Saguiet el Hamra, mùa đông 1909 - 1910 (tt)
Những ngày tiếp theo, nỗi lo âu còn nặng nề hơn nữa trong khu lều trại của thành phố Smara. Thật không thể hiểu nổi nhưng mọi người đều cảm nhận nó như một nỗi đau trong lòng, như một mối đe dọa. Mặt trời thiêu đốt dữ dội vào ban ngày, ánh sáng mãnh liệt của nó phản xạ trên những góc cạnh của sỏi đá và trên những lòng suối khô cằn. Những dãy hoành sơn của vùng Hamada lởm chởm đá rung vang từ xa, và người ta không ngừng trông thấy ảo ảnh trên thung lũng của Saguiet. Từng giờ trong ngày đều có những toán dân du mục mới tới, đờ đẫn vì mệt và khát, họ đến từ miền Nam qua những cuộc đi quá sức, và bóng dáng của họ lẫn lộn với các ảo ảnh lúc nhúc nơi chân trời. Họ đi chậm rì, đôi bàn chân được băng bó trong lớp da dê, vai mang những cái bọc ốm o của họ. Có khi họ dẫn theo những con lạc đà ốm đói, những con ngựa què, những con dê, những con cừu. Họ vội vã dựng lều ờ rìa khu trại. Không ai đến chào họ hay hỏi họ từ đâu tới. Một vài người mang dấu vết thương tích mà họ đã nhận được trong các cuộc chiến đấu chống bọn lính Cơ Đốc hoặc bọn cướp sa mạc; hầu hết đều kiệt sức bởi những chứng sốt và những chứng bệnh tiêu hóa. Thỉnh thoảng một đám tàn quân của một đội quân bị tàn sát hàng loạt tới đây, không người chỉ huy, không đàn bà, những người da đen gần như trần truồng Trong lớp quần áo rách tơi tả, cái nhìn trống hoác và sáng rực vì chứng sốt và cơn điên loạn. Họ đến uống nước nơi mạch nước trước cửa vào Smara, rồi nằm lăn ra dưới bóng các bức tượng của thành phố như để ngủ, nhưng mắt họ vẫn mở trừng.
Từ đêm các bộ lạc tập họp, Nour không gặp lại Ma el Aĩnine lẫn những người con trai của lão. Nhưng cậu có cảm giác rằng những tiếng rầm rì đã lắng dịu khi lão tù trưởng bắt đầu đọc kinh cầu nguyện thật ra chưa dứt hẳn. Giờ thì những tiếng rì rầm không còn nằm trong lời nói. Cha cậu, người anh cả của cậu, mẹ cậu đều không nói gì, và họ quay mặt đi như không muốn người ta hỏi gì họ hết. Nhưng nỗi lo lắng cứ lớn dần lên trong những tiếng động của khu trại, trong những tiếng kêu của loài vật đang nôn nóng, trong tiếng bước chân của những người lữ hành mới đến từ miền Nam, trong các lời lẽ gay gắt khó chịu mà đám đàn ông ném ra cho nhau hoặc tạt vào con cái của họ. Nỗi lo lắng cũng hiển hiện trong những cái mùi dữ dội, mồ hôi, nước tiểu, cái đói, toàn bộ cái vị hăng này đến từ đất và những ngóc ngách của khu trại. Nó lớn lên trong sự khan hiếm của thực phẩm, vài trái chà là có hạt tiêu, sữa đông và bột nhão đại mạch mà người ta ăn vội vàng vào giờ khắc đầu tiên của ban ngày, khi mặt trời chưa nhô khỏi các cồn cát. Nỗi lo lắng hiển hiện trong nước giếng bẩn thỉu mà những bước chân của người và vật đã khuấy đục, và trà xanh không sao cải thiện được. Từ lâu rồi người ta không còn đường cũng không còn mật, và những trái chà là thì khô như đá, còn thịt là thứ thịt hăng hắc và cứng còng của những con lạc đà chết vì kiệt sức. Nỗi lo lắng tăng dần trong những cái miệng khô khốc và trong những ngón tay ứa máu, trong sức nặng đè lên đầu và vai con người, trong hơi nóng của ban ngày, rồi trong cái lạnh của ban đêm khiến trẻ con phải run lập cập trong những nếp thảm cũ.
Mỗi ngày, khi đi qua trước khu trại, Nour nghe tiếng những người đàn bà khóc than bởi một ai đó vừa mới chết trong đêm. Mỗi ngày, người ta đi xa hơn một chút trong tuyệt vọng và phẫn nộ, và tim Nour càng se thắt hơn. Cậu nghĩ tới cái nhìn của lão tù trưởng đang bềnh bồng nơi nào xa lắc trên các ngọn đồi vô hình của đêm tối, rồi hướng về cậu trong phút giây ngắn ngủi, như một ánh phản chiếu, và soi sáng cậu ở phần bên trong của chính cậu.
Tất cả, họ từ những nơi rất xa tìm về Smara, như thể đó là đích đến trong chuyến đi của họ. Như thể không còn gì để mất nữa. Họ đã đến bởi đất sụt lở dưới chân họ, như thể nó sụp đổ sau lưng họ và từ đây họ không thể nào trở lại phía sau. Và bây giờ họ đang ở đó, hàng trăm con người, hàng nghìn con người, trên một vùng đất không thể tiếp nhận họ, một vùng đất không nước, không cây cối, không thực phẩm. Cái nhìn của họ không ngớt hướng về tất cả mọi điểm của vòng chân trời, về những ngọn núi não lòng của miền Nam, về sa mạc miền Đông, về những lòng suối khô cằn của Saguiet, về những cao nguyên miền Bắc. Cái nhìn của họ cũng mất hút trong bầu trời trống rỗng, không một gợn mây, nơi mặt trời đổ lửa làm lóa mắt. Thế là nỗi lo lắng trở thành nỗi sợ hãi, và nỗi sợ hãi trở thành sự giận dữ, và Nour nghe một luồng sóng kỳ lạ chạy qua trên khu trại, có thể là một cái mùi, nó dâng lên từ những tấm vải lều và lượn quanh thành phố Smara. Đó cũng là một cơn say, cơn say của khoảng trống và cái đói đang biến đổi hình thể và màu sắc của trái đất, đang biến đổi màu xanh của bầu trời, đang làm nảy sinh các hồ nước trong vĩ đại trên những bề sâu nóng bỏng của các ruộng muối, đang đem lại mây, chim chóc và ruồi cho không trung.
