Cuộc sống của những người nô lệ (tt)
Phải chăng cả nơi này cũng có cạm bẫy? Lalla muốn đứng dậy và chạy đi, nhưng cô cảm thấy như bị dính chặt vào chiếc ghế dài bằng chất dẻo, như trong một giấc mơ. Màn đêm dần buông trên thành phố, bóng tối lấp đầy quảng trường, nhận chìm các xó xỉnh, các kẽ nút, len vào qua các cửa sổ với ô kính đã vỡ. Trời bỗng trở lạnh, Lalla ghịt cái áo khoác nâu sát vào người, cô kéo cổ áo lên tới tận mắt. Nhưng cái lạnh từ đế cao su của đôi dép dâng lên chân cô, mông cô, hai bên hông cô. Lalla nhắm mắt để chống chọi, để không còn trông thấy khoảng trống đang cuộn xoáy trên quảng trường, quanh những trò chơi của bọn trẻ bị bỏ không, dưới những con mắt mù lòa của các cửa sổ.
Khi cô mở lại mắt thì không còn ai nữa. Bà lão lai da đen mặc áo dài sặc sỡ đã bỏ đi lúc nào Lalla cũng không hay biết. Thật kỳ lạ, bầu trời và mặt đất đã bớt tôi tăm, như thể đêm đã lùi lại.
Khi bước ra trước biển, Lalla thấy ngày vẫn chưa hết. Có một mảng sáng lớn phía trên Nhà thờ, giữa những tháp chuông. Cô chạy băng qua đại lộ, không thấy những chiếc ô tô đang phóng tới, đang bấm còi inh ỏi và đang chớp đèn pha sáng trưng. Cô từ từ bước tới sân trước Nhà thờ, cô bước lên bậc cầu thang, cô đi qua giữa những hàng cột. Cô nhớ lần đầu tiên mình tới Nhà thờ. Cô rất đỗi sợ hãi, bởi nó lớn lao và chơ vơ quá, như một vách đá. Sau đó chính Radicz tên ăn mày đã chỉ cho cô nơi nó trải qua những đêm mùa hạ khi gió biển thổi vào ấm áp như hơi thở. Nó đã chỉ cho cô nơi người ta trông thấy những con tàu chở hàng lớn vào cảng, vào ban đêm, với những ngọn đèn đỏ và xanh lục của chúng. Nó cũng đã chỉ cho cô nơi người ta có thể trông thấy mặt trăng và những ngôi sao, giữa những cây cột trong sân trước nhà thờ.
Nhưng chiều nay thì không có ai. Lớp đá màu trắng và xanh lục thì lạnh ngắt, niềm im lặng trĩu nặng chỉ bị khuấy động bởi tiếng rít xa xôi của bánh xe ô tô hoặc tiếng ken két của đám dơi đang hay xập xòa dưới mái vòm. Những con bồ câu đã ngủ, chúng đậu rải rác khắp nơi trên các gờ tường, đứng sát bên nhau.
Lalla ngồi lại một hồi trên bậc cầu thang, sát bên lan can bằng đá. Cô nhìn nền đất lốm đốm phân chim và khoảng đất đầy bụi trước sân trước nhà thờ. Gió mạnh thổi qua từng cơn, rít lên qua những lưới sắt. Nỗi cô đơn ở đây lớn quá, như thể người ta đang trên một con tàu giữa biển cả. Nó làm cho đau nhức, nó ghì siết cổ họng và thái dương, nó khiến cho những tiếng động vang âm một cách dị kỳ, nó làm cho ánh sáng xa xa dọc các con đường trở nên bập bùng ma quái.
Sau đó, khi đêm về, Lalla quay bước trở về phía trong thành phố, về phía trên cao. Cô băng qua quảng trường Lenche, nơi những người đàn ông đang chen lấn nhau trước cửa các quán rượu, cô lên dốc Accoules, bàn tay đặt lên tay vịn kép bằng sắt bóng láng mà cô rất thích. Nhưng ngay ở nơi này, nỗi lo lắng cũng không tan biến đi được. Nó ở đằng sau cô, như một con chó lớn lông xù với cái nhìn háu đói đang đi dọc các rãnh lề đường, tìm một khúc xương để gặm. Đó là cơn đói, dĩ nhiên, cơn đói bào mòn bụng dạ, đào khoét khoảng trống của nó trong đầu, nhưng lại là cơn đói đang khao khát tất cả mọi thứ, tất cả những gì bị từ chối, những gì không đạt tới được. Từ lâu lắm rồi loài người không ăn cho thỏa cơn đói của mình, lâu đến đỗi họ không được nghỉ ngơi, cũng chẳng có hạnh phúc, lẫn tình yêu, mà chỉ có được những gian phòng lạnh lẽo dưới hầm phảng phất hơi hướm của nỗi âu lo, chỉ có được những con đường tăm tối kia với lũ chuột chạy rông, với nước dơ dáy lênh láng, với rác rến chất chồng. Cái tồi tàn.
Khi bước tới dọc theo những cái rãnh hẹp trên đường, phó Refuge, phố Moulins, phố Belles-Ecuelles, đường Montbrion, Lalla trông thấy những thứ rác rưởi như từ biển hắt vào, vỏ đồ hộp gỉ sét, giấy vụn, xương, cam héo, rau cỏ, giẻ rách, chai bể, vòng cao su, nắp chai, chim chết mất cánh, gián bị đè nát, bụi, bột, vật thối rữa. Đó là những dấu hiệu của sự cô đơn, của sự ruồng bỏ, như thể mọi người đã lánh xa khỏi thành phố này, thế giới này, họ để chúng lại làm mồi cho bệnh tật, cho chết chóc, cho sự lãng quên. Như thể chì còn lại một vài người trong cái thế giới này, những kẻ bất hạnh đang tiếp tục sống trong mấy căn nhà đổ nát kia, trong những căn hộ nom đã giống như nấm mồ kia, trong khi khoảng trống len vào qua những ô cửa sổ há hốc, cái lạnh của đêm dài siết lấy những khung ngực, làm mờ mắt người già và con trẻ.
Lalla tiếp tục bước tới giữa những đống vôi gạch đổ nát, cô đi trên những đống thạch cao từ đâu rớt xuống. Cô không biết mình đang đi đâu đây. Cô trở lại cùng một con đường nhiều lần, quanh những bức tường cao ngất của bệnh viện lớn. Có thể Aamma đang ở đó, trong nhà bếp thênh thang với những cánh cửa con cáu ghét dưới hầm, đang cầm cây chổi bọt biển chà lên những tấm đá lát không gì tẩy sạch nổi? Lalla không muốn trở lại chỗ Aamma, không bao giờ nữa. Cô rẽ sang những con đường tối tăm trong khi cơn mưa nhẹ hạt bắt đầu rỉ rắc, bởi gió đã ngừng thổi. Những người đàn ông đi qua, những cái bóng đen ngòm, khuôn mặt không rõ nét, chừng như cũng lạc lõng. Lalla nép mình để họ đi qua, cô biến mất trong các khuôn cửa, cô ẩn mình sau những chiếc ô tô đậu lại. Khi đường vắng trở lại, cô bước ra, cô tiếp tục lặng lẽ bước đi, mệt mỏi, ngây ngây buồn ngủ.
Nhưng cô không muốn ngủ. Đâu là nơi cô có thể buông lỏng, quên mình? Thành phố thì quá nguy hiểm, và nỗi âu lo không để cho các cô gái nhà nghèo ngủ yên như con cái nhà giàu.
