Chương XIII Mã Ngôi Dịch
1
Mặt đất mùa xuân.
Màu xanh non đang đâm lên từ lòng đất. Sức mạnh to lớn cỡ nào đã ngủ yên trong lòng đất suốt quãng thời gian vừa qua? Sức mạnh ấy thấm ra từ mặt đất từng ngày. Nó hóa thành màu xanh lá, rồi hồ như sắp sửa hiện hình.
Hai bên phố trồng liễu. Lá liễu xanh đung đưa trong gió.
Mùa xuân. Gió thổi qua mặt đất mang theo hơi cỏ. Hai bên phố, cứ một quãng lại có một cây hoa đào, màu đỏ thắm của hoa khiến Không Hải và Dật Thế nhìn mãi không chán mắt.
Họ đang đi bộ. Ngày thứ hai sau khi rời Trường An. Không Hải và Dật Thế chỉ còn cách Mã Ngôi Dịch chừng một dặm nữa. Ở Mã Ngôi Dịch có mộ của Dương quý phi.
Dương quý phi, tên thật là Dương Ngọc Hoàn, con út của quan tư hộ Thục châu Dương Huyền Diễm, sinh vào năm Khai Nguyên thứ bảy đời nhà Đường. Nhưng vì cha chết sớm nên từ nhỏ đã được người chú ruột Dương Huyền Kiểu nhận về làm con nuôi.
Năm Khai Nguyên thứ hai mươi ba, Dương Ngọc Hoàn mười bảy tuổi, trở thành phi của Thọ Vương Lý Mạo, hoàng tử thứ mười tám của Hoàng đế khi ấy là Huyền Tông. Tuy nhiên, năm nàng hai mươi hai tuổi, tức năm Khai Nguyên thứ hai mươi tám, nàng được hoàng đế Huyền Tông triệu vào cung.
Đối với Lý Mạo thì như thế có nghĩa là đã bị hoàng đế Huyền Tông, tức cha ruột mình, đoạt mất vợ. Khi ấy, Huyền Tông năm mươi sáu tuổi.
Tất nhiên, cho dù là Huyền Tông đi chăng nữa thì cũng thấy rằng trắng trợn đoạt vợ con trai là không ổn, mới buộc Ngọc Hoàn tạm thời xuất gia để làm đạo cô (nữ đạo sĩ), ban cho hiệu là Thái Chân. Sau đó ba năm, Hoàng đế đưa Ngọc Hoàn vào cung, tức năm Thiên Bảo thứ hai.
Và phải thêm một năm nữa, Ngọc Hoàn mới chính thức trở thành quý phi, khi ấy nàng hai mươi bảy tuổi.
Con tim chán chường việc chấp chính của Huyên Tông đã bị Ngọc Hoàn, tức Dương quý phi, chiếm trọn. Quý phi được gọi là nương tử, được ban cho ân sủng và quyền lực ngang với hoàng hậu.
Người được gia ân không chỉ có bản thân Ngọc Hoàn. Cả nhà nàng ai nấy đều được làm quan to hoặc lấy người hoàng tộc; ba cô chị gái lần lượt được phong tước Hàn quốc phu nhân, Quắc quốc phu nhân, Tần quốc phu nhân, người anh họ Dương Chiêu được ban cho tên Quốc Trung. Dương Quốc Trung có năng khiếu khác thường về tài chính, nên sau khi tể tướng Lý Lâm Phủ chết, Dương Quốc Trung liền trở thành tể tướng và nắm thực quyền.
Dinh thự của gia tộc họ Dương nối nhau mọc lên, tranh đua vẻ xa hoa; mỗi khi tòng giá thì nhà nào nhà nấy đều xếp thành đội ngũ với trang phục chỉnh tề. Đám đàn bà con gái thì mặc quần ống dài, diêm dúa theo lối Hồ, xỏ giày cao cổ bằng da kiểu Tây vực và cưỡi ngựa. Vinh hoa ấy của nhà họ Dương khiến bao kẻ ghen ghét.