Nour đến ngồi trong bóng mát của bức thành bằng bùn khi mặt trời đã ngả bóng, và cậu nhìn nơi Ma el Aĩnine đã xuất hiện vào đêm kia, trên quảng trường, cái nơi vô hình mà lão đã ngồi xổm để cầu nguyện. Đôi khi nhiều người đàn ông khác cũng đến ngồi như cậu, bất động nơi ngõ vào quảng trường, nhìn lên bức thành bằng đất đỏ với những khung cửa sổ hẹp. Họ không nói gì, họ chỉ nhìn. Rồi họ quay về trại của họ.
Tiếp đến, sau bao ngày sợ hãi và giận dữ trên mặt đất và dưới bầu trời, sau tất cả những đêm lạnh cóng trong đó người ta chỉ ngủ chút ít, người ta thức giấc bất chợt, không hiểu vì sao, hai mắt dáo dác, thân thể ướt đẫm một thứ mồ hôi tệ hại, sau trọn khoảng thời gian dằng dặc làm người già và trẻ em chết dần, bất chợt người ta biết, mà không hiểu cơ sự ra làm sao, rằng phút lên đường đã tới.
Nour nghe thấy điều đó, thậm chí là trước khi mẹ cậu nhắc tới nó, trước khi anh cả của cậu vừa nói vừa cười với cậu như thể mọi sự đều đã đổi thay: "Chúng ta sắp lên đường, ngày mai hoặc mốt, em hãy nghe cho kỹ, chúng ta sẽ lên đường về miền Bắc, chính tù trưởng Ma el Aĩnine nói thế, chúng ta sẽ đi thật xa khỏi nơi này!" Có thể tin đó truyền đi trong không khí, hoặc trong bụi, cũng có thể Nour đã nghe nó khi nhìn xuống mặt đất nện trên quảng trường Smara.
Tin truyền ra khắp trại thật nhanh, và không khí vang âm như một điệu nhạc. Những giọng nói đàn ông, những tiếng kêu trẻ nhỏ, những âm thanh của đồng, những tiếng làu nhàu của lạc đà, những tiếng giậm chân và những tràng rắm của ngựa, tất cả giống như tiếng cơn mưa ào tới, trút xuống thung lũng và cuốn theo nó dòng nước đỏ của các con suối. Đàn ông và đàn bà vừa đi vừa chạy dọc các lối đi, những con ngựa giậm chân, những con lạc đà bị buộc thì cắn dây, bởi tất cả đều quá nôn nóng. Dù bầu trời nóng cháy, những người đàn bà vẫn đứng trước các căn lều, hết nói lại la inh ỏi. Không ai nói được là tin được truyền đạt trước tiên ra sao, nhưng mọi người đều lặp lại cái câu khiến họ say sưa, ngây ngất: "Chúng ta sắp lên đường, chúng ta sắp lên đường về miền Bắc."
Đôi mắt của cha Nour ánh lên trong niềm vui náo động.
"Chúng ta sắp lên đường ngay, tù trưởng của chúng ta bảo thế, chúng ta sắp lên đường ngay."
"Đi đâu ạ?" Nour hỏi
"Về miền Bắc, bên kia những ngọn núi vùng Draa, về hướng Souss, Tiznit. Ở đó có nước và có đất cho tất cả chúng ta, chúng đang đợi chúng ta, chính Moulay Hiba, đức vua đích thực của chúng ta, con trai của Ma el Aĩnine đã nói thế và Ahmed Ech Chems cũng nói thế."
Từng nhóm đàn ông đi trên các con đường hướng về thành phố Smara, và Nour bị cuốn vào những con lốc của họ. bụi đỏ tung bay dưới những bước chân đàn ông và dưới sự giẫm đạp của loài vật, tạo thành một đám mây trên khu trại. Những phát đạn súng trường đầu tiên đã vang lên, và mùi hăng của thuốc súng đã xua đuổi mùi sợ hãi bao trùm lên khu trại. Nour bước tới mà không trông thấy được gì, cậu bị xô đẩy theo dòng người, cậu va vấp vào các vách lều. Bụi làm khô cổ họng cậu và đốt nóng mắt cậu. Sức nóng mặt trời thì kinh khiếp, nó ném những ánh chớp trắng xuyên qua lớp bụi dày. Nour bước đi như vậy hồi lâu, hai cánh tay dang ra phía trước. Rồi cậu ngã xuống đất và bò nép vào một căn lều. Trong bóng mờ, cậu có thể hoàn hồn, tỉnh trí. Một bà lão đang ngồi sát tấm vải lều, một chiếc áo khoác màu xanh lam phù trên người bà. Khi thấy Nour, ban đầu bà tưởng cậu là một tên trộm và bà vừa nguyền rủa vừa ném những hòn sỏi vào mặt cậu. Rồi bà đến gần, và bà trông thấy hai má cậu lấm lem bụi với những vệt đỏ do nước mắt chảy dài.
"Cháu làm sao vậy? Cháu có bệnh không?" bà dịu dàng nói.
Cậu lắc đầu. Bà bò về phía cậu
"Cháu bệnh rồi đó", bà nói: "Bà sẽ cho cháu uống trà nhé."
Bà rót nước trà vào một cái cốc bằng đồng
"Cháu uống đi."
Nước trà nóng không đường làm cậu khỏe lại
"Chúng ta sắp sửa đi khỏi chỗ này", cậu ngập ngừng nói
Bà lão nhìn cậu. Bà nhún vai.
“Đúng, họ nói như vậy."
"Đây là một ngày trọng đại của chúng ta", Nour nói
Nhưng bà lão không có vẻ tin rằng điều đó quan trọng đến vậy, có thể vì điều đơn giản là bà đã già.
"Cháu thì có thể đi tới đó, theo họ nói là miền Bắc. Còn bà thì sẽ chết trước khi tới nơi." Bà lặp lại:
"Còn bà thì sẽ chết trước khi tới miền Bắc."
Sau đó, Nour bước ra khỏi căn lều. Những lối đi trong khu trại lại vắng tanh, như thể mọi người đều đã bỏ đi. Nhưng trong các căn lều, Nour còn thấy bóng người: những người già, những người bệnh đang run lên vì sốt dù có lò lửa, những người thiếu phụ đang ôm con nhỏ và đang nhìn về phía trước với đôi mắt trống hoác và buồn thiu. Một lần nữa, Nour nghe thấy tim mình thắt lại bởi dưới những căn lều là bóng của thần chết.
