kỳ quặc, hling , được coi là không bình thường, nhưng kỳ thực không hẳn như vậy. Họ không làm như mọi người, song có thể lại minh mẫn hơn những người khác.
3) Nặng hơn là tình trạng thường trực của những người “bị rượu hành” töpai rwa’ , vì có độc dược (khiến người ta cởi quần áo ra) trộn vào rượu để làm cho người ta mất trí… trong một thời gian nào đó, chẳng có ai mất trí luôn.
4) Đôi khi, do tác dụng của độc dược, một số người bị “ngây ngất”, kéo dài hay định kỳ; từ ngữ hwing chỉ trạng thái rối loại tâm thần, có thể nặng lên thành rối loạn sâu.
5) Mih müh chỉ người bị “đần”, thông thường là bẩm sinh; anh ta không khiến xã hội ngạc nhiên chừng nào anh ta không làm cho người ta quá chú ý.
6) Swin đấy là “thằng ngốc” (ở làng), thường là đàn ông hơn là đàn bà, bao giờ cũng độc thân (và trong thực tế: hầu hết những người độc thân, đều bị coi như là đần độn). Nếu là một người đàn ông, thì anh ta sống với người chị cả của mình, bà này thường có chồng và bình thường. Tôi biết có nhiều người thuộc loại này, thường đầu rất to, là những người cung cấp thông tin rất quý vì họ không hề biết đến các điều cấm kỵ. Đôi khi họ sống hoàn toàn trần truồng.
7) Những người mà xã hội gọi là yang nga’ “bị một thần linh bắt” - đấy là điều người ta nói nhiều về những người ốm, những möyun , những người cưới một cô gái-rừng; có khi họ trở thành điên hoàn toàn và sống hoàn toàn trần truồng; có nguyên nhân là do rượu tẩm độc dược. Họ quên hết mọi thứ và sống ở ngoài kia.
8) Có những người đàn ông-đàn bà, giả trang hay không, là những người đàn ông không chịu nhận giới tính của mình. Ở Plöi Pa có một người đàn ông sống ở nhà người chị, đã có chồng, của anh ta, anh ta dệt vải, sàng gạo, bổ củi - toàn là công việc của đàn bà; anh ta ăn mặc như đàn ông, nhưng chỉ lân la với đàn bà. Người ta bảo: “Anh ta không biết thế nào là đàn bà; hẳn anh ta không có cơ quan sinh dục nam”. Ở Plöi Du, một người đàn ông mặc váy như một người đàn bà, anh ta vấn một búi tóc có gài một cây trâm như kiểu đàn bà; anh ta đi theo họ ra chợ với một gùi rau trên lưng để bán. Người ta bảo, trong một lễ hội bỏ mả, một người thanh niên, tưởng anh là đàn bà, đã muốn nhảy với anh ta/chị ta.
9) Có một trường hợp nghiêm trọng cần nói dài hơn, đấy là về những người möhlun, những người “hoàn toàn trần truồng”, do vị trí của họ trong xã hội và trong huyền thoại, bao giờ cũng là dưới góc độ của cõi mơ tưởng. Chúng ta biết rằng người möhlun, trần trụi như một người nô lệ hlun hay một con thú hoang, không phải là người ở trần lüng hay người di thông thường, “ở trần” một cách đúng phép, nghĩa là có che cơ quan sinh dục, đối nghịch với người nhân đôi hay ma lai. Người ở trần truồng hoàn toàn bị xã hội coi là bất bình thường; người ta tắm hoàn toàn trần truồng, nhưng khi đi xuống nước và khi ở dưới nước lên người ta dùng bàn tay trái che cơ quan sinh dục lại (ngay cả khi chỉ có một mình - đương nhiên đối với người đàn bà vú không phải là cơ quan sinh dục mà là trang sức đẹp nhất của họ); thường không có vật che cơ quan sinh dục là chứng tỏ mình “điên” (Xem mức 10 trang 315), nhưng không hề bị xã hội loại trừ. Tình trạng này có khi xảy đến với những người đàn ông (làng Dron) hay đàn bà (làng Hyao). Khi người ta xuất hiện như vậy, tức là theo một cách nào đó người ta đã thuộc về phía các yang và rừng, về phía cõi vô hình và hoang dã không kiểm soát, như một cõi bên kia của các möyun . Nhưng có khi rồi người ta trở lại chuẩn mực bình thường.
