← Quay lại trang sách

Saguiet el Hamra, mùa đông 1909 - 1910

Họ xuất hiện như trong một giấc mơ nơi chóp cồn cát, lẩn khuất chập chờn trong làn sương cát từ dưới chân họ bay lên. Họ chậm chạp bước xuống thung lũng theo một lối mòn gần như không trông thấy được. Dẫn đầu đoàn người là cánh đàn ông mặc áo khoác bằng len, mặt che mạng màu lam. Cùng bước với họ có hai hay ba con lạc đà một bướu, tiếp theo là những con dê và những con cừu do lũ con trai thúc đi. Những người đàn bà khép lại đoàn người. Đó là những bóng người uể oải, cồng kềnh trong chiếc áo khoác nặng nề, và làn da nơi đôi cánh tay và trán họ trông như càng âm u hơn trong những tâm mạng màu lam sẫm.

Họ chậm chạp bước trong cát, không gây tiếng động, không nhìn hướng họ đang đi tới. Gió thổi liên hồi, gió sa mạc nóng ban ngày, lạnh ban đêm. Cát lẩn trốn quanh họ, giữa những chân lạc đà, quất vào mặt những người đàn bà đang kéo thấp tấm mạng che mặt màu lam trên mắt. Mấy đứa trẻ chạy lúp xúp trong khi những em bé cuộn tròn trong lớp vải chàm trên lưng mẹ đang khóc. Lũ lạc đà lầm bầm, hắt hơi. Không ai biết mình đang đi đâu.

Mặt trời hãy còn ở trên cao trong bầu trời trần trụi, gió cuốn đi những tiếng động và những mùi vị. Mồ hôi chảy chậm rãi trên khuôn mặt khách bộ hành, và làn da sẫm của họ đón nhận ánh phản chiếu của màu chàm trên má, trên cánh tay, dọc theo chân. Các hình xăm màu xanh lơ trên trán phụ nữ sáng lấp lánh như món đồ trang sức khắc hình bọ hung. Những con mắt đen, trông giống như giọt kim loại hờ hững nhìn vào khoảng cát mênh mông, tìm kiếm dấu vết con đường mòn giữa những lớp sóng của cồn cát.

Không có gì khác trên mặt đất, không có gì, cũng không một ai. Họ sinh ra từ sa mạc, không một con đường nào khác có thể dẫn dắt họ. Họ không nói gì. Họ không muốn gì. Gió thổi qua người họ, xuyên qua họ, như chẳng có ai trên các cồn cát. Họ bước đi từ buổi bình minh đầu tiên, không ngừng nghỉ, cơn mệt và cơn khát vây bọc lây họ như một lớp vỏ. Môi và lưỡi cứng lại vì khô hạn. Cái đói giày vò họ. Họ nói không ra lời. Từ lâu lắm rồi họ đã trở nên câm nín như sa mạc, họ chan hòa ánh sáng khi mặt trời thiêu đốt giữa bầu trời trống hoác, và lạnh cóng về đêm với những vì sao im lìm.

Họ tiếp tục chậm chạp bước xuống triền dốc tiến về vùng sâu của thung lũng, họ phải đi quanh quẹo vì cát sụt lở dưới chân họ. Không cần nhìn, cánh đàn ông vẫn chọn được nơi sẽ đặt chân tới. Như thể họ đang bước đi trên những dấu vết vô hình dẫn họ về phía đầu bên kia sự cô đơn, về phía bóng đêm. Chỉ có một người trong bọn họ mang súng, một khẩu cạc bin có bộ phận bật đá lửa, nòng dài bằng đồng đã đen sạm. Ông mang nó trên ngực, ghì chặt giữa hai cánh tay, nòng súng chĩa lên cao như cán cờ. Những người anh em của ông đi bên cạnh, phủ áo khoác, lưng hơi còng xuống về phía trước vì các bọc nặng. Dưới lớp áo khoác, y phục màu lam của họ đã tả tơi rách bươm vì gai, sờn mòn vì cát. Sau đàn thú mệt lử, Nour, con trai của người đàn ông mang súng, đang bước trước mẹ và các em gái cậu. Mặt cậu âm u, đen sạm vì nắng, nhưng đôi mắt cậu sáng rực, và cái nhìn của cậu toát ra một thứ ánh sáng gần như phi thường.

Họ là những người đàn ông và những người đàn bà của cát, gió, ánh sáng và đêm. Họ xuất hiện như trong một giấc mơ trên chóp cao một cồn cát như thể họ sinh ra từ bầu trời không mây, và trong chân tay của họ có nét khắc khổ của không gian. Họ mang trong người họ cái đói, cái khát làm môi họ chảy máu, niềm im lặng khắc nghiệt lấp lánh ánh mặt trời, những đêm lạnh buốt, ánh sáng của dải ngân hà, mặt trăng; trước mặt họ vẫn là những cái bóng khổng lồ của chính họ vào buổi mặt trời lặn, những sóng cát trinh nguyên mà ngón chân họ choãi ra đang chạm phải, cùng chân trời không thể tới. Nhất là ánh sáng trong cái nhìn của họ, nó chói lọi trong màng cứng của mắt họ.

Đàn dê xám nâu và cừu bước đi phía trước bọn trẻ. Lũ súc vật cũng đi mà không biết về đâu khi đặt bộ móng guôc của chúng trên những dấu cũ. Cát xoáy giữa chân chúng, bám vào lớp lông bẩn thỉu. Một người đàn ông vừa dẫn đám lạc đà một bướu, chỉ bằng giọng nói của mình, vừa càu nhàu và khạc nhổ hệt như chúng. Tiếng khàn khàn của những hơi thở trộn lẫn trong gió rồi tan biến ngay trong những chỗ lõm của cồn cát, về hướng Nam. Nhưng gió, sự khô hạn, cái đói cũng không còn quan trọng nữa. Người và vật đang từ từ lẩn khuất, bước về phía vùng sâu của thung lũng không có nước, không có bóng mát.

Họ đã lên đường từ nhiều tuần, từ nhiều tháng, đi từ cái giếng này tới cái giêng khác, băng qua những con suối khô cằn mất hút trong cát, vượt qua những đồi đá, những cao nguyên. Đàn thú ăn những loài cỏ gầy rạc, những cây cúc gai, những cây xương khô mà chúng chia sẻ với người. Buổi chiều, khi mặt trời xuống thấp gần chân trời và khi bóng những bụi rậm trải thật dài, người và vật dừng bước. Những người đàn ông trút vật nặng khỏi lũ lạc đà, dựng căn lều to bằng len màu nâu trên một cái cột độc nhất bằng gỗ thông bá hương. Những người đàn bà lo nhóm lửa, chuẩn bị món bột nhão bo bo, món sữa đông, bơ, chà là. Đêm tới thật nhanh, bầu trời bao la và buốt giá mở ra trên mặt đất đã tắt ngấm. Bấy giờ những ngôi sao hiện ra, nghìn nghìn ngôi sao đã dừng lại trong không gian. Người đàn ông mang súng, người dẫn đường cả đoàn, lên tiếng gọi Nour và chỉ cho cậu cái đỉnh của chòm sao Tiểu hùng, ngôi sao đơn độc mà người ta vẫn gọi là Dê con, rồi ở đầu kia của chòm sao, ngôi sao Kochab màu xanh. Ông chỉ cho Nour thấy, chếch về hướng Đông, một chiếc cầu lấp lánh năm ngôi sao Alkaid, Mizar, Alioth, Megrez, Fecda. Hoàn toàn ở phía Đông, trên chân trời màu tro, chòm sao Lạp hộ vừa xuất hiện với sao Alnilam nghiêng nghiêng một bên như cột buồm một con tàu. Ông biết rõ tất cả những vì sao, đôi khi ông gán cho chúng những cái tên lạ lùng giống như cách bắt đầu của các câu chuyện. Bấy giờ ông chỉ cho Nour con đường mà họ sẽ theo ban ngày, như thể ánh sáng nhóm lên trong bầu trời luôn vạch ra những con đường mà loài người phải đi trên trái đất này. Nhiều sao quá! Đêm sa mạc lúc nào cũng tràn đầy những ánh lửa bập bùng một cách êm dịu kia trong khi gió dạt dào từng cơn như hơi thở. Đó là một xứ sở nằm ngoài thời gian, xa cách với lịch sử loài người, có lẽ vậy, một xứ sở nơi không gì còn có thể xuất hiện hay chết đi, như thể nó tách biệt hẳn với các xứ sở khác, nó nằm trên chóp cao của sự sinh tồn trên mặt đất này. Những người đàn ông thường ngắm nhìn những vì sao, cái vệt trắng lớn giống như một cây cầu cát bên trên mặt đất. Họ vừa lai rai nói chuyện vừa hút những điếu thuốc quấn trộn cần sa, họ kể cho nhau nghe chuyện về các chuyến đi, những tiếng gào thét của cuộc chiến chống lại bọn lính Cơ đốc, những trận phục thù. Sau đó họ lắng nghe màn đêm.

