← Quay lại trang sách

Cuộc sống của những người nô lệ (tt)

Phải chăng là ở nơi khác trong tấm hình? Phải chăng là ở trong dáng đi, trong cử động? Người chụp hình ngắm nhìn những cử chỉ của Lalla Hawa, cách cô ngồi, cách cô cử động đôi bàn tay với lòng bàn tay mở ra, tạo thành một đường cong hoàn hảo từ ngân khuỷu tay tới đầu các ngón tay. Hắn nhìn đường nét của cái gáy, tấm lưng mềm mại, hai bàn tay và hai bàn chân to, hai bờ vai, và mái tóc đen dày với những ánh phản chiếu màu tro, xõa xuống vai thành những món tóc xoăn lớn. Hắn nhìn Lalla Hawa, và trong từng lúc, hắn như trông thấy một khuôn mặt khác mấp mé bên khuôn mặt cô gái, một thân thể khác đằng sau thân thể cô; gần như không thể nhận ra, nó nhẹ nhàng, nó thoảng qua, một con người khác xuất hiện trong bề sâu thăm thẳm, rồi tan biến, để lại một ký ức đang chập chờn. Ai đó? Người mà hắn gọi là Hawa, cô là ai, cô thật sự tên gì?

Đôi khi Lalla nhìn hắn, hoặc cô nhìn thiên hạ, trong các quán ăn, trong các đại sảnh ở phi cảng, trong các văn phòng, cô nhìn họ như thể đơn giản là đôi mắt cô sắp sửa xóa nhòa họ, đưa họ trở về với hư vô vốn di là nơi chôn của họ. Khi cô có ánh nhìn kỳ lạ đó, người chụp hình cảm thấy một cơn run, như một cái lạnh đang len vào hắn. Hắn không biết đó là cái gì. Có thể đó là con người khác trong Lalla Hawa đang nhìn ngắm và phán xét thế giới, bằng đôi mắt của cô, như thể trong khoảnh khắc đó, tất cả, thành phổ khổng lồ này, con sông này, những quảng trường này, những đại lộ này, tất cả đều tan biến và để lộ ra khoảng sa mạc mênh mông, cát, bầu trời, gió…

Thế là người chụp hình đưa Hawa tới những nơi giống như sa mạc; những bình nguyên bát ngát đầy sỏi đá, những vùng đầm lầy, những bãi đất trước thành lũy, những vùng đất bỏ không. Dưới mắt hắn, Hawa đang bước đi trong ánh sáng mặt trời, và cái nhìn của cô đảo khắp chân trời như cái nhìn của lũ chim săn mồi, tìm kiếm một hình bóng, một bóng dáng. Cô nhìn hồi lâu, như đang thật sự tìm kiếm một người nào đó; rồi cô đứng im trên cái bóng của mình, trong khi người chụp hình bắt đầu chụp.

Cô tìm gì? Cô mong muốn gì ở cuộc đời này? Người chụp hình nhìn vào đôi mắt cô, khuôn mặt cô, và hắn cảm thấy mối lo thăm thẳm sau thứ ánh sáng mãnh liệt của cô. Còn có cả sự dè chừng, bản năng trốn chạy, cái thứ tia sáng kỳ lạ đôi khi vẫn thoảng qua trong đôi mắt loài thú hoang dã. Một hôm, cô đã nói với hắn điều đó, trong sự mong đợi của hắn, cô đã ôn tồn nói với hắn về đứa con cô mang trong mình đang làm cho bụng cô trở nên tròn trịa và làm cho cặp vú cô căng phồng, và:

"Một ngày nào đó, anh biết không, tôi sẽ đi, tôi sẽ ra đi, và anh đừng cố giữ chân tôi lại, bởi tôi sẽ ra đi mãi mãi..."

Cô không ham muốn tiền bạc, cô không quan tâm tới nó. Mỗi lần người chụp hình đưa cô tiền - tiền công cho những giờ làm mẫu - Hawa cầm lấy những tờ giấy bạc, chọn một hoặc hai tờ, rồi cô trả lại hắn phần còn lại. Cũng có khi chính cồ cho hắn tiền, những nắm giấy bạc và đồng xu cô móc ra từ túi chiếc quần yếm, như thể cô không muốn giữ lại gì cho mình cả.

Hoặc cô đi khắp các con đường trong thành phố, tìm kiếm những người ăn mày ở các góc tường, và cô cho họ tiền, cũng từng nắm tiền xu, cô cẩn thận đỡ tay họ để tiền khỏi rơi. Cô cho tiền những phụ nữ du cư che mạng, đi chân trần lang thang trên các đại lộ và những bà lão mặc đồ đen ngồi xổm ở cửa vào các bưu cục; những kẻ không nhà nằm dài trên ghế băng, trong các công viên nhỏ, và những ông lão đi lục lạo thùng rác nhà giàu khi đêm xuống. Tất cả những con người đó, họ đều biết cô, và khi thấy cô tới, họ nhìn cô với đôi mắt sáng rực. Những kẻ không nhà tưởng rằng cô là gái làng chơi, bởi chỉ có gái làng chơi mới cho họ lắm tiền đến thế, và họ đùa giỡn, cười cợt vang dậy, nhưng dù sao họ vẫn có vẻ hài lòng khi gặp cô.

Giờ đây, khắp nơi ai cũng nói về Hawa. Ở Paris, các nhà báo tới gặp cô, và vào một buổi chiều nọ trong đại sảnh khách sạn, có một người đàn bà đặt cho cô nhiều câu hỏi.

"Người ta nói về cô, về điều bí ẩn của Hawa. Hawa là ai?

- Tên tôi không phải là Hawa, khi sinh ra tôi không có tên, và người ta gọi tôi là Bla Esm, như thế có nghĩa là "Không Tên".

- Thế thì tại sao lại là Hawa?

- Đó là tên mẹ tôi, và người ta gọi tôi là Hawa, con gái của Hawa, chỉ có vậy thôi.

- Cô từ đất nước nào tới?

- Đất nước đó không có tên, cũng như tôi vậy.

- Nó ở đâu?

- Đó là nơi không còn gì cả, không còn ai cả.

- Tại sao cô có mặt ở đây?

- Tôi thích đi xa.

- Cô thích điều gì trong cuộc sống?

- Cuộc sống.

- Cô ăn gì?

- Trái cây.

- Cô thích màu nào nhất?

- Màu xanh lơ.

- Loại đá nào cô thích hơn cả?

- Sỏi trên đường.

- Còn âm nhạc?

- Những điệu hát ru.

- Người ta nói cô làm thơ?

- Tôi không biết viết.

- Còn điện ảnh? Cô có dự tính gì không?

- Không.

- Đối với cô tình yêu là gì?

Bất chợt, Lalla Hawa thấy chán ngấy, và cô bước đi thật nhanh, không buồn quay lại, cô đẩy cánh cửa khách sạn và biến mất ngoài đường.

Giờ đây có nhiều người nhận ra cô ngoài đường, những cô gái đưa ra cho cô một trong những tâm hình của cô để cô ký tên vào đó. Nhưng vì không biết viết, cô chỉ vẽ dấu hiệu của bộ lạc cô, dấu hiệu mà người ta vẫn đóng lên da lạc đà và da dê, hơi giống hình trái tim:

Đâu đâu cũng có lắm người, trên các đại lộ, trong các cửa hàng, trên các con đường. Lắm người đang xô lấn nhau, nhìn ngắm nhau. Nhưng khi cái nhìn của Lala Hawa lướt qua họ, tất cả dường như bị xóa nhòa, trở nên câm nín và vắng lạnh.

Lalla Hawa muốn lướt qua những nơi đó thật nhanh, để biết xem sau đó là cái gì. Một tối, người chụp hình đưa cô tới một vũ trường có tên gọi là Đại Lữ Quán, Paris-Đại Lữ Quán, một cái tên đại khái như vậy. Để khiêu vũ, cô mặc chiếc váy dài màu đen hở lưng, bởi người chụp hình muốn chụp những tấm hình.