Khi tới gần bức tường bao quanh thành phố, Nour nghe tiếng nhạc nhịp nhàng mỗi lúc một to. Đàn ông và đàn bà đang tập hợp trước cửa vào Smara, tạo thành một hình vòng cung lớn quanh các nhạc công. Người ta nghe tiếng sáo dìu dặt, khi bổng khi trầm rồi im bặt, trong khi tiếng trống và tiếng đàn tam chơi đi chơi lại cùng một tiết nhạc. Một giọng đàn ông, trịnh trọng và đơn điệu, hát một bài hát Andalousie, nhưng Nour không nhận ra được lời. Trên thành phố màu đỏ, bầu trời trơn nhẵn, xanh ngắt, cứng đờ. Lễ hội của các đoàn lữ hành sắp bắt đầu, nó sẽ kéo dài tới hừng đông ngày mai, và có thể tới tận ngày hôm sau nữa. Những lá cờ sẽ phấp phới tung bay, và kỵ binh sẽ vừa đi vòng quanh các thành lũy vừa bắn những phát súng trường trong khi cánh phụ nữ trẻ thì vừa hò reo vừa rung giọng nghe như tiếng lục lạc.
Nour say sưa với âm nhạc và vũ điệu, và cậu quên đi bóng tối chết chóc vẫn còn lảng vảng trong các căn lều. Như thể cậu đã lên đường đi về phía những vách đá cao phía Bắc, nơi bắt đầu của những cao nguyên, nơi phát sinh của những thác nước trong, thứ nước chưa ai trông thấy bao giờ. Tuy nhiên, nỗi lo sợ đã xâm nhập vào cậu khi cậu trông thấy những toán người du mục tới, vẫn còn phảng phất ở một nơi nào đó trong cậu
Cậu muốn được thấy Ma el Aĩnine. Cậu đi vòng qua đám đông, tìm cách nhìn thấy lão ở phía những người đàn ông đang hát. Nhưng lão tù trưởng không có mặt trong đám đông. Thế rồi cậu lại đi về phía cửa vào những thành lũy. Cậu vào thành phố cũng qua cái khe hở mà cậu đã từng đi qua vào đêm tập họp. Quảng trường lớn bằng đất nện giờ đây trống trơn. Các bức tường nhà tù trưởng ánh lên trong ánh mặt trời. Quanh cửa nhà, nhiều hình vẽ lạ trên lớp đất sét của bức tường trắng. Nour đứng một hồi lâu ngắm các hình vẽ, và ngắm các bức tường đã cũ kỹ vì gió. Rồi cậu đi về phía trung tâm quảng trường. Mặt đất cứng và nóng dưới đôi bàn chân trần của cậu như những tấm lát bằng đá của sa mạc. Những tiếng sáo ngừng bặt nơi đây, trong cái sân trống trải này, như thể Nour đang ở đầu bên kia của thế giới. Tất cả trở nên bao la quá khi người con trai bước về phía trung tâm quảng trường. Cậu nghe rõ nhịp đập của máu trong động mạch cổ và thái dương, và nhịp đập của trái tim cậu như vang vọng tới tận nền đất dưới gan bàn chân.
Khi tới gần bức tường đất sét, nơi lão già đã ngồi xổm để đọc kinh cầu nguyên, Nour nhào xuống nền đất, mặt áp sát đất, không cử động, và cũng không nghĩ tới điều gì nữa. Hai bàn tay của cậu bám vào đất như đang bấu víu vào một vách đá cheo leo, và mùi vị của tro trong bụi bặm xông đầy trong miệng và trong mũi cậu.
Sau một hồi lâu, cậu mới dám ngẩng mặt lên và cậu trông thấy cái áo khoác trắng của lão tù trưởng.
"Con làm gì đó?", Ma el Aĩnine hỏi. Giọng của lão thật dịu dàng và xa vắng, như thể lão đang ở cuối quảng trường.
Nour ngập ngừng. Cậu nhổm dậy trên hai gối nhưng đầu cậu vẫn chúi về phía trước bởi cậu không có can đảm nhìn vào lão tù trưởng.
"Con làm gì đó?" lão già lặp lại
"Con... con đang cầu nguyện", Nour nói; và cậu tiếp lời: "Con muốn cầu nguyện."
Lão tù trưởng mỉm cười
"Và con không thể cầu nguyện chứ gì?"
"Dạ, không", Nour nói gọn. Cậu nắm lấy hai bàn tay của lão già
"Con van ngài, hãy ban cho con phép lành của Thượng đế."
Ma el Aĩnine đưa hai bàn tay của lão lướt qua trên đầu Nour, xoa nhẹ gáy cậu. Đoạn lão kéo người con trai đứng dậy và lão hôn cậu.
"Con tên gì?" lão hỏi. "Có phải con là người mà ta đã trông thấy trong đêm tập họp đó không?"
Nour nói tên cậu, tên cha cậu và tên mẹ cậu. Nghe cái tên cuối cùng này, khuôn mặt của Ma el Aĩnine sáng lên.
"Vậy là mẹ con thuộc dòi dõi của Sidi Mohammed, người mà người ta vẫn gọi là AI Azraq, Người Đàn Ông Xanh, phải không?" "Ông ấy là cậu của bà con", Nour nói. "Vậy con đúng là con trai của một vị nữ quý tộc", Ma el Aĩnine nói.
Lão đứng lặng hồi lâu, cái nhìn màu tro đăm đăm hướng vào đôi mắt của Nour như thể lão đang tìm kiếm một ký ức. Đoạn lão nói về Người Đàn Ông Xanh mà lão đã từng gặp trong các ốc đảo miền Bắc, bên kia những núi đá vùng Hamada, vào thời kỳ chưa có gì hiện diện nơi đây, ngay cả thành phố Smara. Người Đàn Ông Xanh sống trong túp lều bằng đá và cành cây ở rìa sa mạc, không chút sợ sệt trước con người lẫn dã thú. Mỗi ngày, vào buổi sáng, Người đều bắt gặp trước cửa lều của mình những trái chà là và một tô sữa đông cùng một hũ nước mát, bởi chính Thượng đế đã canh giữ và nuôi sống Người. Khi Ma el Aĩnine đến gặp Người để xin Người rao giảng, Người Đàn Ông Xanh đã không muốn tiếp lão. Suốt một tháng trời, Người cho lão ngủ trước cửa lều mà không nói với lão lời nào cũng không nhìn đến lão. Đơn giản Người chỉ để lại phân nửa những trái chà là và sữa, và Ma el Aĩnine chưa bao giờ được ăn những thức ngon lành hơn; còn nước trong hũ thì giải được cơn khát tức thì và khiến lão chan hòa niềm vui, bởi nó được làm ra từ những giọt sương thuần khiết nhất.