Những ngọn lửa từ các cành nhỏ nhảy múa dưới cái ấm trà bằng đồng với âm thanh của nước đang sôi sùng sục. Bên kia lò lửa, cánh đàn bà đang trò chuyện, và một người trong bọn họ lầm rầm hát ru đứa bé đang ngủ trên ngực mình. Lũ chó rừng kêu lên ăng ẳng và chính âm vang trong chỗ trũng của các cồn cát đã đáp lại chúng như phát ra từ những con chó rừng khác. Mùi lũ súc vật xông lên, trộn lẫn với mùi ẩm ướt của cát xám, mùi hăng hắc của khói từ các lò lửa.

Tiếp theo, phụ nữ và trẻ nhỏ ngủ trong lều, còn đàn ông thì nằm trong lớp áo khoác của họ quanh đám tro than đã tắt ngấm. Họ biến mất trên khoảng cát và đá, họ trở nên vô hình, trong khi bầu trời đen càng rạng rỡ hơn.

Họ đã đi như thế trong nhiều tháng, có lẽ là nhiều năm. Họ đi theo con đường trời giữa lớp sóng của các cồn cát, những con đường bắt nguồn từ Draa, từ Tamgrout, từ Erg Iguidi, hoặc thêm con đường phía Bắc của những người Ait Atta, những người Gheris, bắt nguồn từ Tafilelt, tất cả dẫn về những làng phòng thủ lớn trên các dải hoành sơn thuộc vùng núi Atlas, hoặc con đường vô tận đi sâu vào trung tâm sa mạc ở bên kia vùng Hank, về phía thành phố lớn Tombouctou. Một số người đã chết dọc đường, những người khác thì ra đời, cưới nhau. Những con vật cũng đã chết, cuống họng mở toang để làm màu mỡ cho các tầng sâu của đất, hoặc dính dịch bệnh, bị bỏ cho thối rữa trên nền đất cứng.

Nơi đây dường như không có tên, không có lời. Sa mạc lau sạch tất cả trong gió của nó, bôi xóa tất cả. Trong cái nhìn của những người đàn ông có cái tự do của không gian, còn làn da họ thì giống như kim loại. Ánh mặt trời bùng vỡ khắp nơi. Cát nâu, vàng, xám, trắng, cát nhẹ cứ lướt đi chỉ ra hướng gió. Nó bao trùm lên tất cả mọi dấu vết, mọi xương cốt. Nó đẩy lùi ánh sáng, nó đánh bật nước, cuộc sống ra khỏi vòng trung tâm không một ai nhận ra được. Những người đàn ông biết rõ rằng sa mạc không chịu nhận họ: thế là họ đi không ngừng nghỉ trên con đường mà những bước chân khác đã từng đi qua, để tìm gặp cái gì khác. Nước, nó ở trong các aiun, những con mắt, có màu trời, hoặc trong những lòng suối bùn cũ kỹ, ẩm ướt. Nhưng đó không phải là thứ nước dành cho khoái lạc và sự nghỉ ngơi. Nó đúng là dấu vết của những giọt mồ hôi trên bề mặt sa mạc, cái cho dè sẻn của một Thượng đế khô khan, hoạt động cuối cùng của cuộc sống. Thứ nước nặng tách ra từ cát, thứ nước chết của những kẽ nứt, thứ nước kiềm làm ta đau bụng, làm ta nôn mửa. Người ta còn phải đi xa hơn nữa, người nghiêng nghiêng về phía trước, theo hướng mà những vì sao đã vạch sẵn.

Nhưng đây có thể là xứ sở tự do cuối cùng và duy nhất, nơi luật lệ loài người không còn quan trọng nữa. Một đất nước dành cho đá và gió, cho cả bọ cạp và chuột nhảy nữa, những con vật biết giấu mình và lẩn trốn khi mặt trời thiêu đốt và khi đêm làm rét cóng.

Giờ đây, họ đã xuất hiện trên thung lũng Saguiet el Hamra, họ bước chầm chậm xuống những triền dốc cát. Ở cuối thung lũng, bắt đầu có dấu vết của cuộc sống loài người: Những cánh đồng đất có tường đá khô rang xếp bao quanh, những vuông đất rào kín dành cho lạc đà, những lán trại lợp bằng lá cọ lùn, những túp lều to bằng len trông giống con tàu bị lật úp. Những người đàn ông vừa bước chầm chậm vừa ấn gót sâu vào cát đang sụt lở. Những người đàn bà bước chậm lại và giữ khoảng cách xa sau đàn thú chợt hốt hoảng vì mùi của những cái giếng. Rồi thung lũng bao la hiện ra, rộng mở dưới cao nguyên đá. Nour tìm những cây cọ cao màu lục sẫm vươn lên từ mặt đất thành hàng sít vào nhau quanh hồ nước trong, cậu tìm các dinh thự màu trắng, những ngọn tháp giáo đường, tất cả những gì mà người ta đã nói với cậu từ thời còn bé khi nhắc tới thành phố Smara. Từ lâu lắm rồi cậu không trông thấy cây cối. Hai tay buông lỏng, cậu đi về vùng thấp của thung lũng, đôi mắt hơi nhắm lại vì ánh sáng và cát.

Khi những người đàn ông bước xuống sâu hơn trong thung lũng, thành phố mà họ đã thoáng thấy trong khoảnh khắc chợt biến mất, họ chỉ bắt gặp vùng đất khô ran và trần trụi. Trời nóng nực, mồ hôi chảy ròng ròng trên mặt Nour, dán lớp quần áo màu xanh lam của cậu vào hông cậu, vào vai cậu.

Giờ đây, những người đàn ông khác, những người đàn bà khác cũng xuất hiện như được sinh ra từ thung lũng. Đàn bà lo nhóm lửa chuẩn bị bữa ăn chiều, trẻ con cùng đàn ông thì im lìm bất động trước những căn lều đầy bụi. Họ đã đến từ mọi miền sa mạc, phía bên kia vùng Hamada sỏi đá, phía bên kia các ngọn núi của vùng Cheheiba và Ouarkziz, vùng Siroua, những ngọn núi Oum Chakourt, cả phía bên kia các ốc đảo lớn của miền Nam, của hồ nước ngầm vùng Gourara. Họ đã vượt qua những ngọn núi qua hẻm núi Maider, đi về Tarhamant hoặc xuống nữa nơi con sông Draa gặp con sông Tingut, ngang qua Regbat. Họ đã tới đây, tất cả các dân tộc miền Nam, những dân du mục, những thương gia, những người chăn cừu, những tên cướp, những kẻ ăn mày. Có thể một số người đã rời bỏ vương quốc Biru hoặc ốc đảo lớn vùng Oualata. Khuôn mặt họ mang dấu ấn của cái nắng khủng khiếp, của cái lạnh chết người về đêm tại những vùng cùng kiệt của sa mạc. Một số người trong bọn họ có nước da đen muốn ngả sang màu đỏ, cao lớn và dài chi, họ nói bằng một ngôn ngữ xa lạ: đó là những người Tubbu đến từ bên kia sa mạc, từ Borku và Tibesti, họ ăn những trái côla, họ đi về phía biển.