Có rất nhiều tiếng động trong niềm im lặng của đêm, những tiếng động của cái đói, những tiếng động của nỗi sợ hãi, của sự cô đơn. Có những tiếng động từ giọng say xỉn của những kẻ không nhà, trong xó xỉnh của họ, những tiếng động từ các quán cà phê Ả Rập với thứ âm nhạc đơn điệu không ngừng nghi, và tiếng cười rề rà của những tay chơi cần sa. Có tiếng động khủng khiếp của người đàn ông điên dại chiều nào cũng đánh vợ bằng những quả đấm búa bổ, và cái giọng thất thanh của người vợ lúc đầu còn la hét, sau đó chỉ còn biết khóc lóc tỉ tê và than thân trách phận. Giờ đây, Lalla đang nghe thấy tất cả những tiếng động đó một cách rõ ràng, như thể chúng chưa bao giờ ngừng rền vang. Nhất là có một tiếng động vẫn đuổi theo cô ở bất luận nơi nào cô tới, nó len vào đầu cô, vào bụng cô và lặp lại mãi không thôi cùng một niềm thống khổ: đó là tiếng một đứa bé đang ho sặc sụa trong đêm, ở một nơi nào đó, có thể là trong căn nhà cạnh bên, có phải đó là đứa con trai của người đàn bà Tunisia rất đỗi to béo và xanh xao, với đôi mắt màu xanh lục trông điên điên? Hay đó là một đứa trẻ nào khác đang ho trong một căn nhà cách đây nhiều con đường và rồi một đứa khác nữa đáp lại nó từ một căn gác nhỏ có trần nhà tróc lở, rồi một đứa khác nữa không ngủ được trong cái hốc kê giường lạnh lẽo, và rồi một đứa khác nữa, như thể có hàng chục, hàng trăm đứa trẻ bệnh tật đang cất tiếng ho trong đêm tạo thành cùng một thứ tiếng khàn khàn xé rách cổ họng và phế quản. Lalla dừng bước, lưng áp sát một cánh cửa, cô dùng hết sức bịt chặt hai bên tai bằng gan bàn tay của mình để không còn nghe thấy những tiếng ho của trẻ con đang thét vang trong đêm lạnh, từ nhà này sang nhà khác.
Xa xa, có một ngã rẽ, từ đó, như nhìn từ trên bao lơn xuống, người ta trông thấy ở phía dưới một ngã tư đại lộ giống như một cửa sông, cùng đủ thứ ánh sáng đang nhấp nháy, chói lòa. Thê là Lalla xuống đồi, đi dọc cầu thang, cô vào ngõ Lorette, băng qua khoảng sân rộng với những bức tường sạm đen vì khói và sự khốn cùng, nhốn nháo tiếng máy thu thanh và tiếng người. Cô dừng lại một hồi, đầu quay về phía những khung cửa sổ, như thể một ai đó sắp xuất hiện. Nhưng người ta chỉ nghe thứ tiếng không có tính người của một giọng nói từ máy thu thanh đang hét lên điều gì đó, đang từ từ lặp lại cùng một câu:
"Với âm thanh của điệu nhạc này, thần linh đang bước ra sân khấu!"
Nhưng Lalla không hiểu điều đó có nghĩa gì. Giọng nói không có tính người át tiếng trẻ con ho hắng, tiếng những người đàn ông say xỉn và tiếng người đàn bà khóc tỉ tê. Tiếp đến, cô vào một ngõ tối khác, như một cái hành lang, và cô bước ra đại lộ.
Nơi đây, trong khoảnh khắc, Lalla không còn thấy sợ cũng không thấy buồn nữa. Đám đông hối hả trên vỉa hè, những con mắt lấp lánh, những bàn tay nhanh nhẹn, những bước chân gõ côm cốp trên nền xi măng, những cặp hông uyển chuyển, những bộ quần áo nhàu nát, tích điện. Trên mặt đường những chiếc ô tô, những chiếc xe tải, những chiếc mô tô, bật đèn pha chạy nối đuôi nhau, và ánh đèn phản chiếu lên những mặt kính chớp, tắt không ngừng. Lalla để mặc cho mình bị cuốn theo dòng người, cô không nghĩ tới mình nữa, cô trống rỗng, như thể cô thật sự không còn hiện hữu nữa. Chính vì muốn thế mà cô luôn quay trở lại những đại lộ thênh thang, để được buông trôi, tan biến trong những làn sóng người.
Nhiều ánh sáng quá! Lalla vừa nhìn chúng vừa bước thẳng tới trước. Ánh sáng đủ màu xanh, đỏ, cam, tím, có thứ ánh sáng cố định, có thứ di động tới trước, có thứ nhảy múa tại chỗ như lửa diêm quẹt. Lalla thoáng nghĩ tới bầu trời đầy sao, tới đêm sa mạc mênh mông khi cô nằm dài trên cát cứng bên Hartani, và khi họ cùng thở nhẹ nhàng, như thể họ cùng một thân xác. Nhưng mà khó nhớ quá. Nơi đây, người ta phải bước đi, bước đi cùng với những người khác, như thể người ta biết rõ mình đi đâu, nhưng làm gì có điểm kết thúc của chuyến đi, làm gì có chỗ nấp nơi vùng trũng của cồn cát. Người ta phải bước đi để khỏi ngã, để khỏi bị kẻ khác chà đạp.
Lalla xuống tới tận cuối đại lộ, rồi cô lại đi ngược lên một đại lộ khác, rồi một đại lộ khác nữa. Luôn luôn có nhiều ánh sáng, và tiếng người, cùng tiếng động cơ gầm rú không ngừng. Bây giờ nỗi sợ thoắt trở lại, rồi nỗi lo âu, như thể tất cả những tiếng động từ lốp xe và tiếng bước chân vạch ra những vòng tròn đồng tâm thật lớn trên bờ một cái hố khổng lồ.
Giờ đây, Lalla lại trông thấy họ: họ ở đó, hiện diện khắp nơi, họ ngồi sát những bức tường đen đúa, chen chúc trên mặt đất giữa những cặn bã rác rến hôi thối: những kẻ ăn mày, những ông lão mù với hai bàn tay chìa ra, những thiếu phụ với đôi môi nứt nẻ, đứa con bám lấy bầu ngực mềm nhão của họ, những cô bé ăn mặc rách rưới, mặt đầy vảy, luôn bám chặt vào quần áo khách qua đường, những bà lão đen đúa, tóc rối bời, tất cả những con người bị cái lạnh và cái đói xua đuổi khỏi những căn nhà ổ chuột, và bị xô đẩy như thứ bọt bèo vứt đi trước những con sóng. Họ hiện diện ở đó, nơi trung tâm của thành phố dửng dưng, trong tiếng ồn ào khiến người ta chán ngấy của động cơ và con người, người họ ướt đẫm nước mưa, tóc họ xù lên vì gió, trông họ còn xấu xí và nghèo khổ hơn dưới thứ ánh sáng lờ mờ từ bóng đèn điện. Họ nhìn người qua đường với đôi mắt lờ đờ, đôi mắt nhòe nhoẹt và buồn thảm, lấm lét nhìn thiên hạ như mắt loài chó. Lalla bước đi chầm chậm trước mặt đám người ăn mày, cô nhìn họ với trái tim se thắt, và vẫn là cái khoảng trống kinh khiếp đó đang xoáy sâu cơn lốc của nó nơi đây, trước những thân thể bị bỏ rơi này. Cô bước chậm đến đỗi một người đàn bà lang thang chụp được áo khoác của cô và định kéo cô về phía chị ta. Lalla vùng vẫy, cố gỡ các ngón tay đang bấu chặt vào lớp vải áo khoác của cô; cô thương hại và hãi hùng nhìn khuôn mặt còn trẻ của người đàn bà, đôi má phị ra vì rượu, lốm đốm những vết đỏ vì lạnh, và nhất là đôi mắt xanh lam mù lòa kia, chúng gần như trong suốt với con ngươi không lớn hơn đầu một cây ghim.
"Lại đây! Lại đây mà!" người đàn bà lang thang lặp đi lặp lại trong khi Lalla đang cố gỡ các ngón tay với những cái móng bị gãy ra. Rồi nỗi sợ mạnh hơn, Lalla giật áo khoác của cô ra khỏi hai bàn tay của người đàn bà lang thang và cô chạy thoát trong khi đám người ăn mày khác phá lên cười còn người đàn bà đứng lom khom trên vỉa hè giữa đông quần áo cũ của mình bắt đầu tru tréo lời nguyền rủa.
Tim đập mạnh, Lalla chạy dọc theo đại lộ; cô đụng phải những người đang dạo bước, đang ra vào các quán cà phê, các rạp chiếu bóng; những người đàn ông mặc com lê vừa ăn tối xong, mặt mày còn bóng láng bởi họ đã ráng sức ăn uống cho thật nhiều; những chàng trai sực nức nước hoa, những đôi lứa, những anh nhà binh đang nhởn nhơ dạo bước, những người nước ngoài da đen tóc xoăn, họ nói với cô những từ gì mà cô chẳng hiểu hay thử chộp lấy cô lúc đi qua, rồi buông những tràng cười hô hố.