Cậu em của bố-cái-Hnèh, mà ta sẽ nói đến sau đây, sống hoàn toàn trần truồng; anh ta tự thấy mình có mặc khố; nếu có ai đó đưa cho anh một cái khố, anh la hét bảo rằng đã có mặc rồi. Về sau, anh đã chịu mặc một chiếc quần dài và anh đã cưới vợ. Ở làng Plah, một người đàn bà đứng tuổi sống hoàn toàn trần truồng; bà nổi tiếng rất siêng năng; trước những người đã quen, bà trần truồng rất tự nhiên, trước những người khác thì bà ta ít nhiều có vẻ xấu hổ, khi đi ngang qua chỗ họ bà che âm hộ của mình lại, hoặc quay đi, hoặc ngồi khép chân lại. Phần lớn những người “trần truồng”, tất cả đều độc thân (chẳng ai muốn lấy họ), dường như họ từ chối tất cả những gì thuộc về văn hóa, họ lên cơn nếu người ta tìm cách mặc quần áo cho họ. Nếu người “trần truồng” tự thấy mình có mặc quần áo, ấy là vì họ không ở về cùng một phía với những người khác.
Cần chú ý là các nhân vật bên lề nổi tiếng trong huyền thoại, các Drit, Cán-dao, Giung (tức “người điên”)… được biểu hiện là hoàn toàn trần truồng hay chỉ đeo một sợi dây nhỏ coi như là khố; đấy là những con người-rừng, gắn với các cô gái-rừng, coi như trở về trạng thái “hoang dã” hay chưa bao giờ rời khỏi trạng thái ấy; họ thân thuộc với các sinh linh trong rừng, coi thường hổ, tán tỉnh các nàng công chúa (Hj. 52 và 114). Khi tắm, ở sông, họ lột bỏ cái lốt hoang dã của họ và trưng bày toàn bộ vẻ rực rỡ trần truồng trước mắt cô gái họ yêu, chính nàng cũng trần truồng. Trong thực tế cũng vậy, con trai và con gái thích nhìn thấy nhau trần truồng trong dòng nước, vượt ra bên ngoài mọi e thẹn (lúc này không còn có thể chấp nhận được nữa) và đắm vào bên trong mọi sự điên cuồng (nếu không phải là yêu đến điên dại).
Việc hoàn toàn trần truồng còn gắn với nước trong lễ thức chuộc rửa tội loạn luân. Những người anh trai và em gái loạn luân bị bắt được phải cùng tắm chung, cởi bỏ mọi quần áo, thả cho chúng trôi theo dòng nước, và họ hoàn toàn trần truồng trở lên bờ - họ đã trở thành những con người mới. Tính nước đôi của sự trần truồng và tính đạo đức giả cho hợp lề thói, ngay ở những con người ăn mặc ít ỏi đến thế. Phải chăng sự trần truồng cũng khiến người ta sợ, như là sự thật? Từ diễn từ huyền thoại, từ nghi thức và từ bao nhiêu dấu hiệu khác, đã rõ là giữa chúng có quan hệ với nhau. Vậy thì, ai là điên? Song phải thoát ra, phải tự phân biệt mình với thế giới hoang dã và, để làm việc ấy, mọi xã hội đều có những mưu mô của mình.