Sự khốc liệt và đen tối của những cuộc tranh giành quyền lực sống còn trong cung vốn dĩ đã vượt ra ngoài sức tưởng tượng của người thường. Số phận kẻ thua cuộc, nếu kém may mắn thì là cái chết cho cả gia tộc, nếu may mắn thì bị giáng xuống làm chức dịch ở miền biên viễn, hoặc bị tước hết cuộc sống quyền quý trước đó và trở thành thường dân.
Những cuộc tranh giành như thế không bao giờ là đủ. Việc cố gắng leo lên những nấc thang quyền lực chưa chắc đã phải vì dục vọng, mà bởi một khi đã sa chân vào con đường ấy, thì chỉ còn cách là phải leo đến cùng mới mong bảo vệ được bản thân.
Ngay với Ngọc Hoàn cũng vậy, nếu không tập hợp quanh mình các thành viên của gia tộc, nàng làm sao có thể bảo vệ nổi mình. Người ta có thể dễ dàng bị truy sát bởi những lời đồn đại hoặc gièm pha. Kẻ thù của Dương quý phi, đầu tiên phải kể đến là những người phụ nữ trong cung từng nhận được sự sủng ái trước đó của Hoàng đế. Một vài người bọn họ đã bị giết chết do bại trận trong cuộc đấu đá quyền lực với Dương Ngọc Hoàn. Họ hàng kẻ thua cuộc sẽ hận nàng, nếu để cho chúng sống sẽ thành hậu họa về sau. Vì vậy, một khi đã chôn vùi, thì phải chôn vùi cả nhà kẻ thù.
Gia tộc họ Dương đã đi qua cuộc đấu đá quyền lực ấy và lên đến tột cùng nấc thang quyền lực. Huyền Tông vì mê đắm Dương quý phi nên đã trao cho họ Dương nhiều quyền lực hơn mức cần thiết. Đôi mắt của kẻ chấp chính đã thành ra mù quáng, khiến cho đám bề tôi tràn đầy bất mãn.
Trong đám ấy có một kẻ tên là An Lộc Sơn. Hắn không phải người Hán mà là người Hồ, còn là tạp Hồ sinh ra bởi cha là người Sogdia và mẹ là người Đột Quyết.
Trong khi làm tiết độ sứ ở vùng biên cương phía Bắc, An Lộc Sơn đã là một võ tướng lừng danh vì dẹp yên nhiều cuộc nổi loạn ở vùng biên cương. Cuối cùng, hắn trở thành con nuôi của Dương quý phi, lập mưu cùng Dương Quốc Trung là anh họ Dương quý phi hạ bệ kẻ có thực quyền khi ấy là Lý Lâm Phủ.
Sau này, An Lộc Sơn lại quay ra trở mặt với Dương Quốc Trung khi ấy đã lên làm tể tướng. Vì cớ ấy mà năm Thiên Bảo thứ mười bốn, An Lộc Sơn dấy binh. Đó là cuộc bạo loạn mà về sau được gọi là loạn An Sử.
An Lộc Sơn chẳng mấy chốc đã đánh đến Lạc Dương, Đông đô của Đế quốc Đại Đường, sau đó hạ thành Lạc Dương và đóng lại đây. Sang năm Thiên Bảo thứ mười lăm, An Lộc Sơn tự xưng Đại Yên Hoàng đế, tuyên bố cải niên hiệu thành Thánh Vũ.
An Lộc Sơn liên tiếp đẩy lui các cuộc tấn công của quân nhà Đường, rốt đến tháng Sáu, hai mươi vạn sáu ngàn quân Đường do Ca Thư Hàn thống lĩnh cũng bại trận dưới tay An Lộc Sơn.
Trường An đã loạn càng thêm loạn. Phố lớn tràn ngập những kẻ ôm gia tài đi trốn đặng tránh cuộc can qua sắp ập tới.
Còn Huyền Tông hoàng đế cuối cùng cũng hạ quyết tâm cùng các cận thần và gia quyến trốn khỏi Trường An, lánh về đất Thục. Phò giá Huyền Tông ngoài tể tướng Dương Quốc Trung và Dương quý phi còn có các thân vương, vương phi, công chúa, hoàng tôn, kể thêm quân cận vệ nữa là khoảng ba ngàn người.