Người và vật càng đến gần, những cái bóng đen đàn ông càng nhân lên gấp bội. Đằng sau đám cây keo cong queo, những túp lều bằng cành lá và bùn hiện ra trông giống những tổ mối. Những ngôi nhà bằng đất nện, những cái hầm bằng ván và bùn, và nhất là các bức tường đá xếp, thậm chí chưa cao tới đầu gối, chia cắt nền đất đỏ thành những ô nhỏ. Trên các khoảng ruộng không to bằng một tấm thảm yên ngựa, những người nô lệ harratin đã thử ươm vài thứ hạt, ớt, bo bo. Những đường rãnh khô cằn luồn sâu qua thung lũng hy vọng bắt gặp chút ẩm ướt. Chính là nơi giờ đây họ đã tới, trên đường tiến về thành phố Smara rộng lớn. Người và vật, tất cả cùng tiến bước trên mặt đất khô cằn ở tận cùng vết thương rộng lớn kia của thung lũng Saguiet.

Đã bao nhiêu ngày, cứng rắn và sắc nhọn như đá lửa, đã bao nhiêu giờ qua họ nóng lòng chờ đợi để trông thấy điều đó. Biết bao đau đớn trong thân thể bầm giập của họ, trong đôi môi chảy máu của họ, trong cái nhìn bỏng cháy của họ. Họ hối hả đi về phía những cái giếng, không màng đến tiếng kêu của đàn thú lẫn tiếng xì xào của những người đàn ông khác. Khi tới trước những cái giếng, trước bức tường đá chắn giữ lớp đất mềm, họ dừng lại. Bọn trẻ đã đuổi lũ súc vật đi xa bằng những hòn đá trong lúc tất cả đàn ông đều quỳ xuống cầu nguyện. Rồi từng người đã ngâm mặt mình trong nước và đã uống thật lâu.

Những con mắt của nước giữa sa mạc là vậy. Nhưng nước ấm còn chứa đựng cả sức mạnh của gió, của cát và của bầu trời bao la giá buốt ban đêm. Trong khi uống nước, Nour nghe khoảng trống nhập vào người cậu, cái khoảng trống đã truy đuổi cậu từ cái giếng này tới cái giếng khác. Nước đục lờ và nhạt nhẽo khiến Nour muốn lộn mửa và không giúp cậu qua cơn khát. Như thể nó truyền vào tận cùng thân thể cậu niềm im lặng cùng sự cô đơn của những cồn cát và những cao nguyên đá mênh mông. Nước im lìm trong những cái giếng, nó trơn như kim loại, mặt nước nổi lều bều xác lá và lông thú. Nơi cái giếng khác, những người đàn bà đang rửa ráy và làm cho tóc họ trơn mượt. Gần bên họ, bầy dê và lạc đà một bướu đều bất động như bị giữ chặt bằng những cái cọc trong lớp bùn của giếng nước.

Những người đàn ông khác thì đi đi lại lại giữa những căn lều. Đó là các chiến binh áo xanh của sa mạc, đeo mặt nạ, trang bị bằng dao găm và súng trường, luôn đi những bước dài, không ngó tới ai. Những người nô lệ Soudan mặc quần áo rách bươm, mang những bọc bo bo hoặc chà là, những túi da đựng dầu. Những đứa con trai trong cái lều lớn mặc quần áo trắng và lam sẫm, những người Berbère với nước da ngăm đen, những đứa trẻ miền biển với mái tóc đỏ hoe và làn da đầy nốt tàn nhang, những người đàn ông không nòi giống, không tên tuổi, những kẻ ăn mày bị bệnh p hơn g không đến gần nước. Tất cả, họ bước đi trên mặt đất đầy sỏi đá và bụi đỏ, họ đi về phía những bức tường của thành phố thánh Smara. Họ đã lẩn trốn sa mạc trong vài giờ, vài ngày. Họ giăng tấm vải nặng nề của những căn lều của họ, họ cuộn mình trong những cái áo khoác len, họ đợi đêm về. Giờ đây họ đang ăn bột nhão bo bo trộn sữa đông, bánh mì, chà là khô có hương vị của mật và tiêu. Lũ ruồi muỗi lởn vởn quanh mái tóc của lũ trẻ trong không khí buổi chiều, những con ong vò vẽ đậu trên đôi bàn tay của chúng, trên đôi má lem luốc bụi của chúng.

Bây giờ thì họ đang trò chuyện thật lớn tiếng, và trong bóng râm ngột ngạt của các căn lều, những người đàn bà đang cười và ném những hòn sỏi nhỏ vào lũ trẻ đang nô đùa. Lời nói thoát ra từ cửa miệng những người đàn ông như trong cơn say, những từ vang lên thành tiếng hát, tiếng kêu, tiếng vọng từ trong cổ họng. Đằng sau đám lều, gần các bức tường của thành phố Smara, gió rít trong đám cành keo, trong tán cọ lùn. Thế mà họ vẫn lặng thinh, những người đàn ông và những người đàn bà với khuôn mặt và thân thể đã chuyển sang màu xanh bợt vì chất chàm và mồ hôi: tuy nhiên họ vẫn không rời bỏ sa mạc.

Họ không quên. Chính trong tận cùng thân thể họ, phủ tạng họ là niềm im lặng vĩ đại kia đã liên tục đi qua trên những cồn cát. Đó là điều bí mật đích thực. Thi thoảng, người đàn ông mang súng ngừng nói với Nour, ông nhìn ra sau, về phía chóp thung lũng, nơi xuất phát của gió.

Đôi khi một người đàn ông của bộ lạc khác đến gần căn lều vừa chào hỏi vừa dang hai bàn tay xòe ra. Họ trao đổi vài lời, vài cái tên. Nhưng những lời, những cái tên này tan biến tức thì, đó chỉ là các dấu vết mờ nhạt mà gió cát sẽ chôn vùi.

Khi đêm về tại đây, trên mặt nước những cái giếng, thì đó lại là sự thống trị của bầu trời sa mạc lốm đốm sao. Trên thung lũng Saguiet el Hamra, đêm dịu dàng hơn, và vầng trăng non thường lên cao trong bầu trời tối thẫm. Lũ dơi bắt đầu cuộc khiêu vũ quanh các căn lều, chúng bay xập xòe sát mặt nước giếng. Anh sáng của các lò lửa chập chờn tỏa mùi dầu nóng và khói. Vài đứa trẻ vừa chạy giữa những căn lều vừa buông những tiếng kêu rúc trong cổ họng như loài chó. Những con vật đã ngủ, những con lạc đà một bướu chân bị xích, bầy cừu và dê trong những vòng tròn có tường đá xếp chắn ngang.

Những người đàn ông không còn cảnh giác nữa. Người dẫn đường đã đặt khẩu súng của mình nơi cửa vào lều, và ông vừa hút thuốc vừa nhìn thẳng về phía trước mặt. Ông nghe loáng thoáng tiếng động êm dịu từ những giọng nói và những tiếng cười của đám đàn bà ngồi bên các lò lửa. Có thể ông đang mơ về những buổi tối khác, những con đường khác, như thể vết bỏng nắng trên làn da và cơn đau khát trong cổ họng của ông chỉ là khởi đầu của một ước muốn khác.

Giấc ngủ đến chậm trên thành phố Smara. Nơi khác, ở miền Nam, trên cao nguyên đá Hamada rộng lớn, không có giấc ngủ về đêm. Có một cái lạnh tê cóng khi gió thổi trên cát và lột trần nền đất núi. Người ta không thể ngủ trên các nẻo đường sa mạc. Người ta sống hoặc chết, lúc nào cũng đang nhìn với cặp mắt đăm đăm cháy bỏng vì cơn mệt và nắng. Thỉnh thoảng những người đàn ông màu chàm vẫn gặp một người trong bọn họ đang ngồi thẳng người trên cát, đôi chân duỗi ra trước mặt, thân thể bất động trong lớp quần áo rách tươm. Trên khuôn mặt xám, đôi mắt đen sạm nhìn chòng chọc vào chân trời chập chờn di động của các cồn cát, bởi cái chết đến với hắn bất thình lình như thế.