10) Nghiêm trọng hơn cả là tình trạng “điên” hüt , có những mức độ khác nhau: hong anh chàng tàng tàng xấc láo, hong hüt anh chàng điên hiền lành không có gì nguy hiểm, nhưng đã khá loạn trí, và hüt hẳn hoi, người điên (“phải trói”, chí ít là để anh ta không tự vẫn, nhưng người ta chủ yếu tìm cách giải thoát anh khỏi một mối bị ám nào đó). Anh chàng này không sống trong xã hội, anh ở ngoài kia; lang thang, không thể định lại ở một nơi nào được, anh đi từ nhà này sang nhà khác, giúp việc này nọ; anh không biết sợ cũng chẳng biết xấu hổ, thông thường anh hoàn toàn trần truồng; người ta coi anh chẳng phải chịu trách nhiệm gì hết. Anh đã vượt qua một điểm không thể quay trở lại được nữa, nhưng xã hội chấp nhận anh, hẳn cũng vì một nguyên do khiến nó yêu quý những con người-rừng trong huyền thoại của nó, để mà tìm thấy lại một sự thật mà nó vẫn tự che giấu (mọi người đều phức tạp, nghĩa là tự phức tạp hóa cuộc sống của mình). Cũng giống như trong trường hợp người thầy lang pöjau , nhưng ông này đã thoát ra thắng lợi và mạnh hơn, tình trạng điên hüt thường bắt đầu bằng một trận ốm. Đấy chính là trường hợp của Mlu, con trai của những người làm ruộng giàu có ở làng Tong Sé, thời thơ ấu rất bình thường. Năm lên bảy hay tám tuổi, cậu bị ốm nặng, cậu đã thở hắt ra; người ta đã bắt đầu quấn đồ liệm cho cậu, cái đầu còn để trống. Chèo, một người bạn của gia đình, nhìn thấy có bọt sủi ra ở miệng cậu, anh ta cởi dây chiếu đã bó “người chết”, miệng cậu lại phun bọt. Chèo cởi hết chiếu; Mlu đổ mồ hôi rất nhiều. Bốn hay năm ngày sau, cậu động đậy đôi chút, rồi bắt đầu ăn, đi lại. Cuối cùng cậu bình phục và nói năng bình thường. Qua mấy năm; sau khi uống nhiều rượu ghè, say, cậu trốn vào rừng. Khi cậu quay về làng, cậu chỉ còn biết thốt ra những tiếng gầm gừ khản đặc. Từ đó, cậu đi hết nhà này sang nhà khác, giúp người ta lấy nước, tắm rửa cho súc vật; cậu chỉ ăn khi người ta cho. Cậu nhận ra những người thân; một hôm, cậu bắt tất cả gà của mẹ, đem nấu, rồi đặt ở cầu thang từng nhà các chị em của cậu. Khi đạn pháo rơi quanh làng cậu (chớ quên là đang chiến tranh) và mọi người chui trốn, thì Mlu vẫn đứng yên, một mình, trần truồng. Từ tháng Bảy năm 1967, không ai thấy cậu ở đâu nữa; người ta bảo: “có thể cậu ta đã trở thành một con thú trong rừng”.
Mẹ-cái-Hprèn thật sự hüt , và lại còn thêm thói ưa đốt nhà cửa. Làng bố-thằng-Jöng, dù khoan dung với bà, đã đưa bà ra ở tận phía tây cuối làng, ở đấy bà có một túp lều nhỏ, mà bà ở cùng với đứa con gái nhỏ của bà, điều đó khiến bà trở thành người láng giềng và rất nhanh chóng thành bạn của tôi. Người ta bảo có khi bà nhảy múa hoàn toàn trần truồng (tôi chưa hề nhìn thấy chuyện đó); nhưng tôi đã nghe được đoạn ca sau đây của bà mà giọng hát gần như vui vẻ hồn nhiên hẳn phải che giấu một nỗi đau đớn sâu xa lắm:
… ơi anh Ngol, ta chỉ đi có một chân
nhanh lên anh ơi, ta chỉ ăn miếng cơm to bằng
............................................................ một cái móng tay
cát sông Ayun bờ sông rộng, bãi cát rộng sông Apa
đêm, đêm nay, ta bất thường, ơi anh
đêm, đêm nay, ta bất thường, chị ơi
đêm, đêm nay, ta say, bố ơi
ta là một con điên (hüt) làm vật hiến dâng trên mồ
ta là một con rồ (hong) ngoài nghĩa trang
………………………………..