Tuy nhiên trong một tháng ròng, lão tù trưởng rất buồn lòng vì Al Azraq vẫn không nhìn tới lão. Sau đó lão quyết định trở về với gia đình bởi lão nghĩ Người Đàn Ông Xanh không thấy lão là người xứng đáng được phục vụ Thượng đế. Lão đi trên con đường của làng quê lão, không hy vọng gì, bất chợt trông thấy một người đang đợi lão. Người đó là AI Azraq, Người hỏi tại sao lão rời xa Người. Đoạn Người mời lão ở lại với Người, ở ngay nơi mà Người đã dừng chân. Ma el Aĩnine còn ở lại bên Người nhiều tháng, và một ngày nọ, Người Đàn Ông Xanh bảo Người không còn gì để dạy lão nữa. "Nhưng Người vẫn chưa cho con lời dạy của Người", Ma el Aĩnine nói. Thế là Al Azraq chỉ cho lão đĩa chà là, tô sữa đồng và hũ nước. "Ta đã không chia sẻ với con tất cả các thứ này mỗi ngày từ lúc con tới hay sao?" Tiếp theo, Người chỉ cho lão chân trời ở hướng Bắc, về phía Saguiet el Hamra, và bảo lão hãy xây dựng một thành phố thánh cho những người con trai của lão, và Người còn báo trước rằng một người trong số họ sẽ trở thành vua. Thế là Ma el Aĩnine đã rời khỏi làng quê cùng với người thân, và lão đã xây dựng thành phố Smara.
Khi kể xong câu chuyện trên, lão tù trưởng lại hôn Nour và quay trở vào trong bóng tối ngôi nhà của lão.
Hôm sau, vào buổi mặt trời lặn, Ma el Aĩnine rời khỏi nhà để đọc bài kinh cầu nguyện cuối cùng. Đàn ông và đàn bà trong trại gần như không ngủ, bởi họ không ngừng hát và giậm chân xuống mặt đất. Nhưng chuyến đi lớn về phía bên kia sa mạc đã bắt đầu, và cơn say của cuộc đi dọc con đường cát đã có trong thân thể họ, nó làm cho họ chan hòa trong hơi thở nóng bỏng, nó làm lấp lánh những ảo ảnh trước mắt họ. Không ai quên được cái đau, cái khát, cái nóng ghê hồn của mặt trời trên cát và đá không cùng không tận, cũng không quên được chân trời đang lùi xa mãi. Không ai quên được cái đói gặm mòn con người, không riêng gì cái đói thực phẩm, mà tất cả cái đói, đói hy vọng và giải phóng, đói tất cả những gì còn thiếu thốn và đang đào sâu cơn choáng váng trên mặt đất, cái đói xô đẩy người ta về phía trước trong những lớp bụi mù mịt giữa đàn thú ngây dại, cái đói bắt người ta phải leo tới tận đỉnh các ngọn đồi nơi người ta phải trở xuống với hàng chục, hàng trăm ngọn đồi khác giống hệt ở trước mặt.
Ma el Aĩnine lại ngồi xổm trên đất nện giữa quảng trường, cạnh những ngôi nhà quét vôi. Nhưng lần này các thủ lĩnh bộ lạc đã ngồi bên lão. Lão chỉ cho Nour và cha cậu ngồi sát bên lão trong lúc người anh cả và mẹ cậu còn trong đám đông. Tất cả đàn ông và đàn bà trong trại đều tụ tập thành hình vòng cung trên quảng trường, một số người ngồi xổm, với áo khoác len phủ lên người để chống cái lạnh về đêm, những người khác thì đứng hoặc đi lại dọc theo các bức tường của quảng trường. Đám nhạc công chơi nhạc buồn bằng cách gảy vào sợi dây đàn ghi ta và dùng đầu ngón trỏ gõ lên lớp da của những cái trống đất nhỏ.
Giờ đây gió sa mạc thổi từng chập, nó ném vào mặt người những hạt cát làm cháy da. Trên quảng trường, bầu trời màu lam tối đã muốn chuyển sang màu đen. Khắp nơi, quanh thành phố Samra, là niềm im lặng vô tận, niềm im lặng của những ngọn đồi đá đỏ, niềm im lặng của màu lam sâu hun hút của đêm. Như thể không hề có ai khác ngoài những con người này, bị cầm tù trong cái miệng núi lửa cỏn con bằng bùn khô của họ, bám chặt vào vùng đất đỏ quanh vũng nước xám ngắt. Ở chỗ khác là đá và gió, những đợt sóng của cồn cát, muối, rồi biển, hoặc sa mạc.
Khi Ma el Aĩnine bắt đầu đọc bài kinh cầu dzikz của mình, giọng lão vang âm một cách kỳ lạ trong không khí im lặng của quảng trường, giống như tiếng gọi xa xôi của một con dê cái. Lão hát, giọng như thấp xuống, đồng thời lắc lư phần trên thân thể lão từ trước ra sau, nhưng niềm im lặng trên quảng trường, trong thành phố và trên toàn thung lũng Saguiet el Hamra bắt nguồn từ khoảng trống của gió sa mạc, và giọng của lão già trong sáng và chắc khỏe như giọng một con vật đầy sức sống.
Nour vừa lắng nghe tiếng gọi dài vừa rùng mình. Mỗi người đàn ông và mỗi người đàn bà trên quảng trường đều im lìm bất động, cái nhìn như dội ngược vào phần bên trong của thân thể.
Phía Tây, trên những ngọn núi đá lởm chởm của vùng Hamada, mặt trời trông giống như cái đốm to tướng đỏ rực. Những cái bóng kéo ra dài ngoằng trên mặt đất rồi nhập vào nhau, như nước đang dâng lên.
"Vinh quang thuộc về Thượng đế, hỡi Thượng đế đời đời hiện hữu, hỡi Thượng đế không chết bao giờ, vinh quang thuộc về Thượng đế không có cha lẫn con, không có chỗ tựa, một mình và do chính mình mà có, vinh quang thuộc về Thượng đế là người dìu dắt chúng con, bởi các sứ giả của Thượng đế đã mang chân lý tới..."
Giọng Ma el Aĩnine run run sau mỗi lời cầu, hụt hơi, mong manh như một ngọn lửa, tuy nhiên từng âm tiết dài, nổi bật và thuần phác vang lên nơi trung tâm của sự im lặng.
"Vinh quang thuộc về Thượng đế người ban cho độc nhất, người thấy độc nhất, người biết, thấy, hiểu và sai khiến, vinh quang thuộc về người mang đến cái tốt và cái xấu, bởi lời nói của Người là nơi ẩn náu duy nhất, bởi ý chí của Người là ước vọng duy nhất, chống lại cái xấu mà con người đã gây ra, chống lại cái chết, chống lại bệnh tật, chống lại sự đau khổ đã được tạo ra cùng thế giới..."