Giấc ngủ giống như nước, không ai xa nguồn mà thật sự ngủ được. Gió vừa thổi vừa lột sạch mọi hơi âm của trái đất, giống thứ gió của tầng bình lưu. Nhưng nơi này, trong vùng thung lũng đỏ, đoàn lữ hành vẫn có thể ngủ được.

Người dẫn đường thức giấc trước mọi người, ông ngồi bất động trước căn lều. Ông nhìn sương mù chầm chậm đùn lên dọc thung lũng, về phía Hamada. Sương mù đi qua, xóa sạch bóng đêm. Hai tay khoanh trước ngực, ông thở thật nhẹ mí mắt không hề nhúc nhích. Ông vẫn chờ đợi tia sáng đầu tiên của buổi bình minh, fijar, cái đốm bạc hiện ra ở phương Đông, phía trên những ngọn đồi như thế đó. Khi ánh sáng xuất hiện, ông cúi xuống Nour, rồi đặt bàn tay lên vai cậu, nhẹ nhàng đánh thức cậu. Họ lặng lẽ rời bước bên nhau, đi trên lối mòn cát dẫn về những cái giếng. Bầy chó sủa từ xa. Trong ánh sáng xám xịt của buổi bình minh, người đàn ông và Nour lau rửa thân thể theo đúng tập tục, phần này tiếp phần kia, lại bắt đầu ba lượt nữa. Nước giếng lạnh và trong, nước sinh ra từ cát và đêm. Người đàn ông và đứa trẻ lại rửa mặt và rửa tay, đoạn quay về phương Đông để đọc bài kinh cầu nguyện đầu tiên của họ. Bầu trời bắt đầu soi sáng chân trời.

Trong các khu lều trại, lò lửa ánh lên màu đỏ nhạt trong bóng tối cuối cùng. Những người đàn bà đi lấy nước, những em bé gái vừa chạy ra giếng vừa reo, rồi họ trở về, bước đi loạng choạng, chum nước đặt thăng bằng trên chiếc cổ gầy gò của họ.

Những tiếng động của cuộc sống con người bắt đầu vang lên từ khu lều trại và những căn nhà bằng đất bùn: những tiếng động của kim loại, của đá, của nước. Những con chó vàng tụ tập trên khoảng đất trống, chúng vừa chạy lòng vòng vừa sủa ăng ẳng. Đàn lạc đà và những con vật khác thì giậm chân khiến bụi đỏ bay mù mịt.

Chính vào lúc này ánh sáng trở nên lộng lẫy trên thành phố Saguiet el Hamra. Nó đến cùng lúc từ bầu trời và mặt đất, thứ ánh sáng màu vàng ối và màu đồng, nó rung vang trong bầu trời trần trụi, không thiêu đốt không gây choáng váng. Vén một vạt lều, các cô gái chải gỡ mái tóc nặng nề của họ, bắt chí, kết thành búi, nơi họ cài tấm mạng màu xanh lam. Ánh sáng lộng lẫy chiếu trên sắc đồng của khuôn mặt và đôi cánh tay của họ.

Ngồi chồm hổm và bất động trên cát, Nour cũng đang nhìn ngày đong đầy bầu trời trên các lều trại. Những con chim đa đa chầm chậm bay xuyên qua không gian, bay ngược lên thung lũng đỏ. Chúng bay đi đâu? Có thể chúng sẽ bay tới tận chóp thành phố Saguiet, tới tận các thung lũng đất đỏ chật hẹp giữa những ngọn núi vùng Agmar. Sau đó, khi mặt trời xuống thấp, chúng sẽ trở lại, bay về phía thung lũng mở rộng, phía trên những cánh đồng, nơi những ngôi nhà của con nguời trông giống như tổ mối

Có thể chúng biết rõ Aaiun, thành phố của bùn và những tấm ván, nơi mái nhà có khi được làm bằng kim loại đỏ, cũng có thể chúng biết rõ biển màu đồng thanh và ngọc lục bảo, biển tự do?

Đoàn lữ hành bắt đầu tới Saguiet el Hamra, đoàn người và vật đang bước xuống cồn cát, làm tung đám bụi màu đỏ. Họ đi qua trước đám lều trại, thậm chí không quay đầu lại, họ hãy còn xa lắc và đơn độc như đang giữa sa mạc.

Họ chầm chậm bước về phía những cái giếng để vốc nước vào cái miệng chảy máu của họ. Gió bắt đầu thổi ở trên kia, trên vùng Hamada. Vào thung lũng, nó thổi yếu đi trong đám cọ lùn, trong các bụi gai, trong những đường lối quanh co của đá xếp. Nhưng xa khỏi Saguiet, thế giới trở nên lấp lánh dưới con mắt của đoàn người; những đồng bằng với những tảng đá sắc nhọn, những ngọn núi thê lương, những kẽ nứt, những lớp cát phản chiếu ánh mặt trời. Bầu trời không giới hạn, rực một màu lam khắc nghiệt đến độ thiêu đốt mặt mày. Xa hơn nữa, những người đàn ông vẫn bước đi trong mạng lưới của các cồn cát, trong một thế giới xa lạ.

Nhưng đó lại là thế gian thích hợp với họ. Cùng cát, đá, bầu trời, mặt trời, niềm im lặng cùng nỗi đau đớn này, chứ không phải những thành phố bằng kim loại và xi măng, nơi người ta nghe ra tiếng của những máy nước và những giọng nói con người. Chính nơi đây, trật tự trống trải của sa mạc, là nơi mọi điều đều khả hữu, nơi người ta bước đi không bóng bên bờ cái chết của chính mình.

Những người đàn ông xanh tiến bước trên con đường mòn vô hình hướng về Smara, tự do như không có ai trên đời này được tự do như vậy. Quanh họ, xa hút tầm mắt, là những cái chóp di động của các cồn cát, những làn sóng của không gian mà người ta không thể biết được. Những bàn chân trần của phụ nữ và trẻ em đặt trên cát, để lại một dấu vết mờ nhạt mà gió sẽ xóa đi tức thì. Xa xa, những ảo ảnh bềnh bồng giữa đất và trời, những thành phố màu trắng, những lễ hội, những đàn lạc đà và lừa chở nặng lương thực thực phẩm, những giấc mơ chộn rộn. Và chính con người cũng giống như những ảo ảnh mà cái đói, cái khát và cái mệt đã làm nảy sinh trên đất sa mạc.

Những con đường thì vòng quanh, chúng luôn đưa về điểm khởi hành, bằng cách vạch ra các vòng tròn càng lúc càng hẹp lại quanh Saguiet el Hamra. Nhưng đó lại là con đường không cùng tận, bởi chúng dài hơn đời người.

Những người đàn ông đến từ phương Đông, bên kia những ngọn núi của vùng Aadme Rieh, bên kia vùng Yetti, vùng Tabelbala. Những người khác thì đến từ phương Nam, từ ốc đảo vùng el Haricha, từ giếng nước vùng Abd el Malek. Họ đã đi về hướng Tây, về hướng Bắc, đến tận các bờ biển, hoặc đi xuyên qua các mỏ muối lớn vùng Teghaza. Họ đã trở về, trĩu nặng lương thực thực phẩm và đạn dược, về tận đất thánh, thung lũng lớn của Saguiet el Hamra, mà không biết rồi sẽ lại lên đường đi về đâu. Họ đã vừa đi vừa nhìn những con đường của các vì sao vừa lẩn tránh những trận gió cát khi bầu trời chuyển sang màu đỏ và khi các cồn cát bắt đầu dịch chuyển.