ta đi con đường xấu
các thần ác đã xô ta ngã vào lửa trái đất
ta là một con rồ ngoài nghĩa trang, ơi bé Hnèr
hãy chăm em gái Hprèn của con
bé Hnèr hãy dạy bảo em gái Hprèn của con
để nó cũng được tốt như con
để nó đừng như ta
ta bị cái ác ám rồi
chị con quả là một người đàn bà không bình thường
một người đàn bà rồ, một con điên
các thần đã bắt ta (yang nga') như vậy đấy…
(Tl. 7. 67)
Người đàn bà này rất yêu con gái mình, Hprèn, hồi bấy giờ mười tuổi, nhưng bà biết bà không thể dạy dỗ nó, cho nên bà gửi nó cho Hnèr, một cô gái xinh xắn trong làng. Bà tự nói mình là hüt, đây là điều hiếm thấy trong trường hợp này; những người đàn ông trong làng chẳng ngần ngại gì khi lặp lại điều đó, chế giễu bà một cách nhẹ nhàng, biết rằng bà sẵn sàng hiến thân cho bất cứ ai (chồng bà đã bỏ bà). Một lần nữa, nên chú ý rằng trong lời hát có phần mê loạn của bà (tôi chỉ dịch phần rõ ràng hơn cả), bà đã lấy lại một hình ảnh sáo mòn của các bài hát dân gian và hoa tình: “Cát sông Ayun…”
Những người trẻ tuổi không bình thường về tâm thần và khó thích nghi chẳng biết nguy hiểm là gì và vô cảm với sự khác nhau của nó - như Pak, Pèm và Pin, cùng ở một làng có 300 dân, là những cậu bé tàn ác luôn luôn tìm cách đập phá. Chúng gây gổ với bọn trẻ con người Việt cùng lứa tuổi, các cậu bé sống ở chợ, mà chúng thích gần gũi hơn là với lũ trẻ trong làng, lũ này, ngược lại, chỉ thích chơi với nhau. Rất nhiều người có tính nết kỳ quặc đó đã xin vào quân đội, cả hai phía. Chúng đều bị xã hội coi là hüt, họ không cản trở tự do của chúng, nhưng họ xếp loại chúng như vậy để khẳng định sự chuẩn mực của mình và bảo vệ các quy ước truyền thống của mình, bởi họ sợ tất cả những gì là xa lạ và riêng biệt, trong khi đúng ra phải là số nhiều. Và cũng chính cái xã hội ấy lại ngợi ca sự khác thường về tâm thần trong các huyền thoại - điều đó có thể không phải không liên quan đến tính khoan dung có thực của họ.
Giung hüt (Giung anh chàng điên, Hj. 114) là tên một huyền thoại nổi tiếng và là tên nhân vật chính trong huyền thoại đó, một con người rừng, thuộc hẳn về rừng, chứ không phải như Drit, chỉ ở bìa rừng. Là một con quái vật mang mặt người, anh ta có thể lột bỏ cái lốt ghê tởm của mình, cái lốt khiến anh có thể sống yên ổn trong rừng, anh cởi bỏ nó ra như cởi bỏ một thứ quần áo và hiện ra trần truồng và đẹp đẽ trước một cô gái mê mẩn; khi người ta khám phá ra anh như vậy, anh chẳng hề còn “điên” - nếu quả thực anh đã từng điên, nhưng anh luôn khiến dân làng ngạc nhiên. Luôn làm chủ trò chơi của mình, anh là một diễn viên hoàn hảo; nhưng, còn hơn thế nữa, anh là biểu hiện của ham muốn được là chính mình, bất chấp các chuẩn mực và cấm kỵ.
Người hüt thật sự đi theo một con đường ngược lại, từ làng đến rừng - nơi chốn (môi trường) của sự điên - ở đấy anh tưởng anh sẽ tìm thấy sự thật của mình - hơn là tìm thấy lại một “trạng thái tự nhiên”, như chúng ta nói. Sự điên đó là sự vứt bỏ (chứ không phải là cố ý chối từ) mọi ức chế (xã hội, chứ không phải văn hóa - huyền thoại là văn hóa và thường là phi- xã hội cũng như phi-đạo đức), nó là sự chuyển phạm 1 sang cái khác: sang thế giới rừng và, đối với người đàn ông, sang người đàn bà - kỳ thực là một. Có một sức mạnh “khiến anh ta chạy trốn”, pödduai’, đến cái chốn lôi cuốn và nguy hiểm kia. Cần chú ý từ pödduai. Trong chuyện Thô-người-đại-lãn (Hj. 69) nhân vật chính được một con ma một chân cho lá bùa “khiến người ta chạy trốn” vào rừng và làm cho người ta điên; anh ta sử dụng bùa đó để xua đuổi những kẻ ngăn trở anh và sau đó lấy được ở chúng những gì anh muốn. Ở làng Mil người ta cất giữ một hòn đá thiêng; tôi xin được xem (thậm chí tôi đã chụp ảnh); người ta bảo tôi: “Đừng có làm thế! Các thần sẽ khiến anh chạy trốn đấy!” yang pödduai’, nghĩa là: làm cho anh điên. Người ta cũng nói về người möyun là yang pödduai’, một vị thần đã khiến anh ta chạy trốn vào rừng, có một cô gái- rừng đang chờ anh ta; nếu anh ta ở lại trong ấy, anh ta sẽ thành hüt hoàn toàn; nếu anh ta nhận ra điều ấy và không cưỡng lại nổi, thì anh sẽ tự vẫn..