Đêm dần dần lấp đầy tất cả, trước tiên là mặt đất và những chỗ trũng của cát, dưới chân những bức tường bằng đất bùn, trước những con người bất động, dưới những tấm vải lều, trong những cái lỗ nơi chó nằm ngủ, trong chiều sâu có màu lục của nước giếng.
"Đó là tên của người chở che, tên của Người đã đến với con và cho con sức mạnh, bởi tên Người là vĩ đại nhất, tên Người giúp con bất chấp kẻ thù, và con thầm đọc tên Người khi con bước vào cuộc chiến bởi tên Người là cái tên ngự trị trên mặt đât và trong bầu trời..."
Trong bầu trời, nơi ánh sáng mặt trời đang lẩn trốn về phương Tây trong khi cái lạnh thoát khỏi những chiều sâu của mặt đất, dâng lên qua cát cứng và len vào chân con người
"Vinh quang thuộc về Thượng đế bao la, chỉ có sức mạnh và quyền uy nơi Thượng đế, đấng tối cao, nơi Thượng đế, đấng bao la, Thượng đế, đấng tối cao, Thượng đế, đấng bao la, Người không đến từ mặt đất lẫn bầu trời, người sống ở ngoài cái nhìn của con, ở ngoài sự hiểu biết của con, Người hiểu con nhưng lại là người mà con không thể hiểu nổi, Thượng đế đấng tối thượng, Thượng đế đấng bao la..."
Giọng nói của Ma el Aĩnine vang vọng rất xa trong sa mạc, như thể nó bay tới tận những nơi cùng kiệt của trái đất sầu não, xa khỏi các cồn cát và khe núi, ở bên kia những ngọn đồi trần trụi và những thung lũng khô Cứng, như thể nó đã tới tận các vùng đất mới, ở bên kia những ngọn núi vùng Draa, trên những cánh đồng lúa mì và kê nơi cuối cùng con người sẽ tìm được thực phẩm.
"Thượng đế đấng quyền uy, Thượng đế đấng toàn bích, bởi không có thiên tính nào khác ngoài Thượng đế đấng thánh hiền đầy quyền uy, đấng tối cao đầy lòng nhân, đấng gần gũi đầy thông tuệ, đấng ban tặng khôn cùng, đấng bao dung độc nhất, đấng nghĩa ân, đấng chỉ huy các đạo quân của bầu trời và mặt đất, đấng toàn bích, đấng dịu hiền..."
Giọng yếu ớt và xa vắng làm động lòng từng người đàn ông, từng người đàn bà, như chạm tới phần bên trong của thân thể họ, và như thể nó thốt ra từ cổ họng họ, như thể nó hòa lẫn với những tư tưởng và những lời nói của họ, để làm nên nhạc điệu của nó.
"Vinh quang cùng những gì tốt đẹp nhất thuộc về đấng vĩnh hằng, vinh quang cùng những gì tốt đẹp nhất thuộc về đấng bất diệt, đấng có cuộc hiện sinh là tối thượng, bởi Người là đấng hằng nghe và hằng biết...".
Không khí ập vào ngực Ma el Aĩnine, sau đó lão thở hắt ra gần như không động đậy đôi môi, mắt lão nhắm nghiền, phần trên của thân thể lão lắc lư như một cái cây.
"Thượng đế của chúng con, vị chúa tể, Thượng đế của chúng con, người tốt nhất, ánh sáng của ánh sáng, thiên thể của đêm, bóng tối của bóng tối, Thượng đế của chúng con, chân lý độc nhất, ngôn từ độc nhất, vinh quang và suy tôn dành cho người đang chiến đấu trong cuộc chiến của chúng con, vinh quang cùng những gì tốt đẹp nhất thuộc về người mà cái tên đã đủ lật nhào những kẻ thù của chúng con, vị chúa tể trên đất Thượng đế..."
Sau đó đàn ông và đàn bà cùng thốt lên những lời của bài kinh cầu mà chính họ cũng không hay biết, chính giọng nói của họ cất lên mỗi lần giọng nói của lão già ngừng lại trong run rẩy.
"Người thật vĩ đại, đấng quyền uy, đấng toàn bích, người là chúa tể của chúng con và là Thượng đế của chúng con, người mà tên được viết trên da thịt chúng con, đấng chí tôn, đấng hiển thánh, đấng thiên khải, người không có ai là thầy, người đã từng nói: ta là một kho tàng ẩn giấu, ta muốn được mọi người biết tới, và để được điều đó ta đã sáng tạo ra con người..."
"Người thật vĩ đại, người không có đối thủ cũng không có kẻ đồng đẳng, người là đấng có trước mọi cuộc sinh tồn, đấng đã sáng tạo ra sự sinh tồn, đấng trường tồn, đấng chiếm hữu, đấng trông thấy, nghe thấy và thấu hiểu tất cả, đấng toàn bích, đấng vô song..."
"Người thật vĩ đại, thật đẹp đẽ trong trái tim những con người trung thành với Người, Người thuần khiết trong trái tim kẻ đã nhận ra Người, Người vô song trong tâm hồn kẻ đã vươn tới Người, Người là chúa tể của chúng con, vị chúa tể cao vời nhất..."
"Người không có đối thủ cũng không có kẻ đồng đẳng, Người là đấng sống trên đỉnh của ngọn núi cao nhất, là đấng sống trong cát sa mạc, là đấng sống trong biển, trong bầu trời, trong nước, là đấng mệnh danh là con đường, là đấng thuộc về đêm và những vì sao..."
Bây giờ các nhạc công thốt nhiên tấu nhạc nhưng chính họ cũng không nhận ra điều đó, và thứ âm nhạc êm dịu của họ phụ họa với giọng nói của Ma el Aĩnine với tiếng măng đô lin the thé và trầm đục, với tiếng trống nhỏ rì rầm, rồi bất chợt đứt đoạn như tiếng chim kêu, với giai điệu thuần khiết của những cây sáo bằng ống sậy.
Giờ đây, giọng nói của lão già và âm điệu của những ống sậy tương hợp như thể chúng nói cùng điều giống nhau, vượt lên trên tiếng nói của con người và tiếng chân bước thình thịch trên nền đất cứng.
"Người không có đối thủ cũng không có kẻ đồng đẳng, bởi Người là đấng quyền uy, là đấng hiện hữu không do ai sáng tạo, là ánh sáng mang lại sự sống cho những ngọn nến, là ngọn lửa nhóm lên những ngọn lửa khác, là mặt trời đầu tiên, là vì sao đầu tiên của đêm tối, là đấng sinh ra trước mọi sự sinh thành, là đấng khai sinh và hủy diệt mọi sự sống trên trái đất, là đang tác tạo và tháo dỡ mọi hình thù của muôn loài...".
