Những công trình khác được dẫn hay tham khảo về các vấn đề đặc biệt
E. Aymonier, Les Tchames et leurs religion (Người Chàm và tôn giáo của họ), Paris, 1891: Phụ nữ Chàm gọi những người Hồi giáo ở Campuchia là những nữ phù thủy kamelai (…) Họ gieo rắc bệnh tật và bùa yểm (tr. 108).
P. Pelliot, Textes chinois sur le Pandugara: Các văn bản Trung Quốc về Pandugara, BEFEO, 1903: Những đứa con gái sinh ra mà mắt không có mí. Ban đêm, đầu chúng bay đi và ăn phân của trẻ con. Trẻ con bị nhiễm hơi của chúng không lớn lên được nữa. Sau đó đầu lại bay về. Nếu trong khi nó đang bay mà người ta mang thân hình nó đi nơi khác, thì hai phần đầu và người không lắp vào được và sẽ chết (tr. 653, số 2).
Ma Touan Lin, Ethnographie des peuples étrangers à la Chine (Dân tộc học về các dân tộc bên ngoài Trung Quốc), bản dịch, Genève, 1883: Những người Leao có đầu bay… (tập 2, tr. 120).
A. Cabaton, “Le Loup-Garou en Indochine et en Indonésie” (Ma chó sói ở Đông Dương và Indonésie), Tạp chí Dân tộc học, số 6, 1922: Những người ma lai có vẻ bề ngoài giống hệt như người bình thường, hay mang hình dáng một cô gái trẻ, nhưng ban đêm, đầu của họ, chỉ mang theo bộ máy tiêu hóa, rời khỏi phần cơ thể còn lại, đi ăn phân và lao vào các lễ hội ma quái (tr. 57).
P. Guilleminet, “La tribu Bahnar du Kontum” (Bộ lạc Bana ở Kontum), BEFEO, 1951: Còn có những người mlai thường được biết đến ở vùng người Giarai. Những nhà ảo thuật này có khả năng tách riêng đầu ra, bay đi và ăn gan kẻ thù của họ. Nguồn gốc của họ không rõ. Một truyền thuyết gắn việc họ trở thành mlai với tục ăn thịt người thời xưa. Theo truyện kể đó, những người mlai là hậu duệ của các công chúa Ya Mo và Kô Duan (tr. 451 - tôi nghĩ rằng tên Mo này có gắn với ngọn núi Mô’).
H. Maitre, Les Jungles moï (Rú Mọi), Larose, Paris, 1912: Xứ (người Sre) không có đàn ông mà chỉ có đàn bà; mỗi khi muốn có thai, họ đi đến các xóm láng giềng để được bọn đực truyền giống (…); khi đẻ họ chỉ giữ lại con gái, còn giết và ăn thịt con trai (…). Họ đúng là những nữ nhân amazone thật sự (…). Quanh eo họ chỉ thắt một dây thắt lưng, như đàn ông (tr. 316).
“Những người hoang dã” (…) có một cái đuôi, giống như đuôi khỉ (…). Phần trước cánh tay, có một cái màng, sắc như một con dao (xem tr. 62 - Maitre lưu ý rằng ở bản đảo Mã Lai người ta cũng tin như vậy: đuôi và cánh tay-lưỡi kiếm, được tộc người này “gán” cho tộc người khác - cứ như bao giờ người ta cũng cần có một người hoang dã. Sau đó, ở trang 216, Maitre kể rằng người Bana tin về người Mnong rằng: Họ có đuôi và ăn thịt người).
Dr. Gaide, “Les hommes à queu” (Những người có đuôi), BAVH1, 1928: Ở Ciampa có những người có đuôi và người Nam kỳ gọi họ là Mọi hoặc người Man di… (tr. 108).
L. Finot: “A propos des Moï à queu” (Về người Mọi có đuôi), BAVH, 1928, tr. 217-221 (tác giả đăng lại một ghi chú của Sabatier nói về Kmri và Nak Etan - chính là các kömrii và nak tan của chúng ta - có một bàn tay-dao và một chiếc đuôi nhỏ, sống trên núi Dlé Ia - quả là người ta đã chỉ cho tôi là họ ở vùng ấy).
A. và J. Lemoine, … không ít khi ta gặp họ [những người Trung Quốc], và là những người có học nhất, tin rằng người Yao, là hậu duệ của một con chó, vẫn còn giữ dấu vết của việc đó trong giải phẫu học của họ, dưới hình thức một cái xương cụt nhỏ kiểu đuôi! (Tạp chí Những người bạn của Vương quốc Lào, 1971, tr. 85).
1 Bulletin des amis du vieux Hue (Tạp chí Đô thành hiếu cổ) - ND.
M. Walker: [Tất cả những tên mọi đen], các anh biết chúng đều có một cái đuôi ở đằng sau không? (Jubilee, bản dịch ra tiếng Pháp, Seuil, Paris, 1968, tr. 412).
… ngược lại, đây là những người đàn bà châu Âu, dưới con mắt của người Trung Quốc: họ có những cái đuôi dài có lông, chính vì thế họ mặc nhiều váy để che đít của họ đi (Han Suyin, L’arbre blessé (Cái cây bị thương), bản dịch sang tiếng Pháp, tr. 184).
G. Calame-Griaule (chủ biên), Le thème de l’arbre dans les contes Africains (Chủ đề cây trong các truyện kể châu Phi), tập I, SELAP, Paris, 1969, 92 trang; tập II, 1970, 137 trang; tập III, 1974, 208 trang. (Cây tổ tiên, cây mẹ hay cây cha…).
A. Barriots, Les principaux mythes de l’ethnie Amis (Các huyền thoại chính của tộc người Amis), Hualen, 1976: … anh bóc vỏ cây, từ đấy bước ra một cô gái trẻ (tr. 72).
G. Calame-Griaule (chủ biên), Le thème de l’arbre dans les contes Africains (Chủ đề cây trong các truyện kể châu Phi), SELAP, tập I, Paris, 1969, 92 trang; tập II, 1970, 137 trang; tập III, 1974, 208 trang. (Cây tổ tiên, cây mẹ hay cây cha…).
R.G. Wasson, Soma, pine mushroom of immortalilty (Soma, nấm thiêng tạo nên sự bất tử), A Harvest-Special, New York, 1968, 381 trang. (Nấm mũ và phong bạc).
C.O. Sauer, Seeds, Spades, Hearths, and Herds. The Domesticatin of Animals and Foodstuffs (Ngũ cốc, Súng đạn, Lò lửa và Vật nuôi. Thuần dưỡng Động vật và Cây thực phẩm), The MIT Press, Cambridge (Mas.), 1969, 175 trang.
J. Favret-Saada, Les Mots, la Mort, les Sorts, sous-titré La Sorcellerie dans le bocage (Các Từ, cái chết, và Phù chú. Thuật phù thủy trong Rừng), Gallimard, Paris, 1977, 332 trang.
NHỮNG VẤN ĐỀ TỔNG QUÁT HƠN
R. Bastide, Anthropologie appliquée (Nhân học ứng dụng), Payot, Paris, 1971, 245 trang.
M. Douglas, Purity and Danger, an analysis of concepts of pollution and taboo (Thanh khiết và Hiểm nguy, phân tích các khái niệm về ô uế và kiêng kỵ), Routledge & Kegan, London, 1966.
… và không quên các công trình triết học về cõi mơ tưởng, chẳng hạn của Bachelard và Sartre.