1 Nguyên văn: trans-gression. Transgression có nghĩa là vi phạm, vi phạm vào. Ở đây tác giả đã tách từ này ra làm đôi: trans = chuyển sang, gression = phạm, tấn công, tức “chuyển phạm” sang một lĩnh vực, một khu vực, một môi trường khác - ND.
Và quả là người möyun , nhiều hơn là người hüt vốn ít khi ý thức được về tình trạng của mình, hay tự vẫn, thường là ở trong rừng.
Nếu ta quen đi lại với một cô gái-rừng (dra/yang/dlei, gái/thần/rừng), cô sẽ buộc ta phải cưới cô. Hoặc là vậy hoặc là chết. Như ông Mlei quá cố [cùng làng với Löng, chương 18]; cô gái-rừng của ông đã bảo ông đưa vợ ông [ở làng] vào đây; bà này đi lên núi, mang cơm và nước cho chồng. Bà đi như vậy nhiều lần. Cô gái-rừng và người đàn bà-vợ có cùng tên, cùng khuôn mặt. Không thể trốn vào rừng nữa, Mlei đã trở về làng, hoàn toàn trần truồng, ở đó ông lấy dao tự đâm vào ngực. Khi một người đàn ông chạy theo một thần rừng để lấy làm vợ [theo hình ảnh người vợ-làng] người ta bảo anh ta là yang nga’, bị thần bắt; anh ta sẽ thành điên hay tự vẫn (Tl. 2c. 65).
Đấy cũng là trường hợp bố-cái-Hmlé; bắt đầu là ông ta nằm mơ, rồi ông ta chạy theo vị thần của mình vào rừng; ông ta cưới thần và trở thành điên, thậm chí không ăn gì nữa. Ông muốn trở về làng; một con hổ đuổi theo ông, ông muốn trở thành hổ. Ở nhà, ông lấy chăn phủ lên một khúc chuối, để làm vật đánh lừa, rồi lại chạy trốn và dùng dao tự đâm vào mình tự vẫn, trong rừng. Ông đã trở thành “người hoang dã” mönuih dlei , “hoàn toàn trần truồng” möhlun sống như một con thú trong rừng, nhưng không mất ý thức về bản chất người của mình - bi kịch không sao chịu nổi đã dẫn ông đến tự sát. Cũng như Mlei, ông chuyển sự nhị hóa riêng của mình lên hai người đàn bà.
Bố-cái-Hnèh, chồng cô cháu của Löng, có thói hay đi lang thang và nói lảm nhảm; một điều gì đó khiến ông chạy trốn. Trong những cuộc chạy trốn như vậy, ông có thể hung dữ khác lúc bình thường. Ông chạy trốn xa, 150 cây số bằng xe đạp trong một ngày, không ăn. Sau một cơn ngây ngất hwing, người thân của ông đã gông ông lại, để bảo vệ chính ông. Vài ngày sau họ hỏi: “Ông có còn bị ám nữa không? - Không, tôi đã có con [nghĩa là tôi đã lớn và có trách nhiệm], tôi không thể nói dối!” Người ta thả ông ra. Ông muốn đi ngoài, ông bảo vợ đi theo ông [ông sợ lại bị giục chạy trốn], nhưng bà đang bận trong bếp; ông phải đi một mình. Ông không quay về. Ngày hôm sau, bọn trẻ con đi bắt bọ hung arong sé (Chalcosomia atlas) trong rừng, thấy ông đã treo cổ trên một cành cây blan (Combretum quadrangulare) bằng một sợi dây gai ông tự bện lấy [nghĩa là sự việc đã được dự tính trước]; ông treo cổ thấp, đứng thẳng thì chân chạm đất, ông đã ngã người ra sau (30-12-1967). Người em trai của ông cũng không bình thường và sống hoàn toàn trần truồng.