Các quán cà phê vẫn rền vang một điệu nhạc bất tận, một điệu nhạc man rợ làm nhói tim, nó ngấm ngầm vang âm trong lòng đất, nó rung vang qua cơ thể, trong bụng, trong màng nhĩ. vẫn luôn là cùng một điệu nhạc phát ra từ các quán cà phê, quán rượu, cùng với ánh sáng từ bóng đèn nê ông với đủ màu đỏ, xanh lục, cam, nó nện vào những bức tường, những chiếc bàn, những khuôn mặt phụ nữ bự phấn.
Từ bao lâu rồi Lalla vẫn bước tới giữa những cơn lốc kia, giữa điệu nhạc kia? Cô không biết nữa. Từ nhiều giờ rồi; cũng có thể là từ nhiều đêm trọn rồi, những đêm không có đến một ngày làm gián đoạn. Cô nghĩ tới vùng cao nguyên đá mênh mông về đêm, với những gò toàn đá dăm sắc nhọn như lưỡi dao lam, những con đường mòn của thỏ rừng và rắn độc dưới ánh trăng, và cô nhìn quanh, nơi đây, như thể cô sắp sửa thấy chú xuất hiện. Chú Hartani trong chiếc áo khoác bằng len thô, với đôi mắt sáng quắc trên khuôn mặt sạm đen, với những cử chỉ chậm chạp và vươn dài như dáng điệu loài linh dương. Nhưng chỉ có đại lộ này thôi, vẫn là đại lộ này thôi, và những ngã tư đầy những khuôn mặt, những con mắt, những cái miệng, với những tiếng la lối, những lời lẽ, những tiếng thì thầm kia. Rồi những tiếng động cơ và tiếng còi, cùng thứ ánh sáng chói lòa kia nữa. Người ta không thấy bầu trời, như thể có một lớp áo trắng bọc kín lấy trái đất. Làm thế nào họ có thể tới tận đây chứ, chú Hartani, và chàng, người chiến binh xanh của sa mạc, Es Ser, Bí Mật, như cô đã từng gọi chàng ngày xưa? Họ sẽ không thể trông thấy cô qua lần áo bọc màu trắng kia đang ngăn cách thành phố này với bầu trời. Họ sẽ không thể nhận ra cô giữa bao nhiêu khuôn mặt, bao nhiêu thân thể, cùng tất cả những chiếc ô tô, xe tải rồi mô tó kia. Họ thậm chí cũng không thể nghe ra giọng nói của cô, nơi đây, giữa tất cả những giọng đang nói đủ thứ tiếng này cùng với thứ âm nhạc kia đang rền vang, đang làm rung chuyển mặt đất. Chính vì vậy mà Lalla không tìm họ nữa, không nói với họ nữa, như thể họ đã mãi mãi biến mất, như thể đối với cô họ đã chết.
Đám người ăn mày vẫn ở đó, ngay nơi trung tâm thành phố, trong đêm. Mưa đã thôi rơi, và đêm thì trắng toát, xa xôi, đã tới tận nửa đêm rồi. Bóng người đã thưa thớt. Họ bước vào và ra khỏi các quán cà phê, quán rượu, rồi họ lẩn trốn trong những chiếc ô tô chạy hết tốc lực. Lalla rẽ phải, đi vào con đường hẹp hơi dốc lên, rồi cô vừa bước đi vừa ẩn mình sau những chiếc ô tồ đậu lại. Ở vỉa hè bên kia, có mấy người đàn ông. Họ đứng im, không nói gì. Họ nhìn lên phía trên con đường, lôi vào một tòa nhà nhớp nhúa, một cánh cửa nhỏ xíu sơn màu xanh lục mở hé ra một hành lang được soi sáng.
Lalla cũng dừng bước, và cô nấp sau một chiếc xe đưa mắt nhìn. Tim cô đập mạnh, và cái khoảng trống mênh mông của nỗi âu lo phả vào con đường. Tòa nhà đứng sừng sững, như một pháo đài bẩn thỉu, với những cửa sổ không cửa bản, các ô kính thì lấp bằng những tờ giấy báo. Vài cửa sổ được soi sáng bằng một thứ ánh sáng gắt khó chịu hoặc một thứ ánh sáng nhợt nhạt kỳ dị, màu máu. Có thể nói đó là một tên khổng lồ bất động, với hàng chục con mắt đang nhìn hoặc đang ngủ, một tên khổng lồ với sức mạnh ác ôn, sắp sửa ngấu nghiến những người đàn ông bé nhỏ đang đứng đợi dưới đường kia. Lalla yếu đến nỗi cô phải tựa vào thành xe trong khi tay chân run lập cập.
Ngọn gió độc đang thổi vào con đường, chính nó tạo ra khoảng trống trong thành phố, tạo ra cái sợ, cái nghèo, cái đói; chính nó xoáy nén những cơn lốc trên các quảng trường và khiến cho sự im lặng trở nên trĩu nặng trong những căn phòng cô quạnh, nơi người già và trẻ con đang ngột ngạt khó thở. Lalla căm thù nó, ngọn gió đó, cùng tất cả những tên khổng lồ kia với những con mắt mở trừng đang ngự trị trên thành phố chỉ để ngốn ngấu những người đàn ông và những người đàn bà, nghiền nát họ trong cái bụng của nó.
Sau đó cánh cửa nhỏ xíu màu xanh lục của tòa nhà mở toang, và giờ đây trên vỉa hè, đối diện với Lalla, một người đàn bà đang đứng im. Chính chị là người mà những người đàn ông đang vừa nhìn trân trân vừa hút thuốc. Đó là một người đàn bà rất thấp, gần như một người lùn, thân hình sồ sề, với cái đầu bự chễm chệ trên hai vai, không có cổ. Nhưng mặt chị thì trẻ con, với một cái miệng nhỏ xíu, đỏ chót, và đôi mắt đen nhánh có quầng màu xanh lục. Điều đáng kinh ngạc nhất ở chị, sau dáng vẻ lùn tịt của chị, là mái tóc: nó ngắn và xoăn, nó có màu đồng đỏ ánh lên kỳ dị trong ánh sáng của hành lang phía sau chị, và tạo thành một quầng lửa trên cái đầu búp bê mập bự của chị, trông như ma quỷ hiện hình.
Lalla nhìn vào mái tóc của người đàn bà lùn, như bị thôi miên, cô không nhúc nhích, gần như không thở. Gió lạnh thổi mạnh quanh chị, nhưng người đàn bà lùn vẫn đứng trước lối vào tòa nhà, với mái tóc sáng rực trên đầu. Chị mặc một cái váy đen thật ngắn bày ra cặp đùi mập và trắng, cùng một chiếc áo chui đầu hở vai màu tím. Chị mang đôi giày bóng láng với gót nhọn thật cao. Vì trời lạnh, chị thả mấy bước trên quảng trường và tiếng gót giày rền vang trong khoảng trống của con hẻm.
Giờ đây thì những người đàn ông bước tới gần chị, miệng vẫn bập điếu thuốc. Hầu hết đó là những người Ả Rập với mái tóc đen mun, nước da xám thuộc sắc dân nào Lalla không rõ, như thể họ sống dưới đất và chỉ bước ra vào ban đêm. Họ có vẻ hung hăng, ngoan cố, với đôi môi mím chặt và cái nhìn gay gắt. Người đàn bà lùn với mái tóc rực lửa thậm chí còn không nhìn đến họ. Chị cũng châm thuốc, và chị vừa hối hà hút vừa xoay người tại chỗ. Khi chị quay lưng lại, chị có vẻ gù.
Rồi từ phía trên con hẻm, một người đàn bà khác đang bước đi. Chị này trái lại rất cao lớn và rất khỏe, chị đã già, trông tàn tạ vì mệt mỏi và thiếu ngủ. Chị mặc một cái áo khoác rộng bằng vải dầu màu xanh, mái tóc đen của chị sổ tung trong gió.