Đó cũng là một nơi giống những quảng trường mênh mông trống hoác, nơi chỉ có bóng những tòa nhà và thùng của những chiếc ô tô đậu lại dưới ánh mặt trời. Đó là một nơi chốn khủng khiếp và trống rỗng, nơi đàn ông và đàn bà ép mình vào nhau và nhăn nhó với nhau trong bóng tối ngột ngạt, cùng với những tia sáng đèn điện trong khói thuốc lá mù mịt, và tiếng ồn đinh tai chát chúa làm rung chuyển cả nền nhà và mấy bức tường.

Lalla Hawa ngồi trong một góc, trên một cái bậc, và cô nhìn đám người đang khiêu vũ, mặt mày họ nhễ nhại mồ hôi, quần áo họ lấp lánh. Ở cuối phòng, trong một góc giống như cái hang là các nhạc công: họ gảy đàn ghi ta, họ đánh trống, nhưng tiếng nhạc chừng như từ bên ngoài vọng tới, nghe như tiếng hét của những tên khổng lồ.

Rồi tới lượt cô cũng nhảy, trên sàn nhảy, giữa mọi người. Cô nhảy như cô đã được học xưa kia, một mình giữa mọi người, để che giấu nỗi sợ của mình, bởi có nhiều tiếng động quá, nhiều ánh sáng quá. Người chụp hình vẫn ngồi trên cái bậc, không nhúc nhích, không nghĩ cả tới việc chụp hình. Lúc đầu, mọi người không để ý tới Hawa, bởi ánh sáng khiến họ lóa mắt. Tiếp đến, chừng như họ cảm thấy một cái gì lạ thường đã xảy ra mà họ không ngờ tới. Họ lần lượt giạt ra, dừng bước nhảy, để nhìn Lalla Hawa. Chỉ còn lại mình cô trong vòng ánh sáng, cô không trông thấy một ai. Cô nhảy theo nhịp điệu chầm chậm của nhạc điện tử, và chừng như âm nhạc hiện hữu bên trong thân thể cô. Anh sáng lấp lánh trên lớp vải đen của chiếc váy dài cô mặc, trên làn da màu đồng của cô, trên tóc cô. Người ta không trông thấy đôi mắt cô vì bóng tối, nhưng cái nhìn của cô lướt qua trên mọi người, lấp đầy gian phòng với tất cả sự mãnh liệt của nó, với tất cả vẻ đẹp của nó. Hawa nhảy chân trần trên nền phòng trơn láng, đôi bàn chân dài và bẹt gõ theo nhịp trống, hoặc đúng hơn chính cô dường như đang tạo nhịp điệu cho âm nhạc bằng gan bàn chân và gót chân mình. Thân thể mềm dẻo uốn lượn, hông cô, vai cô và tay cô nhẹ dang ra như đôi cánh. Ánh sáng của những ngọn đèn chiếu nảy lên trên người cô, vây bọc lấy cô, tạo nên những cơn lốc quanh bước chân cô. Cô hoàn toàn trơ trọi trong gian phòng rộng lớn, trơ trọi như đang ở giữa bãi đất trống trước thành lũy, trơ trọi như đang ở giữa một cao nguyên đá, và dàn nhạc điện tử đang chơi cho riêng cô với nhịp điệu chậm chạp và nặng nề của nó. Phải chăng cuối cùng tất cả bọn họ đều đã biến mất, những kẻ ở quanh cô kia, những người đàn ông, những người đàn bà, những hình ảnh phản chiếu thoáng qua trên những tấm gương bị phỉnh lừa, bị ngốn ngấu? Giờ đây, cô không còn trông thấy họ nữa, cô không còn nghe thấy họ nữa. Cả người chụp hình ngồi trên cái bậc của hắn cũng đã biến đi đâu mất. Họ trở nên giống những tảng đá, những khối đá vôi. Còn cô, cuối cùng cô cũng có thể động đậy, cô được tự do, cô xoay quanh mình, hai cánh tay dang rộng, và hai bàn chân gõ xuống sàn bằng đầu các ngón chân, rồi bằng gót chân, như xoay trên nan hoa một cái bánh xe lớn mà trục chạm tới tận đêm tối.

Cô nhảy, để lên đường, để trở thành vô hình, để bay lên như một cánh chim về phía tầng mây. Dưới đôi chân trần của cô, nền phòng bằng chất dẻo trở nên nóng bỏng, nhẹ nhàng, có màu của cát, và không khí cuốn xoáy quanh thần thể cô với tốc độ của gió. Giờ đây, cơn xây xẩm của điệu nhảy làm nảy sinh ánh sáng, không phải thứ ánh sáng gay gắt và băng giá của những ngọn đèn chiếu, mà là ánh sáng lộng lẫy của mặt trời, khi đất, đá và cả bầu trời đều trắng lóa. Chính thứ âm nhạc chậm chạp và nặng nề của điện, của những cây đàn ghi ta, của đàn ống và của những cái trống, nó đi vào cô, nhưng có thể cô cũng không còn nghe thấy nó nữa. Thứ âm nhạc chậm chạp và sâu thẳm đến đỗi nó phủ kín làn da màu đồng của cô, tóc cô, mắt cô. Cơn ngây ngất của điệu nhảy trải rộng ra quanh cô, và những người đàn ông cùng những người đàn bà đã dừng chân trong khoảnh khắc giờ đây bắt đầu nhảy trở lại, nhưng họ vừa nhảy theo nhịp điệu thân thể của Lalla vừa gõ ngón chân và gót chân xuống nền. Không ai nói gì, không ai thở. Người ta đang say sưa chờ chuyển động của điệu nhảy tới cuốn mình đi giống như vòi rồng trên biển. Mái tóc dày của Lalla hất lên và quất xuống đôi vai cô một cách nhịp nhàng, đôi bàn tay cô với các ngón xòe ra, run run. Trên nền phòng phủ lớp chất dẻo, những bàn chân trần của đàn ông và đàn bà gõ mỗi lúc một nhanh hơn, mỗi lúc một mạnh hơn, trong khi nhịp điệu của nhạc điện tử càng dồn dập hơn. Trong gian phòng rộng lớn, không còn nữa những bức tường kia, những tấm gương kia, những tia sáng kia. Chúng đã biến mất, bị hư vô hóa bởi điệu nhảy say mê đến chóng mặt, bị lật nhào. Không còn nữa những thành phố không hy vọng kia, những thành phố đầy vực thẳm kia, những thành phố của ăn mày và đĩ điếm kia, nơi những con đường là cạm bẫy, nơi những ngôi nhà là mồ mả. Không còn nữa tất cả những thứ đó, cái nhìn say sưa của những người đang nhảy đã xóa sạch tất cả các trở ngại, tất cả những dối trá xưa cũ. Giờ đây, quanh Lalla Hawa, là một khoảng vô tận đầy bụi và đá trắng xóa, một khoảng mênh mông sống động đầy cát và muối, và những cồn cát nhấp nhô. Giống như ngày nào, ở cuối con đường mòn dành cho lũ dê, nơi tất cả như dừng lại, như thể người ta đang ở nơi tận cùng của trái đất, ở dưới chân bầu trời, ở đầu ngọn gió. Như thể khi lần đầu cô cảm thấy cái nhìn của Es Ser, người mà cô gọi là Bí Mật. Bây giờ, giữa cơn xây xẩm của mình, trong khi đôi chân tiếp tục giúp cô xoay mỗi lúc một nhanh quanh chính mình, cô lại cảm thấy, lần đầu tiên từ lâu lắm rồi, cái nhìn đang hướng tới cô, đang ngắm nghía cô. Từ trung tâm vùng đất mênh mông và trần trụi, cách xa những người đàn ông đang nhảy, cách xa những thành phố mù sương, cái nhìn của Bí Mật đi vào cô, chạm tới trái tim cô. Ánh sáng bỗng dưng bắt đầu thiêu đốt mãnh liệt đến không chịu nổi, một sự bùng nổ trắng lóa và nóng rực phát ra những tia sáng khắp gian phòng, một ánh chớp tưởng có thể làm vỡ tan tất cả những bóng đèn điện, những ngọn đèn nê ông, làm đờ đẫn các anh nhạc công đang chơi ghi ta, và làm nổ tung tất cả những cái loa.