Tôi kể thêm, để mà ghi nhớ, tuy đây là những người thất vọng chứ không phải những người điên (nhưng có khác nhau chỗ nào?), các trường hợp anh em Liang và Piang tranh cãi với nhau, người anh treo cổ, trường hợp ông chồng bà già mù trong làng của tôi, đã treo cổ, trước mặt bà già không nhìn thấy gì cả và vẫn tiếp tục nói chuyện với ông, cho đến khi những người láng giềng nhìn thấy, và cả trường hợp anh chàng trẻ tuổi nọ ở làng Mil. Anh chàng khốn khổ này làm mọi thứ lao dịch, người ta lợi dụng anh. Ngày hôm đó anh nói với những người khác: “Cứ đi trước đi, tôi sẽ theo sau, tôi đi qua vườn cái đã; tối nay chúng mình sẽ ăn trâu ở nhà tôi!” Quả vậy, nhưng đó sẽ là con trâu tang lễ của anh, và anh biết. Anh cởi khố, làm dây treo cổ, nghĩa là anh hoàn toàn trần truồng, ở một cái cây trong rừng. Người ta chỉ tìm thấy anh lúc đã tối. Bao nhiêu trường hợp, trong mười lăm năm, với vài trăm người Giarai mà tôi quen đi lại, điều đó đặt ra một bài toán.
Những cá tính không khoan nhượng, những trường hợp tuyệt vọng, những rối loạn tâm thần nặng hơn, xã hội Giarai, biểu hiện một cấu trúc truyền thống mạnh, lại rất phong phú những chuyện như thế. Ngược lại với Durkheim, tôi nhận thấy rằng sự vô tổ chức, sự không điều hợp của cá nhân và tập thể, không phải là của riêng của các xã hội phương Tây, nó cũng tồn tại ở các xã hội gọi là “nguyên thủy”, được Durkheim, tiếp sau Rousseau (ông ta không hoàn toàn sai) lý tưởng hóa, nhưng cả hai đều đã không sống đủ lâu ở những xã hội ấy! Người Giarai, nói riêng, đã tìm được một sự cân bằng mà những người phương Tây của thế giới bê-tông đã đánh mất, điều đó không đủ để xóa đi hết mọi vấn đề. Và ta sẽ nói gì đây về các nhà dân tộc học, mà không ít người trong số họ đã nghĩ đến chuyện tự sát, và nhiều khi đã thực hiện? Xung đột hiện diện ở mọi nơi; tự thủ tiêu mình đi, để không làm cho chúng trầm trọng hơn (khi người ta ý thức được về chúng, và người ta nghĩ đến người khác, đến những người có thể gây hại) đấy có thể là hiền minh hơn là điên loạn; dường như câu chuyện về Dak Din sau đây minh họa điều đó.