Chị từ từ xuôi xuống con đường, nện giày cao gót cồm cộp, chị tới bên người đàn bà lùn, và chị cũng dừng lại trước cửa. Mấy người Ả Rập tiến lại gần chị, nói chuyện với chị. Nhưng Lalla không nghe thấy họ nói những gì. Họ lần lượt giãn ra xa, rồi dừng lại cách một đoạn, mắt đăm đăm nhìn vào hai người đàn bà đang đứng im hút thuốc. Gió giật từng hồi dọc con hẻm, ép sát áo quần vào thân thể hai người đàn bà, hất tung tóc họ. Có biết bao hận thù và tuyệt vọng trên con hẻm này, như thể nó đi xuống mãi không thôi qua mọi tầng địa ngục mà vẫn không chạm được đáy sâu bao giờ, vẫn không dừng lại bao giờ. Kể sao cho hết cái đói, cái khát vọng chưa thỏa, cái hung bạo. Những người đàn ông trầm lặng đang nhìn ngắm, bất động trên vỉa hè như những chú lính chì, mắt đăm đăm hướng vào bụng hai người đàn bà, vào bầu vú của họ, vào đường cong nơi bờ hông họ, vào da thịt nhợt nhạt trên ngực họ, vào cặp đùi để trần của họ. Có thể chẳng có tình yêu, ở bất luận đâu, chẳng có lòng thương hại, chẳng có sự dịu dàng. Phải chăng lớp áo bọc trắng ngăn cách mặt đất với bầu trời đã làm cho đàn ông ngạt thở, đã chặn đứng nhịp đập của trái tim họ, đã giết chết tất cả kỷ niệm trong họ, tất cả ước vọng xưa cũ của họ, tất cả cái đẹp?
Lalla cảm thấy cơn choáng váng liên tục của khoảng trống len vào cô, như thể ngọn gió đang thổi vào con hẻm là ngọn gió của một chuyển động quay dai dẳng. Phải chăng ngọn gió sắp thổi tung mái của các căn nhà bẩn thỉu, phá toang những cánh cửa ra vào và cửa sổ, xô đổ những bức tường mục nát, lật nhào tất cả những chiếc xe biến chúng thành đông sắt vụn? Điều đó phải tới, bởi có quá nhiều hận thù, quá nhiều đau khổ... Nhưng tòa nhà to lớn nhơ nhớp vẫn đứng sừng sững, nó nghiền nát con người bằng tất cả chiều cao của nó. Đó là những tên khổng lồ bất động, với những con mắt vấy máu, những con mắt hung ác, những tên khổng lồ ăn tươi nuốt sống đàn ông và đàn bà. Trong ruột gan của chúng, những thiếu phụ bị đè ngửa ra trên tấm nệm cũ kỹ loang lổ, rồi bị những người đàn ông câm lặng với bộ phận sinh dục nóng rẫy như một thanh củi chiếm đoạt trong vài giây. Sau đó, họ mặc đồ lại và chuồn êm, điếu thuốc họ đặt trên mép bàn không có thì giờ để cháy hết. Bên trong những tên khổng lồ ăn thịt người đó, những người đàn bà lớn tuổi vẫn nằm dưới sức nặng của đám đàn ông đang đè bẹp họ, đang làm vấy bẩn da thịt vàng vọt của họ. Bây giờ, trong tất cả những cái bụng đàn bà kia khoảng trống nảy sinh, khoảng trống mãnh liệt và giá băng thoát ra khỏi họ và vừa thổi dọc theo những con đường và con hẻm như một ngọn gió, vừa ném ra những cơn lốc vô tận của nó.
Lalla bỗng thấy mình không thể chờ được nữa. Cô muốn hét lên, muốn khóc nữa, nhưng không thể được. Khoảng trống và nỗi sợ hãi đã khép chặt cổ họng cô, cô như hết thở nổi. Thế là cô tìm đường thoát thân. Cô cố hết sức chạy dọc con hẻm, và từng bước chân cô rền vang trong cõi im lặng. Những người đàn ông quay đầu lại và nhìn cô lẩn trốn. Người đàn bà lùn kêu lên tiếng gì đó nhưng một người đàn ông ôm lấy cổ chị và đẩy chị vào phía trong tòa nhà. Khoảng trống bị khuấy động trong giây phút rồi lại khóa chặt lấy họ, ghì siết họ. Vài người đàn ông ném thuốc lá xuống rãnh và đi về phía đại lộ, họ lướt đi như những cái bóng. Những người khác bước tới và dừng chân bên vỉa hè, rồi nhìn người đàn bà cao lớn tóc đen đang đứng trước cửa tòa nhà.
Gần nhà ga, trước những cánh cửa, có nhiều người ăn mày đang ngủ vùi trong mớ quần áo cũ hoặc giữa những tấm các tông. Xa xa, tòa nhà ga sáng lên với những ngọn đèn lớn sáng trắng như vì tinh tú.
Nơi một xó cửa, bên một cột đá, trong vũng tối ướt át, Lalla ngả lưng xuống đất. Cô cố hết sức rúc đầu và tay chân vào trong chiếc áo khoác rộng màu hạt dẻ của mình, y như một con rùa. Đá lạnh và cứng, còn tiếng rít ướt át của lốp xe ô tô trên mặt đường khiên cô rùng mình. Nhưng cô vẫn thấy bầu trời mở ra, như ngày nào, trên cao nguyên đá, và qua khe hở ra giữa hai mép của lớp áo bọc, dù đang nhắm nghiền mắt, cô vẫn còn có thể trông thấy đêm sa mạc.
Lalla ở tại khách sạn Sainte-Blanche. Cô có một căn phòng nhỏ, một góc tối tăm nơi tầng áp mái, ở đó cô chung sống với chổi sể, xô chậu, những món đồ cũ kỹ bị bỏ quên ở đó từ nhiều năm nay. Có một bóng đèn điện, một cái bàn, một cái giường đai vải đã rệu rã. Khi cô hỏi ông chủ cô có thể ở đó được không, ông ta chỉ nói được mà không hỏi han gì. Ông ta không bình luận, ông ta chỉ nói rằng cô có thể ngủ ở đó, rằng cái giường không sử dụng được. Ông ta còn nói sẽ trừ tiền điện và tiền nước vào lương của cô, thê thôi. Ông ta lại đọc báo, người duỗi dài trên giường. Chính vì vậy mà Lalla thấy ông ta hay hay, ông chủ ấy, dù ông ta bẩn thỉu và không chịu cạo râu, bởi ông ta không hỏi lôi thôi. Tất cả chẳng liên can gì tới ông.
Với Aamma thì không như vậy. Khi Lalla nói với chị rằng cô sẽ không ở lại căn hộ của chị nữa, khuôn mặt chị đanh lại, rồi chị nói đủ điều khó chịu, bởi chị nghĩ Lalla ra đi để sống với một anh chàng nào đó. Nhưng rồi chị cũng vẫn đồng ý bởi dù sao thì việc đó cũng tiện cho chị, là vì mấy người con trai của chị sắp tới dây. Sẽ không có đủ chỗ cho tất cả mọi người.
Giờ đây Lalla biết rõ hơn phần nào những người trong khách sạn Sainte-Blanche. Họ đều là dân khố rách áo ôm cả, họ tới từ những xứ sở nơi chẳng có gì ăn và gần như chẳng có gì để sống. Khuôn mặt họ chai cứng, ngay cả những người trẻ tuổi nhất, và họ không thể nói chuyện thật lâu. Ở tầng Lalla ở, không có ai, bởi đó là những cái hốc áp mái nhà, nơi sinh sống của loài chuột. Nhưng ngay phía dưới, có phòng trọ của ba người da đen, anh em với nhau. Mấy người này thì không dữ tợn, cũng không buồn bã. Lúc nào họ cũng vui vẻ, và Lalla rất thích nghe họ nói cười và hát xướng vào chiều thứ Bảy và Chủ nhật. Cô không biết tên họ, cô không biết họ làm gì trong thành phố. Nhưng thỉnh thoảng cô vẫn gặp họ trong hành lang, khi cô đi vào nhà vệ sinh, hoặc buổi sáng sớm khi cô xuống cọ rửa các bậc cầu thang. Nhưng họ không còn ở đó khi cô vào quét dọn phòng. Họ gần như chẳng có của nả gì, chỉ có mấy cái thùng các tông chứa đầy quần áo và một cây đàn ghi ta.
Cạnh phòng mấy người da đen là hai phòng của những người Bắc Phi làm việc ở các công trường, họ không ở lâu bao giờ. Họ tử tế nhưng lại ít nói, và Lalla cũng không nói chuyện nhiều với họ. Phòng họ cũng chẳng có gì, bởi họ nhét tất cả áo quần vào va li, và mấy cái va li thì ở dưới gầm giường. Họ sợ người ta lấy trộm chúng.