Trong khi vẫn không ngừng xoay, Lalla từ từ ngã xuống, trượt nhẹ trên cái nền phủ lớp chất dẻo giống như mô hình người mẫu bị trật khớp. Cô nằm một hồi lâu, trơ trọi, sóng sượt trên sàn, mặt bị tóc che khuất, trước khi người chụp hình tới gần cô, giữa lúc đám người nhảy giật ra, vẫn còn ngỡ ngàng về những gì xảy ra với họ.

Cái chết tới. Nó bắt đầu bằng lũ cừu và lũ dê, cả những con ngựa, chúng bị bỏ lại trên lòng sông, bụng trướng lên, chân dang rộng. Tiếp theo tới lượt trẻ con và người già, họ mê sảng rồi không thể gượng dậy được nữa. Họ chết nhiều đến nỗi người ta phải dành riêng cho họ một nghĩa địa, ở phía hạ lưu con sông, trên một ngọn đồi bụi đỏ. Người ta quân kín họ trong những lớp vải cũ và đưa họ đi vào buổi sáng sớm, không chút lễ nghi, và người ta chôn cất họ trong một cái hố sơ sài được đào vội vã, tiếp sau người ta đặt lên trên đó vài hòn đá để lũ chó hoang không bới họ lên. Cùng lúc với cái chết là ngọn gió nóng đang thổi tới. Nó giật từng hồi, nó phủ kín con người trong cái nóng khốc liệt của nó, nó xua tan tất cả cái ẩm ướt trên mặt đất. Ngày ngày, cùng với mấy đứa trẻ khác, Nour lang thang trên lòng sông tìm kiếm những con tôm. Cậu cũng đặt những cái bẫy làm bằng cành cây và dây bện từ cỏ để bắt thỏ rừng và chuột nhảy, nhưng thường thì lũ cáo đã tới trước cậu.

Chính cái đói làm cho người lớn phải hao mòn và con nít phải tiêu vong. Từ nhiều ngày nay khi tới trước thành phố đỏ, đoàn người vẫn không nhận được thực phẩm, và đồ dự trữ đang cạn dần. Mỗi ngày, người tù trưởng vĩ đại đều phái chiến binh của lão tới trước những bức tường của thành phố để xin lương thực và đất cho dân tộc của lão. Nhưng những người quyền thế luôn luôn hứa hẹn mà không cho gì. Chính bản thân họ cũng rất nghèo, họ bảo vậy. Trời không mưa, hạn hán làm cho đất cứng còng, và các thức dự trữ từ mùa gặt hái đã sắp hết. Thỉnh thoảng, người tù trưởng vĩ đại và mấy người con trai của lão tới tận các thành lũy của thành phố để xin đất, hạt giống và một phần đất trồng cọ. Nhưng chính họ còn không đủ đất, những người quyền thế bảo, từ đầu sông tới tận biển, những vùng đất màu mỡ đều bị chiếm đoạt, và bọn lính Cơ Đốc thường vào thành phố Agadir, chúng cướp đi hầu hết những gì thu hoạch được.

Lần nào cũng vậy, Ma el Aĩnine lắng nghe câu trả lời của những người quyền thế mà không nói gì, rồi lão quay về căn lều của mình, nơi lòng sông. Nhưng giờ đây không còn sự giận dữ lẫn sự nôn nóng trước kia cứ lớn dần trong lòng lão nữa. Với cái chết tới mỗi ngày, và ngọn gió nóng bỏng của sa mạc, chính sự tuyệt vọng là điều lão đang chia sẻ cùng dân tộc mình. Như thể những con người lang thang dọc hai bờ hoang vắng của con sông hoặc ngồi xổm trong bóng tối của nơi trú ẩn, những con người đó đang đối mặt với bản án của họ như một điều hiển nhiên. Những vùng đất đỏ kia, những thửa ruộng khô hạn kia, những vùng đất cằn cỗi trồng ô liu và cam kia, những khoảnh đất trồng cọ tối tăm kia, tất cả đều xa xôi, lạ lẫm đối với họ, chẳng khác gì các ảo ảnh.

Dù tuyệt vọng, Larhdaf và Saadbou vẫn muôn tấn công thành phố, nhưng lão tù trưởng từ chối hành động bạo lực đó. Những người đàn ông xanh của sa mạc giờ đây đã quá mệt mỏi, bởi họ đã đi bộ và chịu đói khát từ quá lâu rồi. Hầu hết các chiến binh đều bị sốt, bị bệnh scorbut, chân họ đầy những vết thương nhiễm trùng. Ngay cả vũ khí của họ cũng không còn sử dụng được.

Mọi người trong thành phố đều dè chừng những người đàn ông của sa mạc, và các cánh cửa vẫn đóng im ỉm suốt ngày. Những ai liều lĩnh tới gần các thành lũy đều lãnh đạn: đó là lời cảnh cáo.

Bây giờ, khi biết không còn mảy may hy vọng và mọi người rồi sẽ lần lượt chết hết trong lòng sông nóng bỏng, trước thành lũy của thành phố nhẫn tâm, Ma el Aĩnine ra hiệu lên đường tới miền Bắc. Lần này không có cầu nguyện, cũng không có ca hát lẫn nhảy múa. Như những con vật bệnh tật duỗi chân và loạng choạng đứng dậy, những người đàn ông xanh lần lượt uể oải rời khỏi lòng sông, họ lại lên đường đi về miền vô định.

Giờ đây đội chiến binh của lão tù trưởng không còn vẻ ngoài như trước nữa. Họ bước đi cùng với đoàn người và vật, cũng mệt lử như họ, quần áo họ rách bươm, cái nhìn họ bồn chồn và trống hoác. Có thể họ không còn tin vào những lý do của cuộc trường chinh này nữa, họ chỉ tiếp tục bước tới vì thói quen trong khi đã kiệt sức và lúc nào cũng muốn ngã xuống. Những người đàn bà bước tới, người chúi về phía trước, mặt che mạng xanh, và nhiều kẻ không còn con bên mình nữa, bởi nó đã ở lại trong lòng đất đỏ của thung lũng Souss. Tiếp theo, ở cuối đoàn người vươn dài khắp thung lũng, là những đứa trẻ, những người già và những chiến binh bị thương, tất cả những kẻ bước đi thật chậm. Nour dìu người chiến binh mù đi trong đám đó. Cậu cũng không biết gia đình mình đang ở đâu nữa, họ lẫn vào đâu đó trong đám bụi. Chỉ có vài chiến binh còn vật để cưỡi. Tù trưởng vĩ đại đi trong đám ấy, trên lưng con lạc đà trắng, áo khoác phủ lên người.

Không ai nói gì. Người ta đi lầm lũi, mặt đen sạm, đôi mắt bồn chồn nhìn đăm đăm những ngọn đồi đất đỏ, ở về phía Tây, để tìm ra con đường mòn vượt qua vùng núi dẫn tới tận thánh địa Marrakech. Người ta bước đi trong thứ ánh sáng dội vào đầu, vào gáy, làm rung lên cơn đau nhức của tay chân, thiêu đốt tận tâm can. Người ta không còn nghe thấy tiếng gió lẫn tiếng chân người lê trên sa mạc. Người ta chỉ còn nghe thấy tiếng trái tim mình, tiếng những dây thần kinh của mình, cùng nỗi đau đớn đang rít lén, đang lùng bùng sau màng nhĩ.

Nour không còn cảm thấy bàn tay người chiến binh mù đang bám chặt vào vai cậu nữa. Cậu chỉ biết bước tới, không biết tại sao, không hy vọng dừng lại bao giờ. Phải chăng ngày mà cha mẹ cậu quyết định rời bỏ các lều trại ở miền Nam, họ đã bị kết án phải lang thang tới tận cuối đời, trong chuyến đi vô tận này, từ cái giếng này đến cái giếng khác, dọc theo những thung lũng khô cằn? Nhưng liệu trên thế giới này có những vùng đất nào khác với những vùng đất kia không, những vùng đất mênh mông vô tận, lẫn với bầu trời bởi bụi, những ngọn núi không bóng mát, những tảng đá sắc nhọn, những dòng sông không có nước, những bụi rậm đầy gai mà một cây gai thôi cũng đủ gây chết người bằng một vết xước nhỏ? Mỗi ngày, nhìn ra xa, về phía các sườn đồi, gần những cái giếng, những người đàn ông vẫn trông thấy những ngôi nhà mới, những chiến lũy bằng bùn đỏ với các thửa ruộng và đám cây cọ bao quanh. Nhưng họ trông thấy chúng như người ta trông thấy những ảo ảnh đang run rẩy trong bầu không khí nóng khủng khiếp, chúng xa lắc, không đạt tới được. Dân cư trong các ngôi làng không xuất hiện. Họ trốn trên núi hoặc nấp sau các thành lũy của họ, sẵn sàng chiến đấu chống lại những người đàn ông xanh của sa mạc.