Thế rồi đám đông nhảy múa và hét hò vang dậy:
"Houvva! Ngài đó!" vừa lắc lư đầu vừa giơ lòng bàn tay về phía bầu trời đen.
"Người là đấng đã mang chân lý tới mọi thánh thần, dâng đã ban phép lành cho đức Mohammed, đấng đã ban quyền uy và ngôn từ cho nhà tiên tri, chúa tể của chúng con, sứ giả của Thượng đế trên trái đất...".
"A! Ngài đó!"
"Vinh quang thuộc về Thượng đế, những gì tốt đẹp nhất thuộc về Thượng đế, đấng bao la, đấng toàn bích, trái tim của sự bí ẩn, Người được khắc ghi trong lòng mọi người, đấng tối thượng, đấng bao la...".
"Houvva! Ngài đó!"
"Vinh quang thuộc về Thượng đế bởi chúng con là những sinh linh của Người, chúng con nghèo hèn, chúng con dốt nát, chúng con mù, điếc, chúng con bất toàn...".
"A! Houvva!"
"Ôi Đấng của mọi điều sáng tỏ, hãy ban cho chúng con chân lý! Ôi Người là đấng hiền dịu, đấng nhân từ, đấng nhẫn nại, đấng độ lượng, Người không cần một ai để hiện hữu!"
"A! Houwa!"
"Vinh quang thuộc về Thượng đế vốn là vua, là thánh, là đấng quyền uy, là người chiến thắng, là người vinh quang, là người hiện hữu trước mọi cuộc sống, là thần linh, là đấng bao la, là đấng chí tôn, là người chiến thắng trước mọi kẻ thù, là người biết tất cả, thấy tất cả, nghe tất cả, là thần linh, nhà thông thái, đấng bao la, người sáng tạo, đấng độc tôn, đấng bao la, người thấy tất cả, nghe tất cả, là đấng toàn mỹ, đấng độ lượng, đấng dũng liệt, đấng toàn bích, đấng tối thượng, đấng bao la..."
Giờ đây Ma el Aĩnine đã hét to. Rồi bất chợt ngừng bặt như tiếng gáy của loài dế trong đêm. Rồi thì tiếng rì rầm của những giọng nói và những tiếng trống cũng lặng im, tiếng đàn ghi ta và sáo cũng lặng tắt, và một lần nữa chỉ còn lại niềm im lặng ghê rợn kéo dài siết chặt hai thái dương và khiến cho tim phải phập phồng. Đôi mắt nhòa lệ, Nour nhìn lão già đang nghiêng về phía mặt đất, hai bàn tay ôm lấy mặt, và cậu nghe trong tận cùng của chính cậu, nhanh như một lưỡi dao, một cảm giác hãi hùng cực độ mà cậu chưa từng biết tới. Thế rồi đến lượt Larhdaf, người con trai thứ ba của Ma el Aĩnine, cất tiếng hát. Tiếng hát hùng tráng của anh bùng vỡ trên quảng trường, không phải với cái sắc nét thuần túy trong giọng Ma el Aĩnine, mà giống như một âm thanh cuồng nộ, và ngay lúc đó, các nhạc công lại bắt đầu tấu nhạc.
"Ôi Thượng đế, Thượng đế của chúng con! Người hãy đón nhận những chứng nhân của lòng tin và chân lý, những bạn đường của Moulay bou Azza, của Bekkaĩa, những bạn đường của những người Goudfia, người hãy lắng nghe những lời nói của kỷ niệm đúng như chúa tể của chúng con tù trưởng Ma el Aĩnine, đã thốt lên!"
Những tiếng rì rầm chợt biến thành những tiếng hò reo.
"Vinh quang thuộc về tù trưởng Ma el Aĩnine của chúng con, vinh quang thuộc về sứ giả của Thượng đế!".
"Vinh quang thuộc về tù trưởng Ma el Aĩnine! Vinh quang thuộc về bạn đường của những người Goudfia!".
"Ôi Thượng đế, Người hãy nghe kỷ niệm của con trai người, tù trưởng Ahmed mà mọi người vẫn gọi là ech Chems, Mặt Trời, người hãy nghe kỷ niệm về Ahmed ed Dehiba, con trai của người mệnh danh là Mảnh Vàng, Moulay Hiba, đức vua đích thực của chúng con!"
"Vinh quang thuộc về họ! Vinh quang thuộc về Moulay Hiba, đức vua của chúng con!"
Giờ đây những người đàn ông lại trở về với cơn ngây ngất của họ, và cái giọng khàn khàn của người thanh niên như làm thức dậy cơn thịnh nộ và xua đuổi cái mệt.
"Ôi Thượng đế, Thượng đế của chúng con, Người hãy bằng lòng với những kẻ cùng đi với Người và những kẻ tiếp bước theo Người! Những con người vinh quang và cao cả, xin Thượng đế hãy bằng lòng với họ! Những con người của tình yêu và chân lý, xin Thượng đế hãy bằng lòng với họ! Những con người chung thủy và thuần phác, xin Thượng đế hãy bằng lòng với họ! Những đấng chúa tể, những con người thanh cao, những chiến binh, xin Thượng đế hãy bằng lòng với họ! Những vị thánh, những người được ban phúc lành, những người phục vụ đức tin, xin Thượng đế hãy bằng lòng với họ! Những kẻ nghèo khó, những kẻ lang thang, những kẻ khốn khổ, xin Thượng đế hãy bằng lòng với họ! Mong Thượng đế chấp thuận cho chúng con được hưởng đại phúc của người!"
Tiếng rì rầm lớn lên, và dội vào những bức tường nhà, trong khi những giọng nói hét lên những cái tên, khắc ghi chúng mãi mãi vào trí nhớ, trên nền đất lạnh lẽo và trần trụi, và trong bầu trời đầy sao.
"Đại phúc của vị chúa tể, sứ giả của Thượng đế, hãy ban xuống chúng con, ôi Thượng đế, và đại phúc của thiên sứ Ilias, đại phúc của El Khadir, người đã uống nơi suối nguồn của cuộc sống. Ôi Thượng đế và phúc lành của Ouways Qami, ôi Thượng đế, và phúc lành của Abd el Qâdir al Jilani vĩ đại, vị thánh của thành phố Bagdad, sứ giả của Thượng đế trên mặt đất này, ôi Thượng đế..."