Người mà Lalla rất lấy làm thích là một chàng trai da đen người Phi châu ở chung với anh trai trong một gian phòng nhỏ ở tầng hai nơi cuối hành lang. Đó là gian phòng đẹp nhất bởi nó nhìn ra một khoảng sân nơi có một bóng cây. Lalla không biết tên người anh, nhưng cô lại biết người em tên là Daniel. Anh ta thật đen, với mái tóc xoăn đến nỗi luôn luôn có cái gì mắc trên đó, những mẩu rơm, lông vũ, cọng cỏ. Anh ta có một cái đầu tròn quay và một cái cổ quá khổ. Ngoài ra người ngợm anh ta dài ngoằng, với tay chân lỏng khà lỏng khỏng, và một dáng đi lạ đời, phần nào như thể anh ta đang khiêu vũ vậy. Lúc nào anh ta cũng vui vẻ, khi nói chuyện với Lalla thì anh ta cười luôn. Cô không hiểu những điều anh ta nói lắm, bởi anh ta có cái giọng lạ lùng như đang hát. Nhưng điều đó không quan trọng mấy, bởi anh ta có những cử chỉ thật buồn cười với hai bàn tay thuôn dài, cùng đủ kiểu nhăn nhó với cái miệng rộng đầy răng trắng nhởn. Lalla thích anh ta hơn, vì bộ mặt láng lẩy của anh ta, vì giọng cười của anh ta, và bởi anh ta hơi giống một đứa con nít. Anh ta làm việc ở bệnh viện, cùng với người anh, còn ngày thứ Bảy và ngày Chủ nhật, anh ta đi đá banh. Đó là niềm đam mê lớn của anh ta. Khắp phòng anh ta đầy áp phích và những tấm hình, chúng được găm trên tường, trên cánh cửa, trong tủ hốc tường. Mỗi lần gặp Lalla, anh ta đều hỏi bao giờ cô đi xem anh ta đá banh ở sân vận động.
Cô đã tới đó một lần, vào một chiều Chủ nhật. Cô ngồi tuốt trên những bậc cao và nhìn anh ta. Anh ta tạo thành một đốm đen trên bãi cỏ màu xanh lục của sân bóng, và nhờ đó mà cô nhận ra anh ta. Anh ta chơi ở vị trí tiền vệ cánh phải cùng với các cầu thủ tổ chức tấn công. Nhưng Lalla lại không hề nói với anh ta là cô đã đi xem anh ta chơi, có lẽ là để anh ta cứ tiếp tục yêu cầu cô tới, với tiếng cười giòn giã của anh ta vang âm trong khắp các hành lang khách sạn.
Cũng có một ông lão ở trong một gian phòng nhỏ tẹo ở đầu kia của hành lang. Ông thì không hề nói chuyện với ai và cũng chẳng ai biết rõ ông từ đâu tới. Đó là một ông lão có khuôn mặt bị một chứng bệnh khủng khiếp ăn mòn, không mũi không miệng, chỉ đúng hai cái lỗ ở chỗ lỗ mũi và một vết thẹo ở chỗ môi. Nhưng ông có đôi mắt đẹp, sâu và buồn, ông lúc nào cũng lịch sự, nhẹ nhàng, do đó mà Lalla rất quý ông. Ông sống rất nghèo khổ trong gian phòng đó, gần như không ăn uống gì, ông chỉ ra ngoài vào sáng sớm để lượm những trái cây rơi rớt ngoài chợ và để đi dạo dưới ánh nắng. Lalla không biết tên ông nhưng cô rất quý ông. Nhìn ông hơi giống ông lão Naman, ông cũng có đôi bàn tay mạnh khỏe và nhanh nhẹn, đôi bàn tay cháy nắng và đầy hiểu biết. Nhìn vào đôi bàn tay ông, cô dường như phần nào nhận ra những cảnh vật đang thiêu đốt, những khoảng cát đá mênh mông, những cây con bị cháy khô, những dòng sông khô cằn. Nhưng ông không hề nói với cô về đất nước ông cũng như về chính ông, ông giữ chặt điều đó trong đáy lòng. Khi chạm mặt cô trong hành lang, ông chỉ nói một vài tiếng với Lalla, về thời tiết bên ngoài, về những tin tức ông nghe được qua máy thu thanh. Có thể ông là người duy nhất trong khách sạn biết rõ bí mật của Lalla, bởi ông đã hai lần nhìn cô với đôi mắt sâu thẳm của mình rồi hỏi giờ với cô làm việc có nặng nhọc lắm không. Ông không nói gì thêm, nhưng Lalla nghĩ rằng ông biết cô có em bé trong bụng, và cô cũng hơi sợ ông lão mang chuyện đó nói với ông chủ, bởi dường như ông ta không muốn giữ cô trong khách sạn nữa. Nhưng ông lão không nói gì với một ai khác. Mỗi thứ Hai ông trả trước một tuần lễ tiền trọ mà không ai biết ông có tiền từ đâu. Chỉ có Lalla biết là ông rất nghèo, bởi trong phòng, ông không hề có thức gì khác để ăn ngoài những trái chín nẫu vứt dưới đất ở ngoài chợ. Thê là thỉnh thoảng khi có chút tiền, cô mua một hai trái táo ngon, mây trái cam và để chúng trên chiếc ghế đẩu độc nhất trong căn phòng bé tẹo, rồi dọn dẹp. Ông lão không hề nói cảm ơn với cô, nhưng qua ánh mắt ông, cô thấy ông rất hài lòng khi gặp cô.
Những người khách trọ khác, Lalla biết họ mà chẳng hiểu gì về họ. Đó là những người không lưu lại, những người Ả Rập, những người Bồ Đào Nha, những người Ý, họ chỉ tới đây để ngủ. Cũng có những người ở lại nhưng Lalla không thích họ, đó là hai người Ả Rập có vẻ hung bạo ở tầng một, lúc nào cũng say xỉn với rượu đốt. Cũng có cái tên chuyên đọc mấy tờ tạp chí bẩn thỉu và để vung vãi tất cả các hình phụ nữ khỏa thân ấy trên cái giường bừa bộn của hắn để cho Lalla nhặt lên xem. Đó là một gã người Nam Tư tên Gregori. Một bữa nọ, Lalla vào phòng hắn và hắn có mặt ở đó. Hắn chụp lấy cánh tay cô, muốn vật cô ngã lên giường, nhưng Lalla cất tiếng kêu ầm ĩ nên hắn sợ. Hắn đã để cô đi và lớn tiếng nguyền rủa cô. Từ hôm ấy, Lalla không đặt chân vào phòng hắn khi hắn có ở đó nữa.
Nhưng mọi người, họ có hiện hữu thật sự đâu, trừ ông lão với khuôn mặt bị ăn mòn. Họ không hiện hữu bởi họ không để lại dấu vết trên lối đi của họ, như thể họ chỉ là những cái bóng, những bóng ma. Ngày nào họ đi thì cũng như thể họ chưa từng tới bao giờ. Cái giường đai vải cũng vẫn vậy, và chiếc ghế xiêu vẹo, tấm thảm nhựa lót sàn nhà lấm lem, những bức tường vấy mỡ với lớp sơn rộp lên, cùng bóng đèn điện trần trụi ở đầu sợi dây điện dính đầy cứt ruồi. Tất cả vẫn vậy.
Nhưng điều đáng nói nhất là ánh sáng hắt từ bên ngoài vào, qua những ô kính bẩn thỉu, ánh sáng xám xịt từ sân trong, những ánh phản chiếu nhợt nhạt của mặt trời, và tiếng động: tiếng máy thu thanh, tiếng động cơ ô tô trên đại lộ, giọng của đám đàn ông cãi cọ nhau. Tiếng xuýt xuýt từ các vòi nước, tiếng xả nước, tiêng cầu thang cọt kẹt, tiếng gió lay động mấy tấm tôn và máng xối.
Lalla lắng nghe những tiếng động đó, vào ban đêm, khi cô nằm dài trên giường mình, mắt nhìn lên bóng đèn điện vàng vọt. Những người đàn ông ở đây không thể hiện hữu được, cả những đứa trẻ, cả những gì đang sống. Cô lắng nghe những tiếng động của đêm, như thể cô đang ở trong một cái hang, và như thể chính cô cũng không còn hiện hữu thật sự. Trong bụng cô, giờ đây, một cái gì đang run rẩy, đang phập phồng như một cơ quan xa lạ.