Hoàng đế cùng đoàn tùy tùng nhân đêm tối đã rời khỏi Trường An theo Diên Thu Môn. Trời mưa lâm thâm. Sau khi vượt sông Vị Thủy thì đến Vọng Hiền Dịch ở Hàm Dương. Bữa ăn của Huyền Tông khi ấy chỉ có bánh nướng đạm bạc.
Nghe nói cùng ngày, dân chúng khi biết rằng cung điện chỉ còn là một cái vỏ rỗng không đã đổ xô vào trong cung, cướp đoạt vàng bạc, châu báu rồi châm lửa đốt.
Bọn Huyền Tông đi bộ giữa thảo nguyên khô héo mùa hạ, dưới cơn mưa dầm. Trên vùng thảo nguyên ấy, những lăng mộ của các đời vua nhà Hán nằm rải rác đang bốc khói trong mưa.
Đoàn người đến Mã Ngôi Dịch vào xế tà ngày hôm sau. Ở những vùng đất mà đoàn người đến, huyện lệnh và dân chúng đều đã bỏ trốn cả. Mã Ngôi Dịch cũng không phải ngoại lệ. Lương thực không còn. Trên đường đi, đã có những cận thần và binh sĩ bỏ trốn. Không ai chỉ huy nổi đoàn người nữa. Đám binh sĩ bắt đầu bực dọc vì đói và lo lắng.
“Dương Quốc Trung khốn kiếp.” Có ai đó nói.
Nếu như tể tướng Dương Quốc Trung xử khéo với An Lộc Sơn thì đã không xảy ra cớ sự này.
“Dương quý phi khốn kiếp.” Thậm chí có kẻ nói.
Hoàng đế vì mê đắm người đàn bà đó mà sao nhãng chính sự.
Phải rồi! Phải rồi! Những tiếng nói như vậy nổi lên khắp đây đó.
“Phải giết Dương Quốc Trung!” Ai đó hét lên.
“Phải giết Dương quý phi!” Ai đó hét lên.
“Phải tru di cả nhà họ Dương!”
Đại tướng quân Trần Huyền Lễ, người thống lĩnh Long Vũ quân, và đám binh sĩ hộ giá nhao nhao hét lên những lời như vậy. Cuộc nổi loạn đã nổ ra. Đám binh sĩ nhanh chóng giết chết những người nhà họ Dương.
Đầu tiên là Dương Quốc Trung và gia quyến.
Rồi đến lượt ba người chị gái của Dương quý phi.
Huyền Tông hoàng đế và Dương quý phi trông thấy sự việc ấy qua cửa sổ của dịch quán.
Duong quý phi nhìn thấy đầu của anh họ và ba chị gái mình bị cắm vào mũi thương của đám binh sĩ và bêu lên cao.
“Còn lại mầm họa duy nhất, nó đang ở trong dịch quán...” Trần Huyền Lễ đứng trước cánh cửa thét lớn.
Mầm họa, ấy chính là Dương quý phi. Có thể nói Dương quý phi vừa có tội mà lại vừa vô tội. Chính nhờ có Dương quý phi nên mới có Dương Quốc Trung và sự hiển đạt của cả nhà họ Dương. Tuy nhiên, tình thế lúc ấy không cho phép người ta suy xét đến nguyên nhân sự việc hay thế nào là tốt, xấu.
Trần Huyền Lễ đã giết gần hết người nhà họ Dương. Nếu tha cho Dương quý phi, thì nghĩa là nhà họ Dương vẫn còn có kẻ sống sót ở bên cạnh Hoàng đế, và rõ ràng là Dương quý phi sẽ sớm báo thù Trần Huyền Lễ, kẻ cừu địch của gia tộc mình. Vì vậy đối với Trần Huyền Lễ, ông ta sẽ chẳng còn đường sống nếu không tận diệt nhà họ Dương.
Lời giải chỉ có một.
Rốt cuộc, Huyền Tông hoàng đế đã lệnh cho hoạn quan Cao Lực Sĩ giết chết Dương quý phi. Cao Lực Sĩ cùng Quý phi đi ra trung đình, sau đó lấy một mảnh vải siết vào chiếc cổ trắng ngần của Quý phi và giết chết nàng trước một Phật đường nhỏ. Thi thể nàng được đem ra ngoài để Trần Huyền Lễ kiểm tra, nhờ vậy mà cuối cùng tình thế đã lắng dịu trở lại, cứ như thể đám binh sĩ vừa khỏi bị ma ám vậy.