Đàn ông, đàn bà sống như thế đó trong khi vẫn đi không nghỉ. Một ngày nào đó họ sẽ chết vì nắng cháy, vì đạn thù, hoặc vì sốt cao. Những người đàn bà sinh con, đơn giản là ngồi xổm trong bóng mát của căn lều, được hai người phụ nữ giúp đỡ, bụng được quấn bằng dây thắt lưng to bằng vải. Ngay phút đầu tiên của đời mình, những người đàn ông đã thuộc về khoảng bao la không giới hạn, thuộc về cát, cúc gai, rắn, chuột, nhất là gió, bởi đó là gia đình đích thực của họ. Lũ con gái với mái tóc nhuốm màu đồng lớn lên, học tập những cử chỉ không cùng của cuộc sống. Chúng không có tấm gương soi nào khác ngoài khoảng rộng mê hồn của những đồng thạch cao dưới bầu trời trơn trụi. Lũ con trai tập đi, tập nói, tập săn bắn và tập chiến đấu, đơn giản là để học cách chết trên cát.

Đứng trước căn lều, bên những người đàn ông, người dẫn đường lặng nhìn hồi lâu những đoàn người đang di chuyển về phía những cồn cát, về phía những cái giếng. Mặt trời chiếu sáng khuôn mặt sạm nâu, cái mũi hình mỏ chim đại bàng cùng mái tóc dài, xoăn màu đồng của ông. Nour đã nói điều gì đó với ông nhưng ông không nghe. Sau đó khi lều trại thật yên tĩnh, ông ra dấu cho Nour, và họ cùng nhau lên đường đi dọc theo lối mòn, ngược lên phía Bắc, hướng về trung tâm Saguiet el Hamra. Thỉnh thoảng họ gặp một người đi về phía Smara, và họ trao đổi với nhau vài lời:

- Anh là ai?

- Bou Sba. Còn anh?

- Yuemaia.

- Anh từ đâu tới?

- Aain Rag.

- Tôi thì từ phương Nam tới, từ Iguetti.

Rồi họ tách nhau ra, không nói lời từ biệt. Xa hơn, con đường mòn gần như không trông thấy được băng qua những vùng đất lổn nhổn đá, những lùm keo cằn cỗi. Thật khó mà bước đi bởi sỏi đá sắc nhọn nhô lên từ đất đỏ, và Nour phải chật vật lắm mới theo kịp cha. Ánh sáng chiếu mãnh liệt hơn, gió sa mạc thổi tung bụi dưới chân họ. Nơi đây, thung lũng chật hẹp, trông giống như một kẽ nứt màu xám và đỏ, đôi chỗ chói lọi như kim loại, sỏi đá phủ đầy lòng suối khô, những viên đá trắng, đỏ, những hòn đá lửa đen trên đó mặt trời làm nảy những tia sáng.

Người dẫn đường đi ngược về phía mặt trời, người chúi về phía trước, đầu được trùm trong chiếc áo khoác len. Gai nhọn của các loài cây nhỏ cào rách quần áo của Nour, vạch ngoằn ngoèo trên đôi chân và bàn chân trần của cậu, nhưng cậu cũng không để ý tới. Ánh mắt cậu đóng đinh vào phía trước mặt, vào bóng cha cậu đang rảo bước. Bất chợt, họ cùng dừng bước: ngôi mộ trắng xuất hiện giữa những ngọn đồi đá lấp lánh trong ánh sáng của bầu trời. Người đàn ông vẫn đứng bất động, hơi nghiêng mình như để chào ngôi mộ. Sau đó, họ tiếp tục bước đi trên lớp sỏi sụt lở.

Mắt không nhìn xuống, người dẫn đường chầm chậm đi lên phía ngôi mộ. Họ càng tới gần thì cái mái tròn chừng như nhô ra khỏi lớp đá đỏ và lớn lên về phía bầu trời. Ánh sáng thật lộng lẫy và trong trẻo soi sáng ngôi mộ, làm cho nó phồng lên trong không khí nóng bức. Nơi đây không có bóng mát, chỉ có những hòn đá sắc nhọn của ngọn đồi, và bên dưới, lòng suối đã khô cạn.

Họ tới trước ngôi mộ. Nó gồm đúng bốn bức tường bằng bùn quét vôi dựng trên một cái bệ đá đỏ. Chỉ có một cửa, giống như lối vào một cái lò, bị tắc nghẽn vì một tảng đá lớn. Trên các bức tường là mái vòm trắng có hình thù vỏ trứng và phía trên cùng là một mũi giáo. Nour chỉ còn nhìn cửa vào ngôi mộ và cánh cửa lớn ra trong đôi mắt cậu, nó trở thành cánh cửa của một tòa nhà bát ngát với những bức thành giống như những vách đá phấn, với cái vòm to như một ngọn núi. Đây là nơi dừng lại của gió và hơi nóng sa mạc, của nỗi cô quạnh ngày dài; đây là nơi tận cùng của những con đường mòn mờ nhạt, cả những con đường mòn trên đó những kẻ lạc đường, những người điên, những kẻ bại trận vẫn đi. Đây có thể là trung tâm của sa mạc, nơi tất cả đã bắt đầu, xưa kia khi loài người lần đầu tiên đến. Ngôi mộ lấp lánh trên triền ngọn đồi đỏ. Ánh nắng phản chiếu trên đất nện, thiêu đốt cái vòm trắng, thỉnh thoảng làm chảy xuống những dòng bụi đỏ dọc theo vệt nứt của các bức tường. Chỉ có Nour và cha cậu ở gần ngôi mộ. Niềm im lặng đặc sánh bao trùm lên thung lũng của Saguiet el Hamra.

Qua khung cửa tròn, khi đã xô tảng đá dịch ra người dẫn đường trông thấy bóng tối mãnh liệt và lạnh ngắt, và ông cảm nhận nó trên mặt mình như một hơi thở.

Quanh ngôi mộ, có một khoảng đất đỏ nện bằng chân những người khách đến thăm. Đó là nơi mà người dẫn đường và Nour đến trước tiên, để cầu nguyện. Nơi đây trên đỉnh đồi cao, bên ngôi mộ thánh nhân, với thung lũng Saguiet el Hamra trải dài đến ngút mắt cái đáy khô cằn của nó, và chân trời bao la, nơi xuất hiện những ngọn đồi khác, những núi đá khác vươn lên bầu trời xanh, niềm im lặng còn não lòng hơn nữa. Như thể thế giới này đã ngừng động đậy và nói năng, đã hóa đá.

Thỉnh thoảng, Nour còn nghe thấy cả tiếng rắc của những bức tường bằng đất bùn. Tiếng vo ve của một loài côn trùng, tiếng rên rỉ của gió.

"Con đã tới", người đàn ông đang quỳ trên đất nện nói. "Hãy giúp con hỡi vong linh của cha con, vong linh của ông nội con. Con đã băng qua sa mạc, con đã tới để xin người ban phép lành trước khi chết. Hãy giúp con, hãy ban cho con phúc lành trước khi chết bởi con là máu thịt của người. Con đã tới."

Ông nói như vậy, và Nour lắng nghe những lời của cha cậu mà không hiểu gì. Ông nói, khi bằng giọng chan chứa, khi bằng giọng thì thầm và lâm râm hát, đầu ông lắc lư; và ông luôn lặp lại những tiếng đơn giản này: "Con đã tới, con đã tới."

Ông cúi về phía trước, vốc bụi đỏ vào lòng hai bàn tay và để nó chảy trên mặt, trán, mí mắt, môi ông.

Sau đó ông đứng dậy và đi về phía cửa. Trước cửa vào, ông quỳ xuống và lại cầu nguyện, trán áp lên phiến đá nơi ngưỡng cửa. Bóng tối tan loãng thật chậm bên trong ngôi mộ như một lớp sương mù ban đêm. Những bức tường của ngôi mộ đều trần trụi và trắng bệch như ở bên ngoài, và cái trần thấp cho thấy cái khung bằng cành lá trộn với bùn khô của nó.