Dẫn đầu đoàn lữ hành, trên lưng ngựa, các con trai của Ma el Aĩnine chỉ vào lối mở vào thung lũng chật hẹp, giữa những ngọn núi nhấp nhô:

Con đường kia rồi! Con đường tới miền Bắc!"

Vậy là họ vượt qua vùng núi trong nhiều ngày. Gió nóng thổi trong các thung. Trời xanh bát ngát trên những núi đá đỏ. Nơi này không có gì, cả người lẫn vật, thỉnh thoảng mới có dấu vết một con rắn trong cát, hoặc thật cao trên bầu trời, bóng một con kền kền. Người ta bước tới mà không tìm ra sự sống, không trông thấy một dấu hiệu nào của hy vọng. Như những người mù, những người đàn ông và những người đàn bà tiếp bước nhau đi, đặt chân lên dấu chân những người đi trước, lẫn lộn với những con vật Ai là người dẫn dắt họ? Con đường đất chạy ngoằn ngoèo dọc các thung, băng qua các vùng đất đá sụt lở, lẫn vào các lòng suối khô.

Sau cùng, đoàn người tới bờ sông Issene, dòng sông rộng lớn hơn vì tuyết tan. Nước đẹp và trong, nó bắn tung giữa hai bờ khô cằn. Nhưng những người đàn ông nhìn nó không mảy may xúc động, bởi thứ nước đó không phải của họ, bởi họ không thể giữ nó. Họ ở lại nhiều ngày trên hai bờ con sông, trong khi các chiến binh của tù trưởng vĩ đại, theo sau có Larhdaf và Saadbou, thì đi ngược lên con đường mòn Chichaoua.

“Chúng ta đã tới nơi rồi à, đây là đất của chúng ta à?" người chiến binh mù vẫn luôn luôn hỏi. Nước sông lạnh chảy xuống như thác trên các mỏm đá, và con đường trở nên khó đi hơn. Sau đó, đoàn người tới trước một ngôi làng của người Berbère ở đáy thung lũng. Các chiến binh của tù trưởng đang đợi họ ở đó. Họ đã dựng lên những cái lều lớn, và các tù trưởng của vùng núi đã dâng cừu để tiếp đón Ma el Aĩnine. Đó là làng Aglagla, ở dưới chân ngọn núi cao. Những con người của sa mạc kéo nhau tới gần bức tường của ngôi làng mà không đòi hỏi gì. Buổi chiều, trẻ em trong làng kéo tới, mang theo thịt nướng cùng sữa đông, và mỗi người có thể ăn no nê thỏa thích bởi họ không được như thế từ lâu lắm rồi. Sau đó họ đốt lên nhiều đống lửa thông lớn bởi đêm rất lạnh.

Nour đã nhìn điệu vũ của những ngọn lửa trong đêm đen kịt hồi lâu. Cũng có cả những khúc ca, một giai điệu lạ lùng bởi cậu chưa từng được nghe bao giờ, nó buồn bã và chậm rãi, có tiếng sáo phụ họa. Đàn ông và đàn bà trong làng xin phúc lành của Ma el Aĩnine để lão chữa bệnh cho họ.

Giờ đây, đoàn người đi về phía sườn núi bên kia, hướng về thánh địa. Nơi đó, có thể những con người của sa mạc sẽ được thấy nỗi đau khổ của mình chấm dứt, theo như lời các chiến binh xanh của Ma el Aĩnine, bởi chính tại Marrakech, mười bốn năm về trước, Ma ei Ainine đã chứng minh lòng trung thành với Moulay Hafid, bề trên của các tín đồ Hồi giáo. Chính tại đó đức vua đã cho tù trưởng đất để lão có thể cho xây dựng trên đó một học viện dành cho người Goudfia. Và sau đó, chính tại thánh địa mà người con trai trưởng của Ma el Aĩnine chờ cha để gia nhập cuộc thánh chiến; và tất cả mọi người đều suy tôn Moulay Hiba, người vẫn được gọi là Dehiba, Mảnh Vàng, người vẫn được gọi là Moulay Sebaa, Sư Tử, bởi đó là người mà họ chọn làm vua của những vùng đất phía Nam.

Buổi chiều khi đoàn người dừng lại và lửa được nhóm lên, Nour dẫn người chiến binh mù tới nơi những chiến binh của Ma el Aĩnine đang ngồi, và họ cùng nghe câu chuyện kể về những gì đã xảy ra xưa kia, khi tù trưởng vĩ đại và các con trai của lão tới cùng với các chiến binh sa mạc, tất cả đều cưỡi trên lưng đám lạc đà nhanh nhẹn, và bằng cách nào họ đã vào được thánh địa, đã được đức vua tiếp kiên, với hai người con trai của Ma el Aĩnine, Moulay Sebaa, Sư Tử, và Mohammed Ech Chems, người được mệnh danh là Mặt Trời; họ cũng kể về những quà tặng của đức vua để giúp tù trưởng xây đắp thành lũy cho thành phố Smara; và về chuyến đi của họ cùng những đàn lạc đà đông đến đỗi chúng phủ kín cả vùng dồng bằng, trong khi đàn bà và trẻ con, đồ dự trữ và lương thực thực phẩm được đưa lên con tàu lớn chạy bằng hơi nước mà người ta gọi là Bachir, tất cả đã vượt biển trong nhiều ngày và nhiều đêm từ Mogador tới Marsa Tarfaya.

Họ cũng kể lại truyền thuyết về Ma el Aĩnine, bằng giọng nghe như hát, và điều đó giống như câu chuyện về một giấc mơ xưa cũ của họ. Giọng nói của các chiến binh hòa lẫn với tiếng reo tí tách của ngọn lửa, và đôi lúc Nour trông thấy bóng dáng nhẹ tênh của lão già qua những cuộn khói, trông giống như một ngọn lửa nơi trung tâm của khu lều trại.

Tù trưởng vĩ đại sinh ra ở nơi xa xôi, tại miền Nam, trong xứ sở mà người ta gọi là Hodh, và cha người là con của Moulay Idriss, còn mẹ thuộc dòng dõi đấng Tiên tri. Khi tù trưởng vĩ đại ra đời, cha người đặt tên người là Ahmed, nhưng mẹ người lại gọi người là Ma el Aĩnine, Nước Mắt, bởi bà đã khóc vì vui mừng ngày người chào đòi...".

Trong đêm tối, Nour lắng nghe, đầu kê lên một hòn đá, bên cạnh người chiến binh mù.

Khi mới lên bảy, người đã thuộc lòng kinh Coran, không sai một chữ, vì vậy mà cha người, Mohammed el Fadel, đã gủi người tới thánh địa La Mecque vĩ đại, và trên đường đi cậu bé đã tạo nên những phép lạ... Cậu biết chữa bệnh, và với những kẻ xin cậu nước, cậu bảo, trời sẽ cho ngươi nước, và ngay tức khắc một cơn mưa lớn trút xuống...".

Người chiến binh mù hơi lắc lư đầu, như thể anh đánh nhịp cho lời nói, còn Nour thiu thiu.

Bấy giờ thiên hạ từ khắp các vùng của sa mạc kéo tới để nhìn tận mặt cậu bé biết tạo phép lạ, và cậu bé, con trai của Mohammed Fadel ben Maminnna vĩ đại, chì cần bôi một chút nước miếng lên đôi mắt người bệnh và thổi vào môi anh ta, thế là người bệnh đứng dậy ngay và anh ta hôn lên bàn tay của cậu bé, bởi anh ta đã lành bệnh...".

Nour cảm thấy thân thể người chiến binh mù run lên sát người cậu trong lúc đầu anh khẽ lắc lư trên vai. Đó là giọng đơn điệu của người kể chuyện cùng nhịp đu đưa của những ngọn lửa và khói; ngay cả đất cũng dường như động đậy theo nhịp điệu của giọng nói.