Lalla cuộn mình trên giường, hai gối áp sát vào cằm, thử lắng nghe cái đang động đậy trong cô, cái đang bắt đầu sống. Nỗi sợ vẫn còn, nỗi sợ khiến người ta phải trốn chạy dọc các con đường và khiến người ta phải nảy lên từ góc đường này tới góc đường khác, như một quả bóng. Nhưng đồng thời cũng có một luồng hạnh phúc kỳ lạ, một luồng hơi nóng và ánh sáng như đến từ rất xa, từ phía bên kia những biển cả và những thành phố, nó nối kết Lalla vào cái đẹp của sa mạc. Thế rồi, như mọi đêm, Lalla nhắm mắt lại, cô thở thật sâu. Từ từ, ánh sáng xám xịt của gian phòng chật hẹp lịm tắt và đêm lộng lẫy xuất hiện. Đêm đầy sao, đêm băng giá, lặng lẽ, cô đơn. Nó ngự trị trên mặt đất không giới hạn, trên khoảng mênh mông với những cồn cát im lìm. Bên Lalla có Hartani trong lớp áo khoác bằng vải len của chú, và khuôn mặt màu đồng đen của chú lấp lánh dưới ánh sao. Chính cái nhìn của chú đang hướng tới tận cô, bắt gặp cô nơi đây, trong gian phòng chật hẹp này, trong thứ ánh sáng bệnh hoạn của bóng đèn điện, và cái nhìn của Hartani đang động đậy trong cô, trong bụng cô, đang đánh thức sự sống. Từ lâu lắm rồi chú đã biến mất, từ lâu lắm rồi cô đã ra đi, từ bên kia bờ biển, như thể cô bị xua đuổi, và tuy vậy cái nhìn của chú chăn cừu vẫn mãnh liệt; cô cảm thấy rằng nó đang động đậy thật sự trong phần sâu thẳm của cô, trong vùng bí ẩn của bụng cô. Bây giờ, chính họ đã nhạt nhòa đi, những con người của thành phố này, những viên cảnh sát, những kẻ ngoài đường phố, những khách trọ trong khách sạn, tất cả mọi người, họ đã biến mất, và cùng biến theo họ là thành phố của họ, những ngôi nhà của họ, những con đường của họ, những chiếc ô tô của họ, những chiếc xe tải của họ, và chỉ còn lại khoảng sa mạc mênh mông, nơi Lalla và Hartani đang nằm bên nhau. Cả hai cùng trùm chiếc áo khoác bằng vải len rộng thùng thình, được vây bọc bởi đêm đen và hằng hà sa số những vì sao, và họ ghì sát nhau thật chặt để không cảm thấy cái lạnh đang xâm chiếm mặt đất.
Khi có một người nào ở khu Panier chết, chính cửa hàng dịch vụ mai táng ở tầng trệt của khách sạn lo liệu tất cả. Lúc đầu, Lalla tưởng đó là người nhà ông chủ khách sạn; nhưng đó là một thương gia như bao nhiêu người khác. Lúc đầu, Lalla nghĩ rằng người ta tới để chết trong khách sạn và sau đó họ được đưa xuống nhà đòn. Nơi đây không có được bao nhiêu người, gồm đúng chủ nhân, ông Cherez, hai phu nhà đòn và người tài xế xe hòm.
Khi có người chết ở khu Panier, các nhân viên lên đường với xe hòm, và họ tới treo những màn trướng lớn màu đen diềm hình giọt nước màu bạc lên cửa nhà. Trước cửa, trên vỉa hè, họ đặt một cái bàn phủ khăn đen cũng diềm hình giọt nước màu bạc. Trên bàn có một cái đĩa để mọi người có thể đặt vào đó một miếng các tông nhỏ ghi tên khi họ tới viếng người chết.
Khi ông Ceresola chết, Lalla biết ngay lập tức, bởi cô đã gặp con trai ông ở cửa hàng, nơi tầng trệt của khách sạn. Con trai ông Ceresola là một gã thanh niên mập mạp, tóc thưa, râu mép kiểu bàn chải, và lúc nào gã cũng nhìn như xuyên thấu Lalla. Còn ông Ceresola thì lại khác. Đó là người mà Lalla rất quý. Đó là một người Ý, không cao lớn lắm mà già và gầy gò, ông đi đứng khó khăn vì chứng thấp khớp. Ông luôn mặc bộ com lê đen, chắc cũng cũ lắm rồi, bởi lớp vài đã sờn tới sợi ngang, ờ chỗ khuỷu tay và đầu gối. Cùng với bộ đồ đó, ông luôn đi đôi giày da cũ màu đen, lúc nào cũng đánh xi bóng lộn, còn khi trời lạnh, ông choàng một cái khăn quàng bằng len và đội mũ cát két. Ông Ceresola có khuôn mặt khô ran và nhăn nheo, sạm đi vì nắng gió, mái tóc bạc trắng cắt ngắn, cùng cặp kính đồi mồi kỳ dị chắp vá bằng băng dính và dây dợ.
Ở khu Panier, mọi người rất quý ông bởi ông lịch sự và tử tế với tất cả mọi người, và trông ông rất có phẩm cách với bộ đồ đen lỗi thời cùng đôi giày đánh xi bóng lộn. Vả lại, mọi người đều biết ông đã từng làm thợ mộc, một thợ mộc bậc thầy, và ông từ nước Ỷ tới đây trước chiến tranh, bởi ông không ưa Mussolini. Đó là điều thỉnh thoảng ông kể lại khi gặp Lalla ngoài đường lúc ông đi mua hàng. Ông nói rằng ông đã tới Paris, tiền bạc chẳng có, chỉ đủ để trả hai hay ba đêm ở khách sạn, và ông không nói được một từ tiếng Pháp nào; vì thế khi ồng gọi xà phòng để rửa ráy, người ta đưa lên một chậu nước nóng.
Khi Lalla gặp ông, cô xách hộ ông các gói đồ, bởi ông đi đứng khó khăn, nhất là khi phải bước lên những bậc cầu thang dẫn tới phố Panier. Thế rồi ông vừa bước đi vừa nói với cô về nước Ý, về thôn làng của ông, về thời kỳ ông làm thợ tại Tunisia và về những ngôi nhà ông đã xây dựng khắp nơi, tại Paris, tại Lyon, tại Corse. Ông có một giọng nói là lạ, hơi nặng, rất khó nghe, nhưng Lalla rất thích nghe ông nói.
Giờ đây ông đã chết. Khi biết chuyện đó, cô có vẻ buồn bã đến đỗi gã con trai của ông Ceresola đã nhìn cô kinh ngạc, như thể hắn ta ngạc nhiên vì một ai đó có thể nghĩ tới cha hắn. Lalla bước trở ra thật nhanh, bởi cô không thích hít thở bầu không khí của nhà đòn, hay trông thấy những vòng hoa bằng nhựa, những cỗ áo quan và nhất là những phu nhà đòn với cặp mắt dữ dằn kia.
Thế rồi Lalla lần bước theo các con đường, đầu cúi xuống, và cứ thế cô tới tận cửa nhà ông Ceresola. Quanh cửa có những màn trướng cùng cái bàn nhỏ với khăn trải bàn màu đen và cái đĩa đặt lên trên. Cũng có một tấm bảng lớn màu đen ở phía trên cửa với hai chữ có hình mặt trăng lưỡi liềm như thế này đây:
Lalla bước vào nhà, cô từ từ bước lên cầu thang với những bậc thang hẹp, như khi cô xách các gói đồ cho ông Ceresola, cô phải dừng lại ở mỗi thềm nghỉ để lấy lại hơi. Hôm nay cô rất mệt, cô thấy mình nặng nề làm sao, như thể cô sắp thiếp đi, như thể cô sắp tắt thở khi tới tầng trên cùng.
Cô dừng bước trước cánh cửa, hơi ngập ngừng. Rồi cô đẩy cánh cửa và bước vào một căn hộ nhỏ. Ban đầu cô không nhận ra nơi này bởi các cánh cửa bản đều đóng và trong phòng tối đen. Không có người trong căn hộ, Lalla bước về phía gian phòng lớn nơi có một cái bàn phủ vải dầu với một giỏ trái cây. Cuối phòng có một cái giường kê trong hốc. Khi tới gần, cô trông thấy ông Ceresola đang nằm ngửa trên giường như đang ngủ. Trong cảnh tranh tối tranh sáng, ông có vẻ bình lặng, với đôi mắt nhắm nghiền và hai bàn tay duỗi dài theo thân thể, đến đỗi trong một khoảnh khắc Lalla tưởng chừng như ông chỉ đang thiu thiu ngủ, và ông sắp thức giấc. Cô nói giọng thì thầm để khỏi phiền ông:
"Ông Ceresola? Ông Ceresola?"