Giờ đây, Nour cũng đã bước vào, cậu bò trên bốn chi. Cậu cảm nhận dưới gan bàn tay mình tấm lát cứng còng và lạnh ngắt bằng đất trộn với máu cừu. Ở cuối ngôi mộ, trên nền đất nện, người dẫn đường đang nằm sấp. Hai bàn tay ông chạm vào đất, hai cánh tay ông duỗi dài tới trước, ông nhập làm một với mặt đất. Giờ đây ông không cầu nguyện nữa, ông không hát nữa. Ông vừa thở chậm, miệng áp sát mặt đất vừa lắng nghe máu đập trong cổ họng và trong hai tai mình. Như thể một cái gì xa lạ đang nhập vào ông, qua miệng ông, qua trán ông, qua lòng hai bàn tay và qua bụng ông, một cái gì đang len vào tận vùng sâu thẳm nhất của ông và biến đổi ông một cách không nhận ra được. Có thể đó là niềm im lặng đến từ sa mạc, từ biển cát, từ những ngọn núi đá dưới ánh sáng trăng, hoặc từ những đồng bằng mênh mông cát đỏ, nơi ánh sáng mặt trời nhảy múa và chệnh choạng như một bức màn mưa; niềm im lặng của những hố nước màu lục đang nhìn lên bầu trời như những con mắt, niềm im lặng của bầu trời không mây, không chim chóc, nơi mưa gió tự do tung hoành.

Người đàn ông nằm dài trên mặt đất thấy tay chân mình tê cóng. Bóng tối đong đầy mắt ông như trước khi ngủ. Thế mà cùng lúc, một năng lượng mới nhập vào qua bụng ông, qua hai bàn tay ông, tỏa sáng trong từng bắp thịt của ông. Nơi ông, tất cả đều thấy đổi, tất cả đều được thực hiện. Không còn đau khổ, không còn ước muốn, không còn phục hận. Ông quên đi những điều đó, như thể nước của sự cầu nguyện đã lau sạch tâm trí ông. Cũng không còn ngôn từ nữa, bóng tối lạnh ngắt của ngôi mộ đã biến chúng thành vô ích. thấy vào đó có một cái luồng xa lạ đang rung vang trong đất trộn với máu, luồng sóng đó, hơi ấm đó. Nó không giống với bất cứ thứ gì đã từng tồn tại trên trái đất này. Đó là một quyền năng trực tiếp không có tư tưởng, đến từ vùng sâu thẳm của trái đất và đi về phía tận cùng của không gian, như thể có một sợi dây vô hình hợp nhất thân thể người đàn ông đang nằm kia và phần còn lại của thế giới.

Nour hầu như không thở, cậu nhìn cha cậu trong bóng tối của ngôi mộ. Các ngón tay cậu xòe ra chạm vào đất lạnh, và nó kéo cậu băng qua không gian trong một chuyến đi quay cuồng.

Họ giữ nguyên tư thế đó một hồi lâu, người dẫn đường nằm dài trên mặt đất và Nour ngồi xổm, mắt mở, bất động. Tiếp đến, khi mọi việc đã xong, người đàn ông chậm rãi đứng dậy và bảo đứa con ra ngoài. Ông đến ngồi dựa lưng vào bức tường của ngôi mộ gần cửa, và ông lại lăn tảng đá để đóng kín lối vào ngôi mộ. Ông có vẻ kiệt sức như đã bước đi trong nhiều tiếng đồng hồ không uống, không ăn. Nhưng trong sâu thẳm của ông có một sức mạnh mới, một niềm hạnh phúc soi sáng cái nhìn của ông. Chính vào lúc này đây ông như biết mình phải làm gì, ông như biết trước con đường mà ông phải đi qua.

Ông kéo vạt áo khoác len xuống trên mặt mình; và ông cảm tạ con người hiển thánh mà không thốt lên lời nào, ông chỉ hơi động đậy cái đầu và hát lâm râm trong cổ họng của mình. Đôi bàn tay dài màu lam của ông vuốt ve mặt đất nện, nắm lấy lớp bụi mịn.

Trước mắt họ, mặt trời lần theo đường cong của nó trong bầu trời, chầm chậm xuống thấp ở bên kia Saguiet el Hamra. Bóng của những ngọn đồi và núi đá trải dài ra nơi cuối thung lũng. Nhưng người dẫn đường chừng như không thấy gì. Bất động, lưng tựa vào bức tường của ngôi mộ, ông không cảm nhận được ngày đang đi qua, lẫn cái đói và cái khát. Trong ông tràn đầy một sức mạnh khác, một thời gian khác biến ông thành xa lạ với trật tự con người. Có thể ông không còn đợi gì nữa, không còn biết gì nữa, và ông trở thành một cái gì đó giống như sa mạc, niềm im lặng, sự bất động, sự vắng bóng.

Khi đêm bắt đầu xuống, Nour sợ và cậu chạm vào vai cha. Người đàn ông nhìn cậu không nói gì, chỉ hơi mỉm cười một chút. Họ cùng bước trở xuống thung lũng hướng về lòng suối khô cằn. Dù đêm đang tới, mắt họ vẫn thấy khó chịu, và gió nóng vẫn thiêu đốt mặt và đôi bàn tay của họ. Người đàn ông hơi loạng choạng lúc bước trên con đường, và ông phải tựa vào vai Nour.

Phía dưới, ở đáy thung lũng, nước trong những cái giếng có màu đen. Đàn muỗi múa may trong không khí, tìm cách chích vào mí mắt lũ trẻ. Xa hơn, gần những bức tường đỏ của thành phố Smara, lũ dơi bay sát những căn lều, bay vòng quanh các lò lửa. Khi đến trước những cái giếng đầu tiên, Nour và cha cậu dừng lại lần nữa để lau rửa thật kỹ từng phần thân thể họ. Tiếp đó họ đọc bài kinh cuối cùng, mặt quay về phía xuất phát của đêm.

Thế rồi càng ngày họ càng kéo tới thung lũng Saguiet el Hamra đông hơn. Họ từ miền Nam tới, một số với lạc đà và ngựa, nhưng hầu hết đều đi bộ bởi những con vật hẳn đã chết vì khát hay vì bệnh dọc đường. Ngày ngày, quanh thành lũy bằng đất bùn của Smara, cậu bé vẫn trông thấy những lều trại mới được dựng lên. Những túp lều len màu nâu tạo thành vòng tròn mới quanh những bức tường của thành phố. Mỗi buổi chiều, vào lúc chạng vạng, Nour nhìn khách bộ hành tới trong màn bụi. Cậu chưa bao giờ trông thấy nhiều người đến vậy. Đó là một cảnh tượng huyên náo không dứt với những giọng nói đàn ông và đàn bà, những tiếng kêu ầm ĩ của trẻ con, những tiếng khóc hòa với những tiếng gọi dê và cừu, những tiếng đóng cỗ xe, những tiếng lầm bầm của lạc đà. Một mùi lạ mà Nour không biết rõ xông lên từ cát và bay tới từng luồng trong gió chiều; đó là một cái mùi mãnh liệt, vừa hăng vừa dịu, mùi của da thịt con người, của hơi thở, của mồ hôi.

Những ngọn lửa than củi, cành nhỏ và phân bò được nhóm lên trong bóng tối lờ mờ. Khói từ lò lừa bay lên trên những căn lều. Nour nghe những câu ca đơn điệu dịu dàng của đám đàn bà đang dỗ trẻ ngủ.

Giờ đây hầu hết những người đi tới là người già, phụ nữ và trẻ con, tất cả mệt nhoài vì phải đi quá sức qua sa mạc, quần áo rách bươm, chân trần hoặc quấn giẻ rách. Những khuôn mặt sạm đen, cháy nắng, những con mắt giống như những cục than. Những đứa trẻ trần truồng, chân đầy vết thương, bụng nhão ra vì đói và khát.

Nour đi khắp khu trại, len lỏi giữa các căn lều. Cậu ngạc nhiên khi thấy quá nhiều người, và đồng thời cậu cảm thấy lo sợ bởi cậu nghĩ, mà không hiểu rõ tại sao, rằng nhiều người trong số những người đàn ông, đàn bà và trẻ nít kia không lâu nữa sẽ chết.