Anh em Dak và Din rủ các bạn Ling và Jao đi đánh các làng Dong Bao và Dao Kuch, đã vay thóc của họ mà chẳng bao giờ trả - Họ bói thấy điềm lành, và lên đường - “Hãy thổi tù và lên, nào bé Din, ta gặp chim lành! Tiến lên, tiến lên, các bạn Ling và Jao!” Nước sông lớn, họ phải vượt qua, mang cả gươm và khiên - Họ vượt qua được, và người làng Dong Bao và Dao Kuch kêu lên: “Dak đã đến kia, hãy bắn tên vào nó!” - Dak vượt qua các con đập, nhảy lên các chiến lũy, chém bên trái bên phải, gây ra một cuộc thảm sát, bắt sống tù binh, mà anh ta giao lại Ling và Jao. - Dak quay lại xem có còn ai sống sót không; anh thấy một người già mù “Hãy bắn vào tôi, tôi to gan quá! - Ta không còn biết bắn, con ạ! - Hãy nhắm vào tim đây này”. Dak chỉ cho ông già bắn, anh nhận lại mũi tên thuốc độc vào tim, anh rứt các mũi tên ra, nhưng đầu mũi tên vẫn dính lại - Anh về được đến làng; anh bảo cậu em Din cởi quần áo cho mình, cậu em thấy các đầu mũi tên vẫn còn dính đấy. - “Hãy rứt chúng ra, Din!” Din rứt chúng ra; Dak chết. - Người ta đắp cho anh một nấm mộ tuyệt đẹp. - Người vợ của Dak đến khóc trên mộ chồng, nàng thương tiếc chồng đến nỗi nàng tự đâm vào ngực mình tại chỗ, để đi theo chồng trong cõi chết - Din và tất cả dân làng đều làm theo như vậy (Hj. 112).
Tự sát hàng loạt, người đầu tiên là Dak để cho một ông già mù bắn tên vào mình…
Ghi chú dân tộc học: Phải biết rằng các cuộc chiến tranh Giarai, trong thực tế ngày xưa, làng này chống làng kia, chỉ có những toán quân nhỏ xung đột với nhau, không tàn sát nhiều lắm; chủ yếu là bắt tù binh, để đem đi bán lại (ở làng của họ) đổi lấy trâu, tránh đổ máu - mọi vụ giết người đều kéo theo một sự đền bù nặng, “giá mạng người”, tức mười lăm con trâu hay tám nô lệ mà gia đình người chết có quyền đòi gia đình kẻ giết người, bằng thương lượng hòa bình hay bằng chiến tranh trả đũa. Trong các huyền thoại loại anh hùng ca, các nhân vật đều tàn bạo, máu đổ, xác người chồng chất; người nghe vui thú mà chẳng có chút mặc cảm nào, biết rằng đấy là chuyện không thể xảy ra… nhưng dầu sao vẫn có thể tưởng tượng ra được.
Những người chết dữ, chết xấu, và nhất là những người tự sát là một mối hiểm nguy đối với làng - trong khi các huyền thoại tưởng tượng lại ngợi ca họ; không nên quên cái phía khác ấy của tư duy Giarai; người ta luôn tưởng tượng “ở ngoài kia”. Người ta chôn họ trong rừng, được phủ kín, ở bên kia nghĩa trang, vốn ở khu vực rừng thưa; mộ không có trang trí, không được chăm nom; người ta bỏ mả ngay.
Khác với những người chết thông thường sẽ đi xuống “âm phủ” đâu đó “phía mặt trời lặn”, yu’ cũng còn có nghĩa là dưới thấp, những người tự sát có một số phận riêng, họ lên ở cạnh Adei, tức ông Trời, số phận của các nhân vật huyền thoại; nhưng họ không được gần gũi những người thân của mình - đấy là tính chất nước đôi của tư duy Giarai đối với họ.
Người Giarai không thích giết; người điên chỉ nguy hiểm đối với chính anh ta. Dak, người chiến binh thắng trận, sợ chính sức mạnh của mình; anh đã đi quá, anh biết điều ấy, anh phải chấm dứt cơn cuồng nhiệt của mình. Nhưng còn những người khác? Và tại sao lại sáng tác ra một câu chuyện như vậy, thích thú kể và nghe nó? Dak (và những gì anh là tiêu biểu đối với những người thân của mình) phải chăng là lý do duy nhất của họ để sống, để tồn tại (đối với cả tập đoàn người)? Diễn từ của người Giarai không nói gì thêm nữa, nhưng lịch sử hiện tại của họ dường như xác nhận điều ấy. Niềm tuyệt vọng của một tộc người thiểu số, được tiên đoán bằng huyền thoại chăng?
Họ chỉ còn có thể chạy trốn chăng? Rú rậm là một chốn nương thân, rừng là nơi trú ngụ; cây hay người đàn bà trong rừng là chốn nương tựa cuối cùng để mà bám víu…
Và cơ thể nữ của các từ,
Trong dáng thẳng đứng không cắt nghĩa cây.
Salah Stétié, Đoạn khúc