Những cái tên vang dậy trong niềm im lặng của đêm, vượt lên trên những điệu nhạc đang thì thầm và lay động, không nghe ra được, như một hơi thở.
"Chúng con gồm tất cả những con người trên mặt đất, và những con người của biển cả, ôi Thượng đế, những con người của miền Bắc, những con người của miền Nam, ôi Thượng đế. Những con người của miền Đông. Những con người của miền Tây, ôi Thượng đế. Những con người của bầu trời những con người của mặt đất, ôi Thượng đế..."
Những lời lẽ của kỷ niệm bao giờ cũng đẹp nhất, chúng đến từ vùng xa xôi nhất của sa mạc để gặp lại trái tim của từng người đàn ông, từng người đàn bà, như một giấc mơ xưa cũ lại bắt đầu.
"Ôi Thượng đế xin hãy ban cho chúng con đại phúc của những vị chúa tể, Abou Yaza, Yalannour Abou Madian, Maarouí, AI Jounaid, Al Hallaj, Al Chibli, những vị chúa tể vĩ đại thần thánh của thành phố Bagdad..."
Ánh trăng từ từ xuất hiện phía trên những ngọn đồi đá, về hướng Đông Saguiet, và Nour vừa nhìn nó vừa lắc lư thân mình, đôi mắt bất động trước cái sâu thẳm của bầu trời tối đen. Ở giữa quảng trường, lão tù trưởng Ma el Aĩnine vẫn trong tư thế nghiêng nghiêng, lão trắng bệch, gần như ma quái. Chỉ có những ngón tay gầy gò của lão là động đậy, chúng đang lần tràng hạt bằng gỗ mun.
"Ôi Thượng đế, Người hãy ban cho chúng con phúc lành của các vị chúa tể, AI Halwi, người nhảy múa cho trẻ nhỏ, Ibn Haouari, Tsaouri, Younous ibn Obaĩd, Baẹri, Abou Yazrd, Mohammed as Saghir as Souhaili, người giảng những ngôn từ của Thượng đế, Abdesselaam, Glazali, Abou Chouhaỉb, Abou Mahdi, Malik, Abou Mohammed Abdelazziz ath Thobba, vị thánh của thành phố Marrakech, ôi Thượng đế!"
Những cái tên chính là cơn say của kỷ niệm, chúng giống như con mắt của các chòm sao và cái nhìn lạc lõng của chúng tạo ra sức mạnh, nơi đây, trên quảng trường giá lạnh, nơi mọi người đang tập hợp.
"Thượng đế, ôi Thượng đế, Người hãy ban cho chúng con phúc lành của tất cả những vị chúa tể, những bạn đường, những người tùy tùng, đội quân chiến thắng của người, Abou Ibrahim Tounsi, Sidi bel Abbas Sebtí, Sidi Ahmed el Haritsi, Sidi Jakir, Abou Zakri Yahia an Navvâni, Sidi Mohammed ben Issa, Sidi Ahmed er Riíaĩ, Mohammed bel Sliman al Jazouli, vị chúa tể vĩ đại, sứ giả của Thượng đế trên mặt đất này, vị thánh của thành phố Marrakech, ôi Thượng đế!"
Những cái tên trở đi trở lại trên tất cả những đôi môi, tên người, tên sao, tên của những hạt cát trong gió sa mạc, tên của những ngày và những đêm vô tận, ở bên kia cái chết.
"Thượng đế, ôi Thượng đế, hãy ban cho chúng con phúc lành của tất cả những vị chúa tể trên trái đất, những người đã tỏ điều bí mật, những người hiểu cuộc sống và sự tha thứ, những vị chúa tể đích thực của mặt đất, của biển cả và của bầu trời. Sidi Abderrhaman, mệnh danh là Cahabi, bạn đường của bậc tiên tri, Sidi Abdelqâdir, Sidi Embarek, Sidi Belkheừ, người vắt sữa từ một con dê đực, Lalla Mancoura, Lalla Fathima, Sidi Ahmed ai Haroussi, người ráp lại một cái hũ vỡ, Sidi Mohammed, người mệnh danh là Al Azraq, Người Đàn Ông Xanh, người chỉ đường cho tù trưởng vĩ đại Ma el Aĩnine, Sidi Mohammed ech Cheikh el Kaamel, người toàn bích, và tất cả những vị chúa tể của mặt đất, của biển cả và của bầu trời..."
Im lặng lại trở về, cuồng nhiệt và lấp lánh. Giai điệu của các ống sáo thi thoảng lại vang lên, thoảng qua rồi im bặt. Những người đàn ông đứng dậy và bước về phía cổng vào thành phố. Một mình, Ma el Aĩnine không động đậy người nghiêng về phía mặt đất, mắt vẫn nhìn vào điểm vô hình trên mặt đất được soi sáng bởi thứ ánh sáng trắng bệch của vầng trăng.
Khi điệu múa bắt đầu, Nour đứng dậy và nhập vào đám đông. Những người đàn ông giậm lên nền đất cứng dưới bàn chân trần, không tiến cũng không lùi, siết chặt lấy nhau thành một hình trăng lưỡi liềm chắn ngang quảng trường. Tên của Thượng đế được thốt lên vang dậy, như thể mọi người cùng lúc đang đau đớn và xâu xé nhau. Trống đất điểm từng tiếng hét:
“Houwa! Ngài đó!...”, và những người đàn bà thì vừa reo to vừa rung họng.
Đó là một thứ âm nhạc luồn sâu vào đất lạnh, bay cao tới tận cùng bầu trời tối đen, hòa trộn vào quầng sáng của vầng trăng. Hiện không còn thời gian nữa, không còn khổ đau nữa. Những người đàn ông và những người đàn bà vừa gõ lên mặt đất bằng mũi bàn chân và bằng gót chân vừa lặp lại tiếng hét không cưỡng lại được:
“Houwa! Ngài đó!... Hayy!... Sông mãi...”
Đầu họ hết quay sang phải lại quay sang trái, và âm nhạc từ trong thân thể họ vượt qua cuống họng bay tới tận vùng xa xôi nhất của chân trời. Hơi thở khàn khàn và đứt quãng như chắp cánh cho họ bay bổng trên sa mạc bao la, dài theo đêm tối, hướng về những cái đốm nhàn nhạt của buổi bình minh, ở bên kia những ngọn núi, trên vùng đất Souss, hướng về Tiznit, về đồng bằng Fès.
“Houwa! Ngài đó!... Thượng đế đó!”