Bấy giờ vị tù trưởng vĩ đại đã tới ở tại thánh địa Chinguetti, nơi giếng Nazaran, gần Ed Dakhla, để giảng huấn bởi lão hiểu rõ khoa học về các thiên thể và con số, cùng ngôn từ của Thượng đế. Thế là những con người của sa mạc đều trở thành môn đệ của người, và người ta gọi họ là Berik Allah, những kẻ nhận được phúc lành của Thượng đế...".

Giọng người chiến binh xanh vẫn ê a trong đêm, trước những ngọn lửa đang vươn lên cao, đang nhảy múa, với lớp khói đang vây phủ mọi người và khiến họ phát ho. Nour lắng nghe những câu chuyện về phép lạ, những mạch nước phun lên từ sa mạc, những trận mưa phủ ngập những thửa ruộng khô cằn, và những lời nói của vị tù trưởng vĩ đại trên quảng trường Chinguetti, hoặc trước nơi ở của lão tại Nazaran. Cậu lắng nghe phần đầu cuộc trường chinh của Ma el Aĩnine băng qua sa mạc, tới tận smara, vùng đất của những bụi rậm, nơi vị tù trưởng vĩ đại đã tạo lập thành phố của mình. Cậu lắng nghe truyền thuyết về những cuộc chiến đấu của lão chống lại bọn Tây Ban Nha tại El Aaiun, tại Ifni, tại Tiznit, cùng với các con trai của lão, Rebbo, Taaleb, Larhdaf, Ech Chems, và người mà ai nấy vẫn gọi là Moulay Sebaa, Sư Tử.

Cứ như vậy, chiều nào cũng vẫn giọng đó lầm rầm tiếp tục kể các truyền thuyết, và Nour không còn nhớ mình đang ở đâu nữa, như thể đó chính là chuyện của cậu mà người đàn ông xanh đang kể lại.

Qua vùng núi, họ tới đồng bằng đỏ mênh mông, và họ đi về miền Bắc, qua hết làng này tới làng khác. Tại mỗi ngôi làng, nhiều người đàn ông với cái nhìn bồn chồn cùng đàn bà và con nít lại nhập vào đoàn lữ hành, thấy vào chỗ những người đã chết. Vị tù trưởng vĩ đại đi đầu, trên lưng con lạc đà trắng, với các con trai và các chiến binh của lão bao quanh. Nour trông thấy từ xa một vùng bụi chừng như đang dẫn dắt họ.

Khi tới trước thành phố Marrakech vĩ đại, họ không dám tiến lại gần nên dựng lều trại gần con sông khô cằn, về phía Nam. Trong suốt hai ngày, những người đàn ông xanh chờ đợi, gần như không cử động, trong những căn lều của họ và trong những cái chòi bằng cành cây. Gió nóng mùa hạ phủ bụi lên người họ, nhưng họ vẫn chờ đợi, tất cả sức lực của họ đều dồn vào sự chờ đợi.

Cuối cùng, vào ngày thứ ba, những người con trai của Ma el Aĩnine cũng trở về. Bên cạnh họ, trên lưng ngựa, là một người vóc dáng cao lớn, ăn vận như những chiến binh miền Bắc, và tên anh được truyền đi từ miệng người này sang miệng người khác: "Moulay Hiba, người được mệnh danh là Moulay Dehiba, Mảnh Vàng, Moulay Scbaa, Sư Tử."

Khi nghe tên anh, người chiến binh mù bắt đầu run lẩy bẩy và hai dòng lệ chảy dài từ đôi mắt nóng hổi của anh. Anh chạy thẳng tới trước Moulay Hiba, hai cánh tay dang rộng, miệng hét lên một tiếng kéo dài nghe như tiếng rên dữ dội xé rách màng nhĩ.

Nour đã cố giữ anh lại, nhưng người chiến binh mù gắng hết sức để chạy, anh va vấp vào đá, anh loạng choạng trên nền đất đầy bụi. Những con người của sa mạc giạt ra trước anh, thậm chí có mấy người còn hốt hoảng, không dám nhìn, bởi họ nghĩ anh bị quỷ ám. Người chiến binh mù như bị giày vò bởi một niềm vui và một nỗi khổ vượt bậc. Nhiều lần anh bị ngã trên mặt đất vì va vấp vào một rễ cây hay một hòn đá, nhưng lần nào anh cũng lồm cồm bò dậy rồi tiếp tục chạy về phía Ma el Aĩnine và Moulay Hiba mà không trông thấy họ. Cuối cùng Nour đuổi kịp anh, nắm lấy cánh tay anh; nhưng anh vẫn tiếp tục vừa chạy vừa la, kéo theo cả Nour. Anh tiến thẳng tới trước như thể anh đã trông thấy Ma el Aĩnine cùng người con trai lão và anh đang tới trước họ, không lầm lẫn chút nào. Các chiến binh của lão tù trưởng sợ hãi, họ nắm lấy súng để ngăn cản người mù tiến tới. Nhưng lão tù trưởng chỉ nói với họ:

"Hãy để họ tới."

Đoạn lão xuống khỏi lưng lạc đà và tới gần người chiến binh mù.

"Ngươi muốn gì?"

Người chiến binh mù ngã vật trên nền đất, hai cánh tay chìa tới trước, và những tiếng khóc nức nở khiến anh run run, nghẹn ngào. Chỉ có tiếng rên dài xé lòng tiếp tục phát ra từ cổ họng anh, nó trở nên yếu ớt và hổn hển như một lời van vỉ. Bấy giờ chính Nour lên tiếng:

"Đức vua vĩ đại, xin hãy cho anh ấy sáng mắt", cậu nói.

Ma el Aĩnine nhìn người đàn ông đang nằm dài trên đất hồi lâu, thân thể anh run lên trong tiếng khóc nức nở, quần áo anh rách bươm, hai bàn tay và hai bàn chân anh loang máu vì cuộc hành trình. Lão lặng lẽ quỳ gối bên người mù, lão đặt bàn tay lên gáy anh. Những người đàn ông xanh và các con trai của lão vẫn đứng im. Niềm im lặng của khoảnh khắc đó lớn lao đến đỗi Nour cảm thấy choáng váng. Một sức mạnh lạ lùng, xa lạ toát ra từ mặt đất đầy bụi, vây bọc mọi người trong cơn lốc của nó. Có thể đó là ánh sáng của mặt trời chiều, hoặc quyền năng của cái nhìn đăm đăm hướng tới chốn này, đang tìm cách thoát đi như một thứ nước tù đọng. Từ từ, người chiến binh mù nhổm dậy, khuôn mặt anh hiện ra trong ánh sáng, nhem nhuốc bởi cát và nước mắt. Dùng một góc tấm vải choàng màu xanh da trời của mình, Ma el Aĩnine lau mặt cho người đàn ông. Tiếp theo, lão đưa bàn tay lên trán anh, lên hai mí mắt nóng bỏng của anh, như muốn xóa đi một cái gì đó. Lão dùng đầu các ngón tay thấm nước miếng của mình, xoa lên mí mắt người mù, và lão thổi nhẹ vào mặt anh, không nói lời nào. Niềm im lặng kéo dài lâu đến đỗi Nour không còn nhớ điều gì đã xảy ra trước đó, không còn nhớ mình đã nói gì. Quỳ gối trên cát, bên lão tù trưởng, cậu chỉ biết nhìn vào khuôn mặt người chiến binh mù, nơi một ánh sáng mới chừng như đang tỏa ra. Người đàn ông không còn rên rỉ nữa. Anh vẫn bất động trước lão tù trưởng, hai cánh tay hơi dang ra, hai con mắt bị thương mở thật to, như thể anh đang dần ngây ngất với cái nhìn của lão tù trưởng.

Sau đó, những người con trai của Ma el Aĩnine tới, và Moulay Hiba cũng lại gần, và họ đỡ lão già dậy. Thật nhẹ nhàng, Nour nắm cánh tay người chiến binh, và đến lượt cậu đỡ anh dậy. Người đàn ông bắt đầu bước đi, anh tựa vào vai chàng trai trẻ, và ánh sáng mặt trời sắp lặn chiếu lấp lánh trên khuôn mặt anh như một lớp bụi vàng. Anh không nói gì. Anh chầm chậm bước tới như một người vừa trải qua một chứng bệnh trầm kha, hai bàn chân đặt thật sát lên nền đất sỏi.