Cậu không ngừng gặp gỡ những người mới tới đang bước rất chậm trên các lối đi, giữa những căn lều. Một số người trong bọn họ đi về phương Nam, họ đen như người Soudan và nói thứ tiếng mà Nour không biết. Những người đàn ông phần đông che mặt, mặc áo khoác len và y phục màu xanh lam, chân mang dép da dê. Họ mang súng trường nòng bằng đồng, giáo, dao găm. Nour bước tránh cho họ đi qua, và cậu nhìn họ đi về phía cửa ngõ thành phố Smara. Họ đến ra mắt tù trưởng vĩ đại Moulay Ahmed ben Mohammed el Fadel, người vẫn được gọi là Ma el Aĩnine, Nước Mắt.

Tất cả bọn họ đều ngồi trên những chiếc ghế dài bằng bùn khô quanh sân nhà tù trưởng. Sau đó họ đọc kinh cầu nguyện vào lúc mặt trời lặn, ở phía Đông của cái giếng, quỳ trên cát, thân thể hướng về sa mạc.

Đêm đến, Nour quay về lều cha cậu, và cậu ngồi bên cạnh người anh cả của mình. Ở phần bên phải của căn lều, mẹ cậu và các em gái cậu đang nói chuyện, nằm dài trên thảm giữa mớ lương thực thực phẩm và cái yên lạc đà. Dần dà niềm im lặng trở về trên Smara và trong thung lũng, tiếng ồn từ những giọng nói của con người và những tiếng kêu của loài vật tuần tự tắt ngấm, vầng trăng tròn vành vạnh xuất hiện trên bầu trời đen, cái đĩa trắng nở ra một cách diệu kỳ. Đêm lạnh buốt dù tất cả sức nóng của ban ngày vẫn còn vương trong cát. Vài con dơi bay trước mặt trăng rồi bay chúi về phía mặt đất. Nour nằm nghiêng, đầu tựa vào cánh tay, đưa mắt theo dõi chúng mà chờ đợi giấc ngủ. Rồi bất chợt cậu ngủ lúc nào không hay, hai mắt vẫn mở.

Khi thức dậy, cậu có cảm giác lạ thường là thời gian đã không trôi qua. Cậu đưa mắt tìm kiếm cái đĩa mặt trăng, và khi thấy nó xuống thấp về phía Tây, cậu mới hiểu ra rằng mình đã ngủ khá lâu.

Sự im lặng trở nên ngột ngạt trên các lều trại. Người ta chỉ nghe tiếng sủa từ xa của loài chó hoang dã, ở một nơi nào đó trong sa mạc.

Nour đứng dậy và thấy cha cùng anh cậu không còn trong lều nữa. Trong bóng tối, ở bên trái của căn lều chỉ còn lại những hình thù của đàn bà và trẻ con, cuộn tròn trong những tấm thảm, đang hiện ra một cách mơ hồ. Nour bắt đầu bước đi trong lối cát, giữa các khu trại, hướng về những thành lũy của Smara. Dưới ánh trăng, cát trở nên thật trắng, với cái bóng màu lam của những hòn sỏi và những bụi cây nhỏ. Không có một tiếng động, chừng như những người đàn ông đều ngủ cả, nhưng Nour biết rằng họ không có mặt trong lều. Chỉ có bọn trẻ nít đang ngủ, những người đàn bà đang nhìn ra ngoài trong tư thế bất động, cuộn mình trong chiếc áo khoác và những tấm thảm. Không khí của đêm khiến cậu trai rùng mình, và cát thì lạnh và cứng dưới đôi bàn chân trần của cậu.

Khi tới gần những bức tường của thành phố, Nour nghe tiếng đàn ông xầm xì. Xa hơn một chút, cậu trông thấy cái bóng bất động của một lính canh đang ngồi xổm trước cửa vào thành, khẩu cạc bin dài tựa vào đầu gối. Nhưng Nour biết một nơi thành lũy bằng bùn bị sụp đổ, và cậu có thể vào Smara mà không phải đi qua trước người lính canh.

Ngay tức khắc cậu nhận ra toàn bộ những người đàn ông đang tập hợp trong sân nhà tù trưởng. Họ ngồi dưới đất thành từng nhóm năm hay sáu người quanh các lò lửa, nơi có những cái ấm đồng to đựng nước dùng để pha trà xanh, Nour lướt đi trong đám người. Không ai nhìn cậu. Một nhóm chiến binh đứng trước cửa ngôi nhà lo canh giữ mọi người. Có vài chiến binh sa mạc mặc quần áo xanh lam bất động tuyệt đối nhìn một người đàn ông lớn tuổi mặc áo khoác len trắng trùm đầu, và hai thanh niên vũ trang đang luân phiên nói một cách hăng hái.

Từ chỗ ngồi của mình, do những tiếng xì xào của những người đàn ông luôn lặp lại hoặc bình luận những điều đã được nói, Nour không thể nào hiểu được lời nói của những người kia. Khi mắt cậu đã quen với sự tương phản giữa bóng tối và những ánh đỏ của lò lửa, Nour nhận ra bóng dáng của lão già. Đó là tù trưởng vi đại Ma el Aĩnine, người mà cậu đã trông thấy khi cha và anh cả của cậu đến chào lão lúc họ mới tới cái giếng ở Smara.

Nour hỏi người bên cạnh về hai người thanh niên đứng bên người tù trưởng cao tuổi. Người ta cho cậu biết tên của họ:

"Saadbou và Larhdaí, hai người em của Ahmed ed Dehiba, người được mệnh danh là Mảnh Vàng, người sẽ sớm là đức vua đích thực của chúng ta"

Nour không tìm cách nghe ra những lời nói của hai chiến binh trẻ. Cậu cố hết sức để nhìn khuôn mặt yếu gầy của lão già đang bất động giữa họ, trong chiếc áo khoác được ánh trăng chiếu vào tạo thành một cái đốm trắng toát.

Mọi người cũng đang nhìn lão như bằng một cái nhìn độc nhất, như chính lão đang thật sự nói, như chính lão sẽ phác một cử chỉ, và sau đó tất cả sẽ thấy đổi, bởi chính lão là người đưa ra mệnh lệnh của sa mạc.

Ma el Aĩnine không cử động. Lão như không nghe những lời lẽ của các người con trai của lão, cũng không nghe tiếng xầm xì bất tận đến từ mấy trăm con người đang ngồi trong sân, trước mặt lão. Đôi khi, lão hơi quay đầu và nhìn ra nơi khác, bên kia những con người và những bức tường bằng bùn của thành phố của lão, về phía bầu trời tăm tối theo hướng những ngọn đồi đá.

Nour nghĩ có thể lão chỉ đơn giản muốn mọi người quay trở về sa mạc, nơi từ đó họ đã ra đi, và tim cậu thắt lại. Cậu không hiểu lời lẽ của những người quanh lão. Trên thành phố Smara, bầu trời vô tận, giá băng và những vì sao, chìm khuất trong quầng sáng trắng bệch của vầng trăng. Điều đó phần nào giống như một dấu hiệu chết chóc hoặc buông thả, một dấu hiệu của sự thiếu vắng hãi hùng đang tạo thành khoảng trống trong các căn lều im lìm và trong những bức tường thành phố. Nour cảm nhận điều đó, nhất là khi cậu nhìn bóng dáng mong manh của lão tù trưởng vĩ đại như chính cậu đang đi vào tận trái tim của lão, vào tận niềm im lặng của lão.