Giọng khàn của đàn ông hét lên trong cơn ngây ngất với âm thanh trầm đục của những cái trống đất và với những điệu sáo bằng ống sậy trong khi những người đàn bà ngồi xổm vừa lắc lư nửa mình trên, vừa dùng gan bàn tay vỗ vào những vòng kiềng nặng nề bằng bạc và đồng. Giọng họ run lên từng hồi như những tiếng sáo, trong giới hạn mà tri giác con người có thể nhận ra được, rồi ngừng bặt. Bây giờ những người đàn ông lại giậm chân và âm thanh xé ruột của hơi thở họ dội lên quảng trường.
“Houwa! Ngài đó!... Hayy! Sông mãi!... Houwa! Hayy! Houwa! Hayy!”
Mắt họ lim dim, đầu họ ngửa ra sau. Đó là thứ âm thanh vượt khỏi những thế lực tự nhiên, một thứ âm thanh xé toạc hiện thực và đồng thời xoa dịu như động tác qua lại của một lưỡi cưa khổng lồ đang cắt nghiến một thân cây. Mỗi cái thở ra đau đớn và sâu thẳm làm lớn dần vết thương của bầu trời, vết thương hợp nhất con người với không gian, trộn lẫn máu và bạch huyết của họ. Mỗi người hát đều hét to tên của Thượng đế, mỗi lúc một nhanh hơn, cổ vươn ra như một con bò đang rống, trong sự cố gắng, các động mạch cổ của họ trông như những sợi dây. Ánh sáng các lò lửa và ánh trăng sáng trắng soi rõ những thân thể lắc lư, như thể những tia sáng không ngừng nhảy nhót trong đám bụi mờ. Hơi thở hổn hển càng lúc càng dồn dập, nó ném ra những tiếng gọi gần như câm nín, đôi môi bất động, cổ họng hé mở, và trên quảng trường, trong cái trống trải của đêm sa mạc, người ta, chỉ còn nghe tiếng khò khè của những cổ họng đang thở.
"Hh! Hh! Hh! Hh!"
Giờ đây không còn lời nói nữa. Như thể tất cả đều trực tiếp với trung tâm bầu trời và mặt đất, hợp nhất trong hơi thở mãnh liệt của con người, như thể trong sự dồn dập của nó, nhịp thở xóa bỏ ngày đêm, năm tháng, mùa, xóa bỏ cả không gian vắng bóng hy vọng, và kéo lại gần sự kết thúc của mọi chuyến đi, sự kết thúc của mọi thời kỳ. Nỗi thống khổ lớn quá, và cái chuếnh choáng của hơi thở làm tay chân rung động, làm cổ họng giãn nở. Giữa những người đàn ông xếp thành hình vòng cung, những người đàn bà chỉ nhảy múa bằng đôi bàn chân trần, thân thể bất động, hai cánh tay hơi tách khỏi thân thể và run thật nhẹ. Nhịp điệu trầm đục của gót chân họ len vào đất tạo thành những tiếng thình thịch liên hồi như một đạo quân đang đi qua. Bên các nhạc công, những chiến binh miền Nam, mặt che mạng đen, nhảy bật đầu gối lên thật cao như những con chim khổng lồ đang tìm cách bay lên. Rồi dần dần, trong đêm, họ ngừng động đậy. Đàn ông và đàn bà lần lượt ngồi xổm trên mặt đất, hai cánh tay dang ra phía trước, gan bàn tay hướng về phía bầu trời; chỉ có hơi thở khàn khàn của họ tiếp tục hắt ra, ném vào cõi thinh lặng cùng những âm tiết không mệt mỏi:
"Hh! Hh! Houva! Hayy!... Hh! Hh!"
Âm thanh xé ruột của những hơi thở nghe vang dậy và mãnh liệt đến nổi người ta tưởng chừng tất cả đều đã lên đường thật xa khỏi Smara, xuyên qua bầu trời, trong gió lộng, hòa lẫn vào ánh trăng và bụi mỏng sa mạc. Im lặng là điều bất khả, sự cô đơn cũng vậy. Âm thanh của những hơi thở đã lấp đầy cả đêm tối, đã phủ trọn không gian.
Ngồi giữa quảng trường, Ma el Aĩnine không nhìn một ai. Hai bàn tay lão siết chặt xâu tràng hạt đen nhánh, làm rơi từng hạt theo từng hơi thở hắt ra của đám đông. Chính lão là trung tâm của hơi thở, người đã chỉ ra cho mọi người con đường của sa mạc, người đã dẫn từng nhịp thở. Giờ đây lão không còn chờ đợi điều chi nữa. Lão không còn tra hỏi ai nữa. Lão thở, chính lão cũng thở theo hơi gió của bài kinh cầu nguyện, như thể lão và mọi người khác đều có chung một cổ họng, một lồng ngực. Và hơi thở của họ đã mở ra con đường về hướng Bắc, về những vùng đất mới. Lão già không còn cảm nhận tuổi già, cơn mệt, sự lo âu. Hơi thở lưu hành trong lão, nó đến từ tất cả những cái miệng kia, hơi thở vừa dữ dội vừa dịu dàng tăng cường phần sống của lão. Những người đàn ông không nhìn Ma el Aĩnine nữa. Mắt nhắm lại, tay dang rộng, mặt hướng về đêm tối, họ đang bay lượn, họ đang lướt đi trên con đường dẫn về miền Bắc.
Khi ánh sáng ban ngày xuất hiện, ở phương Đông, trên những ngọn đồi đá, đàn ông và đàn bà bắt đầu đi về phía các căn lều. Dù đã qua những ngày và những đêm ngây ngất đó, không người nào cảm thấy mệt. Họ thắng yên ngựa, cuốn những tấm vải lều lớn bằng len, chất đồ đạc lên lưng lạc đà. Mặt trời chưa lên thật cao trong bầu trời khi Nour và anh cậu cất bước trên con đường đầy bụi hướng về miền Bắc. Họ mang trên vai một cái ba lô đựng quần áo và lương thực thực phẩm. Phía trước họ, trên đường, nhiều người đàn ông khác và trẻ em khác cũng đang bước, và bụi màu xám đỏ bắt đầu bay lên về phía bầu trời xanh. Đâu đây tại những cửa vào thành phố Smara, với những chiến binh xanh trên lưng ngựa và những người con trai của mình vây quanh, Ma el Aĩnine nhìn đoàn lữ hành dài đang kéo giãn ra xuyên qua đồng bằng hoang mạc. Thế rồi lão khép lại chiếc áo khoác trắng của mình, và lão dùng bàn chân thúc vào cổ con lạc đà. Chầm chậm, không quay đầu lại, lão rời xa thành phố Smara, lão đi về phía sự cùng tận của mình.