Anh bước hơi loạng choạng, nhưng hai cánh tay anh không còn dang ra nữa, và nỗi đau khổ không còn trong thân thể anh. Những con người của sa mạc vẫn bất động, lặng im đưa mắt nhìn anh bước đi về phía bên kia đồng bằng. Nỗi đau khổ không còn, giờ đây khuôn mặt anh trở nên bình lặng và dịu dàng, và cái nhìn của anh tràn ngập thứ ánh sáng vàng rực của mặt trời đang chạm tới chân trời. Và trên vai Nour, bàn tay anh trở nên nhẹ nhàng, như bàn tay của kẻ biết mình đi về đâu.

Sông Tadla, 18 tháng Sáu, 1910

Những người lính đã rời khỏi Zettat và Ben Ahmed trước bình minh. Đích thân tướng Moinier chỉ huy đại quân khởi hành từ Ben Ahmed, gồm hai ngàn lính bộ binh vũ trang bằng súng trường Lebel. Đoàn người từ từ tiến bước trên đồng bằng cháy nắng, hướng tới thung lũng sông Tadla. Dẫn đầu đoàn quân có tướng Moinier, hai sĩ quan Pháp và một quan sát viên thường dân. Một người Mauritanie dẫn đường đi cùng họ, ăn vận như những chiến binh miền Nam, cưỡi ngựa như các sĩ quan.

Cùng ngày một đạo quân khác, chỉ gồm năm trăm người, đã rời thành phố Zettat tạo thành một gọng kìm kẹp chặt đám loạn quân của Ma el Aĩnine trên đường chúng tới miền Bắc.

Trước mắt những người lính, mặt đất trần trụi trải dài tới ngút tầm mắt, màu đất son, màu đỏ, màu xám, nó rực lên dưới bầu trời xanh. Ngọn gió nóng rát của mùa hạ thổi qua trên mặt đất, làm bụi tung bay mù mịt, làm ánh sáng mờ đi như một lớp sương mù.

Không ai nói gì. Các viên sĩ quan phía trước lo thúc ngựa để tách khỏi đoàn quân, hy vọng phần nào thoát khỏi đám bụi ngột ngạt. Mắt họ rình rập về phía chân trời để trông chừng những điều khả hữu: nước, những ngôi làng bằng bùn, hoặc kẻ thù.

Từ lâu lắm rồi, tướng Moinier vẫn chờ đợi giây phút này. Mỗi khi nghe nhắc tới miền Nam, tới sa mạc, ông đều nghĩ tới lão, Ma el Aĩnine, con người không khoan nhượng, con người cuồng tín, con người đã thề đuổi tất cả những người theo đạo Cơ Đốc ra khỏi bờ cõi sa mạc, lão thủ lĩnh của quân phiến loạn, kẻ ám sát toàn quyền Coppolani.

“Không có gì ghê gớm", bộ tham mưu đã nói tại Casa, tại đồn Trinquet, tại đồn Gouraud. "Một tên cuồng tín. Một thứ phù thủy, một kẻ làm ra mưa, một kẻ đã lôi kéo theo mình tất cả những kẻ rách rưới ở Draa, ở Tindouí, tất cả bọn da đen ở Mauritanie."

Nhưng lão già của sa mạc là người không thể tóm nổi. Người ta báo lão đang có mặt ở miền Bắc, gần những đồn kiểm soát đầu tiên của sa mạc. Khi người ta đi tìm lão thì lão đã biến mất. Sau đó người ta lại nói về lão, lần này là trên bờ biển, tại Rio de Oro, ở Ifni. Dĩ nhiên, với người Tây Ban Nha thì lão ta được phần ngon rồi! Người ta đã làm gì ở đó, ở El Aaiun, ở Taríaya, ở mũi Juby? Xong việc, lão tù trưởng quỷ quyệt như một con cáo, đã cùng với những chiến binh của mình quay về "lãnh địa" của lão ở miền Nam vùng Draa, tại thung lũng Saguiet el Hamra, trong "pháo đài" của lão ở Smara. Không thể nào đánh bật lão ra khỏi nơi đó được. Rồi sau đó lại có chuyện huyền bí, chuyện mê tín nữa. Bao nhiêu người đã có thể bàng qua vùng đó? Trong khi cưỡi ngựa đi bên các viên sĩ quan, người quan sát nhớ lại chuyến đi của Camille Douls, năm 1887. Câu chuyện về lần ông ta gặp Ma el Aĩnine trước dinh thự của lão tại Smara: choàng khăn trùm rộng màu xanh da trời, quấn chiếc khăn trăng cao trên đầu, lão tù trưởng bước tới chỗ ông ta, lão nhìn ông ta hồi lâu. Douls là tù nhân của người Mauritanie, quần áo rách bươm, mặt mày bầm tím vì mệt mỏi và vì nắng cháy, nhưng Ma el Aĩnine nhìn ông ta không chút hận thù, không chút khinh miệt. Chính cái nhìn dai dẳng đó, niềm im lặng đó sẽ còn sống mãi trong trí nhớ, khiến người quan sát phải rùng mình mỗi lần hắn nghĩ tới Ma el Aĩnine. Nhưng có thể hắn là người duy nhất cảm thấy điều đó khi xưa kia đọc hồi ký của Douls. "Một kẻ cuồng tín", các viên sĩ quan nói, "một con người man rợ chỉ biết cướp bóc và giết chóc, chỉ biết giết sạch và đốt sạch tại các vùng miền Nam, như năm 1904, khi Coppolani bị ám sát tại Tagant, như tháng Tám năm 1905, khi Mauchamp bị ám sát tại Oujda."

Thế mà mỗi ngày khi cùng đi với các viên sĩ quan, người quan sát lại cảm thấy nỗi lo âu, nỗi sợ sệt mà hắn không thể nào hiểu nổi ấy. Như thể hắn sợ phải bất thần bắt gặp nơi khúc quanh của một ngọn đồi, nơi kẽ nứt của một con suối khô, cái nhìn của lão tù trưởng vĩ đại, một mình giữa sa mạc.

Giờ đây lão ta đã hết thời rồi, lão ta không cầm cự nổi nữa rồi, chuyện đó có thể tính bằng tháng, có thể bằng tuần, lão ta buộc phải đầu hàng thôi, hoặc lão ta phải nhảy xuống biển hay mất biệt trong sa mạc, không còn ai ủng hộ lão ta nữa và lão ta biết rõ điều ấy..."

Đám sĩ quan chờ đợi khoảnh khắc này từ lâu lắm rồi, và bộ tham mưu quân đội tại Oran, tại Rabat, tại Dakar cũng vậy. Con người "cuồng tín" đã bị dồn vào đường cùng, một bên là biển, một bên là sa mạc. Con cáo già sắp sửa buộc phải đầu hàng. Chẳng phải lão ta đã bị mọi người bỏ rơi hay sao? Tại miền Bắc, Moulay Hafid đã ký Hiệp ước Algésiras chấm dứt cuộc thánh chiến. Hắn chấp nhận chế độ bảo hộ của Pháp. Tiếp theo, có lá thư tháng Mười năm 1909 của chính con trai Ma el Aĩnine là Ahmed Hiba, người được mệnh danh là Moulay Sebaa, Sư Tử, qua đó hắn chấp nhận để tù trưởng phục tùng theo luật Makhzen, và hắn cầu xin được cứu viện. "Sư Tử! Giờ đây hắn rất đơn độc, Sư Tử, và những người con trai khác của tù trưởng, Ech Chems, tại Marrakech, và Larhdaf, tên cướp, kẻ chuyên cướp phá vùng Hamada. Bọn chúng không còn khả năng, phương tiện, không còn vũ khí, và dân ở Souss đã bỏ rơi chúng... Chúng chỉ còn lại một nhúm tàn binh thảm hại không có vũ khí gì khác ngoài mấy khẩu cạc bin cổ lỗ sĩ nòng bằng đồng, mấy cây mã tấu và giáo mác! Thời Trung cổ!".