Nhưng ông Ceresola không ngủ. Điều này dễ thấy nơi quần áo ông, vẫn bộ com lê đen, vẫn đôi giày đánh xi bóng lộn; nhưng cái áo vest hơi bị lệch, với cổ áo dựng lên sau gáy, và Lalla nghĩ nó sắp bị nhàu. Có một mảng xám trên đôi má và trên cằm ông lão, cùng những quầng thâm tím quanh đôi mắt ông như thể ông đã bị ai đánh đập. Lalla lại nghĩ tới ông lão Naman khi ông nằm dưới đất trong căn nhà của ông và ông không thở được nữa. Cô nghĩ tới ông mãnh liệt đến nỗi trong vài giây đồng hồ chính ông là người mà cô đang trông thấy, ông đang nằm trên giường, khuôn mặt nhòa đi trong giấc ngủ, hai bàn tay duỗi ra dọc thân thể. Sự sống vẫn còn run rẩy trong cảnh tranh tối tranh sáng của gian phòng, với một tiếng thì thầm thật nhỏ hầu như không nhận ra được. Lalla tới sát giường, cô nhìn rõ hơn khuôn mặt đã nhợt nhạt, màu sáp, mái tóc bạc rủ xuống hai bên thái dương thành những món tóc cứng đờ, miệng hé mở, hai má hõm sâu vì sức nặng của quai hàm xệ xuống. Điều khiến cho khuôn mặt trở nên lạ thường là nó không còn mang cặp kính đồi mồi cũ kỹ nữa; nó có vẻ trần trụi, yếu đuối vì những vết hằn trên mũi, quanh đôi mắt, dọc hai bên thái dương kia không còn dùng để làm gì nữa. Thân thể ông Ceresola chợt trở nên quá nhỏ nhoi, quá gầy guộc so với bộ quần áo đen kia, và ông như thể đã biến mất, ông như thể chỉ còn lại có chiếc mặt nạ và đôi bàn tay màu sáp kia, cùng bộ đồ không vừa vặn trên cái mắc áo quá hẹp kia. Rồi bỗng đâu nỗi sợ lại trở về với Lalla, nỗi sợ thiêu đốt da thịt, làm mờ đi ánh mắt. Cảnh tranh tối tranh sáng thì ngột ngạt, nó là thứ độc dược làm cho người ta tê liệt. Nó tới từ đáy sâu của những dòng chảy, nó lần theo những con đường hẹp, xuyên qua thành phố cổ, nó nhấn chìm tất cả những gì nó bắt gặp, những tù nhân trong các gian phòng chật hẹp: những đứa trẻ, những người đàn bà, những cụ già. Nó vào các ngôi nhà, chui xuống mái nhà ẩm ướt, len vào các tầng hầm, nó chiếm cứ những kẽ nứt nhỏ nhoi nhất.
Lalla vẫn bất động trước thi thể của ông Ceresola. Cô cảm thấy cái lạnh lan tỏa trong thân thể ông, cùng cái màu sáp kỳ dị phủ lên làn da mặt và hai bàn tay ông. Cô còn nhớ ngọn gió độc đêm nào thổi qua Cư xá, khi lão Naman đang hấp hối; và nhớ cái lạnh như thoát ra từ tất cả những cái lỗ trên mặt đất để hư vô hóa con người.
Không rời mắt khỏi thân xác đã chết, Lalla từ từ bước thụt lùi về phía cửa căn hộ. Cái chết hiện hữu trong bóng tối xám xịt đang bềnh bồng giữa những bức tường, trong cầu thang, trên lớp sơn tróc lở của các hành lang. Lalla cố hết sức leo xuống thật nhanh, tim đập mạnh, mắt nhòa lệ. Cô phóng ra ngoài, và cô cố chạy về phía dưới thấp của thành phố, về phía biển, trong khi gió và ánh sáng vây bọc lấy cô. Nhưng một cơn đau trong bụng buộc cô phải ngồi bệt xuống đất, người gập lại. Cô rên rỉ trong khi mọi người đi qua trước mặt cô, lén lút nhìn cô, rồi lánh ra xa. Họ cũng sợ, điều đó hiện rõ trong cái cách họ vừa bước đi vừa nép sát vào các bức tường, thân thể hơi vẹo vọ, giống như những con chó lông xù.
Cái chết ở khắp nơi, trên người họ, Lalla nghĩ, họ không thể nào thoát khỏi. Cái chết ở trong cửa hàng tối đen, nơi tầng trệt của khách sạn Sainte-Blanche, giữa những bó hoa violet bằng thạch cao và những tấm lát bằng đá hoa nén. Nó cư ngụ ở dưới kia, trong ngôi nhà cũ kỹ mục nát, trong phòng đàn ông, trong hành lang. Họ không biết điều đó, họ thậm chí cũng không ngờ vực về điều đó. Ban đêm nó rời khỏi nhà đòn, dưới lốt lũ gián, lũ chuột, lũ rệp, và nó tỏa ra khắp các gian phòng ẩm ướt, trên tất cả các nệm rơm, nó bò lúc nhúc trên khắp các sàn nhà, trong những kẽ hở, nó tràn ngập tất cả như một bóng tối tẩm thuốc độc.
Lalla đứng dậy, cô bước loạng choạng, hai bàn tay ép lên phần dưới bụng, nơi có một cơn đau đang trồi lên. Cô không nhìn ai nữa. Cô có thể đi đâu đây? Bọn họ thì vẫn sống, vẫn ăn, vẫn uống, vẫn nói năng, và trong khi đó thì cạm bẫy khép lại trên họ. Họ đã mất tất cả, họ bị đày ải, bị đánh đập, bị sỉ nhục, họ làm việc trong gió lạnh căm căm trên đường phố, dưới cơn mưa, họ đào những cái hố trong đất toàn đá sỏi, tay chân và đầu óc họ đờ đẫn, họ trở nên điên loạn vì những cái búa hơi. Họ đói khát, họ sợ hãi, họ lạnh cóng vì cô đơn và vì trống rỗng. Và khi họ dừng lại thì cái chết dâng lên quanh họ, ở đó, dưới chân họ, trong cửa hàng, nơi tầng trệt của khách sạn Sainte-Blanche. Ở đó, những tên phu nhà đòn với cặp mắt hung dữ xóa sổ họ, vùi dập họ, làm cho thân thể họ biến mất, thấy thế khuôn mặt họ bằng một chiếc mặt nạ sáp, đôi bàn tay họ bằng những cái bao tay thò ra khỏi lớp áo quần rỗng không của họ.
Đi đâu bây giờ, biến vào đâu bây giờ? Lalla muốn tìm một nơi ẩn nấp, vào phút cuối, như ngày nào, trong cái hang của Hartani, ở phía trên vách đá, nơi từ đó người ta chỉ thấy biển và bầu trời.
Cô tới tận quảng trường nhỏ, và ngồi trên chiếc ghế dài bằng nhựa, trước bức tường của căn nhà đổ nát, với khung cửa sổ trống hoác như những con mắt của một tên khổng lồ đã chết.
Sau đó, một dịch sốt gần như xuất hiện khắp nơi trong thành phố. Có thể do ngọn gió vừa bắt đầu thổi, vào cuối đông, không phải ngọn gió độc hại và bệnh tật như lúc ông lão Naman hấp hối; mà là một ngọn gió dữ dội và băng giá thổi vào các đại lộ thênh thang của thành phố cuốn bụi và báo cũ bay khắp nơi, một ngọn gió khiến người ta phải ngây ngất, loạng choạng. Lalla chưa từng cảm nhận một ngọn gió nào như vậy. Nó thổi vào trong đầu và xoáy thành cơn lốc, nó xuyên qua cơ thể như một luồng khí lạnh, tạo thành những cơn run rẩy mãnh liệt. Bấy giờ, ngay khi bước ra ngoài, vào buổi chiều đó, Lalla chạy thẳng về phía trước, không nhìn cả cửa hàng dịch vụ mai táng nơi người đàn ông mặc đồ đen đang muộn phiền.