Các tù trưởng khác, những thủ lĩnh trong các căn lều to và những chiến binh xanh lần lượt tới. Tất cả đều nói cùng một lời, giọng rạn vỡ vì mệt mỏi và khô héo. Họ nói về bọn lính Cơ Đốc đang tiến vào những ốc đảo phương Nam và đang mang chiến tranh đến với dân du mục ; họ nói về những thành phố kiên cố mà người Cơ Đốc giáo đang xây dựng trong sa mạc, khép kín lối vào những cái giếng đến tận bờ biển. Họ nói về những cuộc bại trận, những người chết đông đến nỗi người ta không còn nhớ cả tên tuổi họ, những toán đàn bà và trẻ nhỏ chạy trốn về miền Bắc xuyên qua sa mạc, những bộ xương của những con vật đã chết mà người ta gặp khắp nơi trên đường. Họ nói về những đoàn lữ hành bị đứt đoạn khi bọn lính Cơ Đốc tới giải phóng nô lệ và gửi trả họ về miền Nam, khi bọn lính Touareg nhận tiền của người Cơ Đốc giáo cho từng tên nô lệ mà chúng bắt được trong các đoàn người. Họ nói về hàng hóa và gia súc bị bắt giữ, về những toán cướp đã đi vào sa mạc cùng lúc với người Cơ Đốc giáo. Họ cũng nói về những đội quân Cơ Đốc giáo do người da đen miền Nam hướng dẫn, chúng đông đến nỗi phủ đầy những cồn cát chạy dài nơi chân trời. Rồi họ nói về bọn kỵ binh, chúng bao vây các trại và giết tại chỗ tất cả những ai chống cự rồi sau đó mang những đứa trẻ đi để đưa vào các trường Cơ Đốc trong những đồn lũy trên bờ biển. Thế rồi, khi nghe điều đó, những người khác nói rằng đúng như vậy, do Thượng đế mà ra, và những tiếng rầm rì nổi lên, nhốn nháo như tiếng gió thổi về.

Nour nghe những từng rầm rì to dần rồi lắng dịu như làn gió thổi qua sa mạc, trên những cồn cát và cổ họng cậu se thắt, bởi có một mối đe dọa khủng khiếp bao trùm thành phố và tất cả mọi người, một mối đe dọa mà cậu không sao hiểu nổi.

Gần như không nháy mắt, giờ đây cậu đang nhìn cái bóng trắng bất động của lão già giữa đám con trai của lão dù cậu đang mệt và đêm thì quá lạnh. Nour nghĩ chỉ có lão, Ma el Aĩnine, mới có thể xoay chuyển được đêm thâu, làm dịu cơn thịnh nộ của đám đông bằng một cử chỉ của bàn tay, hoặc trái lại, kích động nó, chỉ với một vài câu nói sẽ được lặp lại từ cửa miệng này sang cửa miệng khác, và làm lớn dậy một đợt sóng cuồng nhiệt và gay gắt. Giống như Nour, mọi người đều nhìn về phía lão với đôi mắt nóng bỏng vì mệt và sốt, tâm trí họ căng thẳng vì đau đớn. Mọi người đều cảm thấy làn da họ cứng lại vì mặt trời thiêu đốt và môi họ khô ran vì gió sa mạc. Gần như bất động, họ vừa chờ đợi, mắt đăm đăm, vừa rình rập một dấu hiệu. Nhưng Ma el Aĩnine dường như không thấy điều đó. Đôi mắt lão đăm đăm, và cái nhìn của lão hướng ra xa, vượt lên trên những đầu người, vươn tới bên kia các bức tường bằng bùn khô khốc của Smara. Có thể lão tìm câu trả lời cho nỗi lo lắng của con người trong cái sâu thẳm nhất của bầu trời đêm, trong vùng ánh sáng lạ kỳ đang bập bềnh quanh đĩa mặt trăng. Nour nhìn trên đầu mình, nơi mọi khi cậu vẫn trông thấy chòm sao Tiểu Hùng, nhưng cậu không thấy gì. Chỉ có sao Mộc xuất hiện, im lìm trong bầu trời buốt giá. Ánh trăng đã phủ kín tất cả bằng lớp sương mù của nó. Nour yêu các vì sao bởi cha cậu đã dạy cậu biết tên của chúng từ khi cậu còn bé, nhưng đêm đó chừng như cậu không thể nào nhận ra được bầu trời. Tất cả đều bao la và giá lạnh, tất cả đều đắm chìm trong lớp ánh sáng trắng bệch của mặt trăng, mù quáng. Trên mặt đất ánh lửa từ các bếp lửa tạo thành cái lỗ đỏ rực soi sáng những khuôn mặt người một cách thật dị thường. Có thể là nỗi sợ đã làm thấy đổi tất cả, đã làm cho những khuôn mặt và những bàn tay trở nên hốc hác, và làm các hốc mắt trống hoác tối sầm ; chính đêm làm đông ánh sáng trong cái nhìn của con người, nó đào nên cái lỗ mênh mông kia trong tận cùng bầu trời.

Khi mọi người đứng quây quần bên tù trưởng Ma el Aĩnine đều lần lượt dứt lời - tất cả những người mà Nour đã từng nghe cha cậu nêu tên xưa kia, các thủ lĩnh của những bộ lạc hiếu chiến, những con người của truyền thuyết, những người Maqil, Arib, Oulad Yahia, Oulad Delim, Aroussiyine, Icherguiguine, những người Reguibat với khuôn mặt che mạng đen, và những người nói bằng ngôn ngữ Berbère, những người Idaou Belal, Idaou Meribat, Alt ba Amrane, và cả những người có những cái tên xa lạ, đến từ những nơi cùng kiệt của xứ Mauritanie, của thành phố Tombouctou, những người không thích ngồi bên lò lửa mà chỉ đứng gần ngõ vào quảng trường, phủ áo khoác, dáng vẻ vừa sợ sệt vừa khinh khỉnh, những con người không muốn nói chuyện. Nour nhìn tất cả bọn họ, hết đám người này tới đám người kia, và cậu cảm thấy một khoảng trống được đào sâu trên khuôn mặt của họ như thể họ sắp chết tới nơi rồi.

Ma el Aĩnine không thấy họ. Lão không nhìn ai cả, trừ một lần, có thể, khi cái nhìn của lão dừng lại giây lát trên khuôn mặt của Nour, như ngạc nhiên vì gặp cậu giữa chỗ đông người thế này. Chính từ khoảnh khắc đó, nhanh như một tia phản chiếu hầu như không thể nhận ra được, nhưng tim Nour bắt đầu đập nhanh hơn và mạnh hơn, chính từ khoảnh khắc đó Nour đã chờ đợi một dấu hiệu mà lão tù trưởng chắc hẳn sẽ ban cho những người đang tập hợp trước mặt lão. Lão già vẫn bất động như đang nghĩ tới điều gì khác, trong khi hai người con trai của lão nghiêng người về phía lão, nói nhỏ. Sau cùng lão lấy từ trong áo xâu tràng hạt bằng gỗ mun của mình và lão ngồi xổm trong bụi, thật chậm rãi, đầu chúi về phía trước. Đoạn lão bắt đầu cầu nguyện bằng cách đọc lên những công thức mà lão đã viết cho chính mình trong khi các người con của lão ngồi xuống bên cạnh. Sau đó, như thể cử chỉ kia đã quá đủ, tiếng rầm rì của những giọng nói chấm dứt, và sự im lặng đến với quảng trường, mãnh liệt và buốt giá trong ánh sáng trắng ngần của vầng trăng đầy đặn. Những tiếng động xa xôi, hầu như không thể nhận ra được, đến từ sa mạc, từ gió, từ đá khô trên các cao nguyên và, và những tiếng sủa ngắt quãng của lũ chó hoang lại bắt đầu lấp đầy không gian. Không chào nhau, không nói một tiếng nào, không gây một tiếng động nào, những người đàn ông lần lượt đứng dậy và rời quảng trường. Họ bước đi trên con đường đầy bụi, từng người một, bởi họ không còn muốn nói chuyện với nhau nữa. Khi cha cậu chạm vào vai cậu, Nour đứng dậy và cũng cất bước. Trước khi rời quảng trường, cậu quay lại nhìn bóng dáng mong manh kỳ lạ của lão già, giờ đây một mình trong ánh trăng, đang vừa ê a tụng kinh vừa lắc lư phần trên của thân thể như một kẻ đang cưỡi ngựa.