Trong lúc đi ngựa cùng đám sĩ quan, người quan sát thường dân nghĩ tới tất cả những ai đang mong đợi sự sụp đổ của lão tù trưởng. Những người Âu châu ở Bắc Phi, "bọn người Cơ Đốc giáo" như dân sa mạc vẫn gọi - nhưng tôn giáo đích thực của họ không phải là tôn giáo của tiền bạc hay sao? Những người Tây Ban Nha ở Tanger, ở Ifni, những người Anh ở Tanger, ờ Rabat, những người Đức, những người Hà Lan, những người Bỉ, và tất cả các chủ ngân hàng, tất cả các nhà kinh doanh đang rình chờ sự sụp đổ của vương quốc Ả Rập, đã vạch ra những kế hoạch chiếm đóng, đang chia chác những khoảnh đất cày, những rừng sồi bần, những vùng mỏ, những vùng trồng cọ. Các nhân viên Ngân hàng Paris và Hà Lan đang tăng biểu thuế quan tại tất cả các hải cảng. Các tay kinh doanh chạy theo lợi nhuận của nghị sĩ Etienne, những người đã thành lập "Công ty Ngọc bích Sahara", "Công ty Nitrat tại Gourara-Touat", đòi dành đất hoang để mở các tuyến đường sắt tưởng tượng, các con đường xuyên sa mạc Sahara, xuyên Mauritanie, và chính quân đội là người mờ đường bằng những phát súng.

Lão già ở Smara liệu còn có thể làm được gì khi một mình lão phải chống lại làn sóng tiền bạc và đạn dược kia? Cái nhìn dữ tợn của con vật bị đuổi dồn là lão còn có thể làm được gì để chống lại những kẻ đầu cơ, những kẻ đang thèm khát những vùng đất, những thành phố, những kẻ muốn làm giàu trên sự khốn cùng của dân tộc này?

Bên người quan sát thường dân, các viên sĩ quan cưỡi ngựa đi, mặt mày thản nhiên, họ không nói một lời nào vô ích. Mắt họ đăm đăm nhìn về chân trời, ở phía bên kia các đồi đá, nơi thung lũng mù sương của con sông Tadla đang trải rộng.

Phải chăng họ cũng không buồn nghĩ tới những gì mình đang làm? Họ đang cưỡi ngựa đi trên con đường mòn vô hình mà người dẫn đường người Touareg ngồi trên lưng con ngựa màu vàng hung đang mở ra cho họ.

Phía sau họ, những tên lính bản xứ người Senegal, người Soudan mặc quân phục xám phủ bụi, người nghiêng nghiêng về phía trước, đang nặng nề bước tới, chân giơ thật cao như để bước qua những rãnh cày. Bước đi của họ tạo thành tiếng nạo đều đều trên đất cứng. Sau họ, lớp bụi đỏ và xám từ từ dâng lên, làm bầu trời vẩn đục.

Chuyện đó đã khởi sự từ lâu. Giờ đây, người ta không làm gì được nữa, như thể đội quân này sắp sửa tấn công các bóng ma. "Nhưng lão ta sẽ không đời nào chấp nhận đầu hàng, nhất là trước người Pháp. Lão ta thà để cho người của lão bị giết tới người cuối cùng, và để cho chính lão bị giết nữa, bên cạnh những tên con trai của lão, hơn là bị bắt... Và điều đó sẽ tốt hơn cho lão ta, bởi vì, hãy tin tôi đi, chính phủ không chấp nhận sự đầu hàng của lão sau vụ ám sát Coppolani đâu, các anh còn nhớ chứ? Không, đó là một kẻ cuồng tín, hung ác, man rợ, lão ta phải chết thôi, lão ta và toàn thể bộ lạc lão ta, bọn Berik Al-lah, bọn được Thượng đế ban phúc lành, như chúng vẫn tự xưng... Thời Trung cổ mà, có phải không?".

Con cáo già đã bị người của mình phản bội, bị bỏ rơi. Các bộ lạc đã lần lượt tách ra khỏi lão, bởi các thủ lĩnh đều cảm thấy không thể chống lại được bước tiến của những người Cơ Đốc giáo, ở miền Bắc, ở miền Nam, họ còn tới bằng đường biển, họ băng qua sa mạc, họ đã có mặt tại các cửa ngõ sa mạc, ở Tindouí, ở Tabelbala, ỞOuadane, họ chiếm đóng cả thánh địa Chinguetti, nơi Ma el Aĩnine từng giảng huân lần đầu tiên.

Tại Bou Denib, có thể trận đánh lớn cuối cùng đã diễn ra, khi tướng Vigny đè bẹp sáu ngàn người của Moulay Hiba. Vậy là người con trai của Ma el Aĩnine phải lẩn trốn lên núi, dĩ nhiên anh ta đã biến mất để che giấu sự nhục nhã, bởi anh ta đã trở thành một lakhme, mớ thịt không xương, như họ vẫn nói, một kẻ chiến bại. Lão tù trưởng còn lại một mình, bị giam hãm trong chiến lũy của lão tại Smara, không hay biết rằng không phải vũ khí mà chính tiền bạc đã đánh bại lão; tiền của bọn chủ nhà băng đã chi trả cho lính của đức vua Moulay Hafid và cho những bộ quân phục đẹp đẽ của họ; tiền mà những tên lính Cơ Đốc kiếm được tại các hải cảng bằng cách lấy phần của chúng trong tiền thuế hải quan; tiền từ những vùng đất bị cướp đoạt, những vùng trồng cọ bị cưỡng chiếm, những khu rừng tặng không cho những ai biết chiếm đoạt chúng. Làm sao lão hiểu được điều đó? Lão có biết Ngân hàng Paris và Hà Lan là cái gì không, lão có biết thế nào là một khoản vay để xây dựng đường sắt không, thế nào là một Công ty khai thác nitrat tại Gourara-Touat không? Ít ra lão có biết rằng trong lúc lão mải cầu nguyện và ban phúc lành cho những con người của sa mạc, thì các chính phủ Pháp và Anh đã ký một hiệp định hiến cho nước này một nước gọi là Marôc và cho nước kia một nước gọi là Ai Cập không? Trong lúc lão gửi gắm lời nói và hơi thở của mình tới những con người tự do cuối cùng, tới những người Izarguen, tới những người Aroussiyine, tới những người Tidrarin, tới những người Ouled Bou Sebaa, tới những người Taubalt, tới những người Reguibat Sahel, tới những người Ouled Delim, tới những người Imraguen, trong lúc lão trao quyền lực của mình cho chính bộ lạc của lão, cho những người Berik Al-lah, lão có biết rằng một tổ hợp ngân hàng, mà thành viên chính là Ngân hàng Paris và Hà Lan, đã chấp thuận cho đức vua Moulay Hafid vay một khoản lên tới 62.500.000 đồng tiền vàng, mà lãi suất 5% được đảm bảo bằng những gì thu được từ tất cả các món thuế hải quan trên các hải cảng dọc theo bờ biển, và bọn lính nước ngoài đã tới để canh chừng việc chuyển vào Ngân hàng tối thiểu 60% tiền thuế hải quan thu về mỗi ngày? Lão có biết rằng vào thời điểm Hiệp ước Algésiras chấm dứt cuộc thánh chiến ở miền Bắc thì món nợ của đức vua Moulay Hafid đã lên tới 206.000.000 đồng tiền vàng và điều hiển nhiên là ông ta sẽ không bao giờ trả nổi cho chủ nợ cả? Nhưng lão tù trưởng không biết điều đó, bởi các chiến binh của lão không chiến đấu để được vàng, mà chỉ để được phúc lành, và đất mà họ bảo vệ không thuộc về họ, cũng không thuộc về bất luận ai, bởi dưới con mắt họ đó chỉ là không gian tự do, một món quà của Thượng đế.

... Một kẻ man rợ, một con người cuồng tín, kẻ vẫn nói với các chiến binh của mình trước khi vào trận, rằng lão ta sẽ biến họ thành bất khả chiến bại và bất tử, kẻ vẫn đưa họ vào những cuộc tấn công của súng trường và súng máy trong khi họ chỉ được vũ trang bằng gươm và giáo...".