Bên ngoài, ánh sáng chan hòa trên các đại lộ, bởi gió đã mang nó tới. Nó dội lên, nó ánh lên rực rỡ trên vỏ xe, trên cửa kính của những ngôi nhà. Nó cũng len vào đầu Lalla, nó rung vang trên da cô, nó lấp lánh trên tóc cô. Hôm nay, lần đầu tiên từ lâu lắm rồi, cô trông thấy quanh mình màu trắng muôn thuở của đá và cát, những ánh chói bén ngọt như đá lửa, như những vì sao. Xa xa trước mặt cô, ở cuối đại lộ thênh thang, trong màn sương ánh sáng, hiện ra những ảo ảnh, những nóc vòm, những tháp chuông, những tháp cao của giáo đường Hồi giáo và những đoàn lữ hành lẫn trong cảnh người, xe lúc nhúc.
Đó là ngọn gió ánh sáng từ phương Tây thổi tới, hướng về phía bóng tối. Như ngày nào, Lalla nghe ra tiếng ánh sáng lộp độp trên mặt đường nhựa, tiếng của ánh phản chiếu không dứt trên các mặt kính, tiếng than hồng tí tách. Cô đang ở đâu đây? Nhiều ánh sáng tới mức cô tưởng đâu mình đang đứng chơ vơ ở chính giữa một mạng lưới đầy kim nhọn. Có lẽ giờ đây cô đang bước đi trên vùng cát, đá mênh mông, nơi Hartani đang đợi cô, ở trung tâm sa mạc? Có lẽ nào do ánh sáng và gió mà cô vừa bước đi vừa mơ, và thành phố lớn này như sắp sửa tan biến, bốc hơi trong hơi nóng của mặt trời vừa mọc sau cái đêm hãi hùng?
Tới góc một con đường, gần cầu thang dẫn tới nhà ga, Radicz tên ăn mày đã đứng trước mặt cô. Mặt nó lộ vẻ mệt mỏi và lo âu, và Lalla khó mà nhận ra nó bởi đứa thiếu niên giờ đây đã giống một người đàn ông. Nó mặc một bộ đồ lạ mà Lalla chưa trông thấy bao giờ, một bộ com lê màu hạt dẻ rộng thùng thình trên thân thể xương xẩu, và mang một đôi giày da đen to tướng hẳn phải gây thương tích cho đôi bàn chân trần.
Lalla những muốn nói chuyện với nó, muốn bảo cho nó biết là ông Ceresola đã chết và cô sẽ không bao giờ quay trở lại làm việc tại khách sạn Sainte-Blanche nữa, cũng không trở lại bất kỳ một gian phòng nào trong số những gian phòng kia nơi cái chết có thể tới bất cứ lúc nào và biến người ta thành một chiếc mặt nạ sáp; nhưng vì nhiều gió và tiếng động quá nên cô không thể nói được, vậy là cô khoe với Radicz nắm tiền nhàu nát trong tay mình.
"Nhìn này!"
Radicz mở to mắt, nhưng nó không đặt câu hỏi. Có thể nó nghĩ rằng Lalla đã ăn cắp món tiền đó hoặc còn tệ hơn nữa.
Lalla cất tiền vào túi áo khoác. Đó là tất cả những gì còn lại của những ngày đã qua sống trong cái đen đúa của khách sạn, miệt mài cọ rửa những tấm thảm nhựa với cái bàn chải bằng cỏ gà, và quét dọn các gian phòng xám xịt nồng nặc mùi mồ hôi và thuốc lá. Khi cô nói với ông chủ khách sạn rằng cô nghỉ, ông ta cũng chẳng nói gì. Ông ta rời khỏi cái giường cũ kỹ không được thu dọn bao giờ và bước tới tủ sắt ở cuối phòng. Ông ta lấy tiền, đếm tiền, thêm một tuần trả trước và đưa tất cả cho Lalla, rồi ông ta đi nằm trở lại, không nói gì thêm. Ông ta làm tất cả những việc đó không chút hối hả, trong bộ đồ ngủ, với đôi má cạo gọt cẩu thả cùng mái tóc bẩn thỉu, và sau đó ông ta tiếp tục đọc báo như thể trên đời này chẳng còn chuyện gì khác quan trọng nữa.
Thế là giờ đây, Lalla đang say sưa với tự do. Cô nhìn quanh, những bức tường, những khung cửa sổ, những chiếc ô tô, những con người, tất cả như chỉ còn là những hình dạng, những hình ảnh, những bóng ma mà gió và ánh sáng sắp sửa quét sạch.
Radicz có vẻ khổ sở làm sao khiến Lalla phải động lòng thương hại.
"Tới đây!"
Cô nắm tay đứa con trai và kéo nó băng qua đám đông đang đi lại lộn xộn. Họ cùng bước vào một cửa hàng thật lớn, nơi chói lòa ánh sáng, không phải thứ ánh sáng lộng lẫy của mặt trời, mà là một thứ ánh sáng trắng toát và gay gắt phản chiếu từ vô số những tấm gương. Nhưng thứ ánh sáng này cũng khiến người ta ngây ngất, nó gây choáng váng và làm lóa mắt. Với Radicz đang bước loạng choạng phía sau, Lalla băng qua khu vực nước hoa, mỹ phẩm, tóc giả, xà phòng thơm. Cô dừng lại mỗi nơi một chút, cô đưa xà phòng lên mũi cho Radicz ngửi rồi mua nhiều bánh đủ màu. Tiếp đến là những lọ nước hoa mà cô hít ngửi khi bước dọc các lối đi, điều đó khiến cô chóng mặt đến buồn nôn. Các màu son đỏ bôi môi, các màu lục đánh mí mắt, màu đen, màu đất son, phấn nền, sáp xức tóc, kem, lông mi giả, món tóc giả, Lalla đòi xem tất cả và đưa cho Radicz xem tất cả, nhưng nó chẳng nói gì; sau đó cô chọn thật lâu một lọ sơn móng tay màu gạch nhỏ nhắn, vuông vức cùng một thỏi son môi màu hồng điều. Cô ngồi trên một chiếc ghế đẩu cao, trước một tấm gương, và cô thử màu lên mu bàn tay trong khi cô bán hàng có mái tóc màu rơm nhìn cô với đôi mắt ngốc nghếch.
Ở tầng trên, Lalla len lỏi giữa những đám áo quần, bàn tay vẫn không buông Radicz. Cô chọn một cái áo thun ngắn tay, một bộ quần yếm bảo hộ lao động bằng vải bò xanh, rồi một đôi giày quần vợt và một đôi vớ đỏ. Cô bỏ lại phía sau, trong phòng thử, chiếc váy dài cũ màu xám và đôi dép cao su của cô, nhưng cô giữ lại chiếc áo khoác màu hạt dẻ bởi cô rất thích nó. Giờ đây cô bước đi nhẹ nhàng hơn, nhún nhảy trên đế giày cao su, một tay đút túi quần. Mái tóc đen của cô xõa xuống trên cổ áo khoác, từng món tóc dày lấp lánh dưới ánh đèn điện trắng toát.
Radicz nhìn cô và thấy cô đẹp, nhưng nó không dám nói điều đó với cô. Đôi mắt nó ánh lên niềm vui. Trong màu đen của tóc Lalla và trong màu đồng đỏ của khuôn mặt cô chừng như có ánh lửa bập bùng. Giờ đây ánh đèn như làm sống lại màu nắng sa mạc, và cô như đã tới thẳng đó, tới cửa hàng Prisunic này, trên con đường phát xuất từ những cao nguyên đá.
Có lẽ tất cả đều đã thật sự biến mất, có lẽ cửa hàng lớn đang chơ vơ nơi trung tâm của một sa mạc vô tận, giống như một pháo đài bằng đá và bùn. Nhưng chính là cát đang bao quanh toàn bộ thành phố, cát siết chặt lấy nó, và người ta nghe tiếng răng rắc từ phần nổi của các tòa nhà bê tông, trong khi đó những kẽ nứt chạy dài trên mấy bức tường và những tâm kính của các tòa nhà chọc trời rơi xuống.
Chính cái nhìn của Lalla mang sức mạnh nóng bỏng của sa mạc. Ánh sáng hừng hực trên mái tóc đen của cô, trên búi tóc dày mà cô vừa bện nơi hõm vai vừa bước đi. Ánh sáng mãnh liệt trong đôi mắt màu hổ phách của cô, trên làn da cô, trên đôi gò má lồ lộ của cô, trên đôi môi cô. Bây giờ, trong cửa hàng kín đầy tiếng ồn và ánh điện, mọi người giạt ra, dừng lại trước lối đi của Lalla và Radicz tên ăn mày. Đàn bà, đàn