Giờ đây toán quân bản xứ da đen đang chiếm toàn bộ thung lũng sông Tadla, trước nơi lội qua, trong khi những con người quyền lực của thành Tadla tới đầu hàng các sĩ quan Pháp. Khói từ lửa trại bay lên trong trời chiều, và người quan sát thường dân ngắm nhìn, như vẫn ngắm nhìn trong mỗi chặng đường, bầu trời đêm lộng lẫy đang từ từ ló dạng. Hắn lại nghĩ tới cái nhìn của Ma el Aĩnine, bí ẩn và sâu thẳm, cái nhìn đó hướng tới Camille Douls ngụy trang thành thương gia Thổ Nhĩ Kỳ, và dò xét tới tận cùng tâm can ông ta. Có phải bây giờ lão đã đoán biết ra con người ngoại bang ăn mặc rách rưới kia mang tới cái gì, kẻ đầu tiên đánh cắp hình ảnh đó, kẻ mỗi tối vẫn viết nhật ký lên những trang kinh Coran của mình? Nhưng giờ đây thì đã quá trễ, và không gì có thể ngăn cản định mệnh hoàn thành. Một bên là biển, một bên là sa mạc. Mọi chân trời đang khép chặt quanh dân tộc Smara, chúng đang siết chặt quanh những đám dân du mục cuối cùng. Cái đói, cái khát vây hãm họ, họ đang biết thế nào là sợ hãi, bệnh tật, chiến bại.

"Đã từ lâu rồi, chỉ cần làm một phát là xong đời lão tù trưởng và đám tàn quân của lão ta, nếu người ta muốn. Một khẩu đại bác 75 trước dinh thự bằng đất nhồi rơm của lão ta, cùng vài khẩu súng máy, và nó thành bình địa ngay. Có thể người ta thấy điều đó cũng chẳng bõ công. Người ta tự nhủ tốt hơn là đợi lão ta rụng tự nhiên, như một trái cây bị sâu ăn... Nhưng giờ đây, sau vụ ám sát Coppolani, thì đây không còn là cuộc chiến tranh nữa mà là một chiến dịch của cảnh sát nhằm tiêu diệt một băng cướp, thế thôi."

Lão già bị phản bội bởi chính những kẻ mà lão muốn bảo vệ. Chính những người ở Souss, ở Taroudant, ở Agadir đã đưa tin: "Tù trưởng vĩ đại Moulay Ahmed ben Mohammed el Fadel, người được mệnh danh là Ma el Aĩnine, Nước Mắt, đang trên đường tới miền Bắc với các chiến binh sa mạc của lão, những người của vùng Draa, của thung lũng Saguiet el Hamra, và ngay cả những người đàn ông xanh từ Oualata, từ Chinguetti. Họ đông đến đỗi phủ kín cả một vùng đồng bằng. Họ đi về miền Bắc, về thánh địa Fez để lật đổ nhà vua, và đưa Moulay Hiba lên thay, tức là người được mệnh danh là Sebaa, Sư Tử, trưởng nam của Ma el Aĩnine".

Nhưng bộ tham mưu không tin điều đó. Tin trên chỉ khiến các sĩ quan bật cười.

"Lão già của xứ Smara đã điên rồi. Lão ta tưởng có thể lật đổ nhà vua và đánh đuổi quân đội Pháp với đội quân rách bươm của lão!" Điều này có vẻ như là con cáo già đã bị dồn tới đường cùng giữa biển và sa mạc, và lão ta chọn cách tự sát; đó là lối thoát duy nhất còn lại cho lão ta, chết cùng với toàn bộ bộ lạc của mình.

Thế là hôm nay, 21 tháng Sáu năm 1910, đội quân bản xứ da đen lên đường cùng với ba viên sĩ quan Pháp và người quan sát thường dân đi đầu. Nó rẽ về miền Nam để gặp đội quân khác xuất phát từ Zettat. Hai gọng kềm siết lại để kẹp chặt lão tù trưởng và đám tàn quân của lão.

Mặt trời đốt bỏng mắt những tên lính bằng thứ ánh sáng lẫn với bụi của nó. Xa xa trên ngọn đồi nhô cao trên vùng đồng bằng sỏi đá, một ngôi làng có màu đất son hiện ra, khó phân biệt với sa mạc. "Thành Zidaniya", người dẫn đường chỉ thốt lên như vậy. Nhưng ngay lúc ấy hắn dừng ngựa. Xa xa một toán chiến binh đang cưỡi ngựa phi nước đại dọc theo các ngọn đồi. Đám lính bản xứ vào vị trí trong lúc các viên sĩ quan thúc ngựa ra xa.

Nhiều phát súng vang lên rời rạc, không nghe tiếng đạn rít hay va vào đâu. Người quan sát thường dân nghĩ sao mà giống tiếng súng săn miền quê! Một người đàn ông bị thương bị bắt làm tù binh, một người Ả Rập thuộc bộ lạc người Beni Amir. Lão tù trưởng Ma el Aĩnine còn cách không xa, những chiến binh của lão đang trên đường tới El Borouj, ở miền Nam. Đội quân lại lên đường nhưng giờ đây các viên sĩ quan đi gần bọn lính. Mỗi người đều nhìn chăm chú vào các bụi rậm. Mặt trời còn ở phía cao trên bầu trời khi xảy ra cuộc chạm súng thứ hai trên đường mòn tới El Borouj. Những phát súng lại vang lên trong cái im lặng nóng bỏng. Tướng Moinier ra lệnh tấn công về phía lòng thung lũng. Đám lính Senegal bắn quỳ, sau đó chạy lên, lưỡi lê chĩa tới trước. Bộ lạc người Beni Moussa đã giết mười hai tên lính da đen trước khi băng qua các bụi rậm tìm đường lẩn trốn, bỏ lại độ chục xác chết. Thế là đội quân Senegal tiếp tục tấn công về phía vùng thấp của thung lũng. Bọn lính đánh bật những người đàn ông xanh ở khắp nơi, nhưng đó không phải là những chiến binh vô địch mà người ta vẫn chờ đợi. Đó là những con người ăn mặc rách rưới, râu ria xồm xoàm, không vũ khí, đang chạy cà nhắc, đang té ngã trên nền đất sỏi. Đúng hơn đó là những kẻ ăn mày ốm yếu, bị mặt trời thiêu đốt, bị chứng sốt làm cho hao mòn, họ loạng choạng va vấp vào nhau, buông những tiếng kêu tuyệt vọng, trong khi bọn Senegal thì nô nức trước hận thù chết chóc, bắn xối xả vào họ, đóng chặt họ vào đất đỏ bằng lưỡi lê. Tướng Moinier có ra lệnh tập hợp cũng vô ích. Trước bọn lính da đen, những người đàn ông và những người đàn bà đang tháo chạy hỗn loạn, đang ngã gục trên mặt đất. Trẻ con chạy bừa vào các bụi rậm, lặng đi vì khiếp sợ, còn những đàn cừu và dê thì vừa xô đẩy nhau vừa kêu ầm ĩ. Thân thể những người đàn ông xanh nằm rải rác khắp nơi trên mặt đất. Những phát súng cuối cùng vang lên, sau đó người ta không nghe thấy gì nữa, và cái im lặng nóng bỏng lại đè nặng lên cảnh vật.

Trên đồi cao, ngồi im trên lưng những con ngựa đang bồn chồn không yên, đám sĩ quan đang nhìn xuống khoảng đất rộng đầy những bụi rậm nơi những người đàn ông xanh đã biến mất, như bị đất nuốt chửng. Bọn lính Senegal kéo nhau trở lại, mang theo các đồng đội đã chết, chúng không thèm ngó tới hàng trăm đàn ông và đàn bà, quần áo rách bươm, đang nằm dưới đất. Đâu đó trên triền đồi, giữa những bụi gai, một đứa con trai đang ngồi bên thi thể một chiến binh đã chết, và cậu đang cố hết sức để nhìn vào khuôn mặt đẫm máu, nơi hai con mắt đã lịm tắt

Trên đường phố vừa rạng sáng, đứa con trai đang thong thả bước dọc theo những chiếc xe đậu lại. Thân hình mảnh khảnh của nó lướt dọc theo các thùng xe, hình phản chiếu của nó chạy trên các mặt kính, các hông xe bóng láng, các ngọn đèn pha, nhưng đó không phải là cái nó nhìn. Nó hơi nghiêng người bên từng chiếc ô tô, và cái nhìn của