Thi hài của Quý phi được táng ở một đồng cỏ không xa dịch quán. Nghe nói là ở một vạt đồi nhỏ nằm lui vào hơi sâu từ con đường cái dẫn tới đất Thục.
Sau đó Huyền Tông hoàng đế đã đến đất Thục bình an vô sự và trải hơn một năm trời tại đó.
Ở thành Lạc Dương, An Lộc Sơn bị lòa, đã thế lại mắc ung nhọt. Trong lúc ấy, người thiếp yêu là Đoạn Thị sinh con trai. An Lộc Sơn lập mưu hòng đưa người con này lên làm thế tử thay cho thế tử Khánh Tự. Âm mưu này bị Khánh Tự biết được, thành thử An Lộc Sơn lại bị chính Khánh Tự giết chết.
Tân Đường Thư kể về việc này như sau:
Đêm đó, Nghiêm Trang cùng Khánh Tự đem theo lính chờ ngoài cổng. Trư Nhi vào dưới trướng, cầm đại đao chém vào bụng Lộc Sơn. Lộc Sơn lần kiếm dưới gối nhưng không thấy. Sau đó bám vào cột nhà kêu lên: “Chính là giặc trong nhà ta!” Trong chốc lát, ruột gan xổ ra ngoài, bèn tắt thở trên giường. Khi ấy hơn năm mươi tuổi.
***
Huyền Tông trở lại Trường An vào tháng Mười một năm Chí Đức thứ hai. Chuyện kể rằng trước khi quay về Trường An, Huyền Tông muốn cải táng cho Quý phi, nhưng trong quần thần có kẻ phản đối, nên đành thôi.
Đó là toàn bộ những gì viết trong sách sử mà Không Hải biết được.
Đã sắp đến Mã Ngôi Dịch.
❖ 2 ❖“Này, Không Hải.” Dật Thế quay sang gọi Không Hải đang đi bên cạnh.
“Liệu có hạnh phúc không nhỉ?” Giọng Dật Thế chưa bao giờ lại ngậm ngùi như thế.
“Cái gì cơ?” Không Hải hỏi.
Không Hải vừa bước đi vừa bâng quơ nhìn những mảng xanh non trên đồng cỏ.
“Thì quý phi Dương Ngọc Hoàn ấy...”
Suốt dọc đường đi, Không Hải đã kể cho Dật Thế nghe những gì mình tìm hiểu được. Hình như Dật Thế có vài điều suy nghĩ liên quan đến chuyện ấy.
“Ừ, chẳng biết thế nào nhỉ?”
“Nàng là quý phi, nên chắc hẳn đã trải qua tột đỉnh vinh hoa...”
“Ừ.”
“Nhưng cuối cùng lại chết theo cái cách như thế thì thật là...”
“Nếu không chết theo cái cách như thế thì sẽ làm sao?”
Bị Không Hải hỏi, Dật Thế vặn vẹo đầu, ú ớ trong miệng: “Ờ thì...”
Một lát sau mới nói được tiếp: “Nhưng tóm lại là tớ cóc hiểu. Vì đó không phải chuyện của tớ. Đến ngay cả chuyện của tớ đôi khi tớ còn chả hiểu, huống hồ là chuyện của một người đàn bà, vốn đã không cùng một giống, lại khác nhau về thân phận.”
“Ừm.”
“Không Hải à. Khi còn ở đất nước ấy, tớ đã từng là một kẻ bất hạnh. Trong lòng lúc nào cũng cảm thấy bất bình và bất mãn. Tớ thèm khát được khoe ra tài năng của mình, vậy mà trên đời này chẳng có ai thật sự hiểu được tài năng của tớ, tớ đã từng nghĩ vậy...”
“...”
“Ở đất nước ấy, tớ đã từng bất hạnh...”
“Nếu là Đường thổ thì sẽ khác, tớ đã từng tin như vậy cho tới khi đến được đây, nhưng đến rồi lại thấy toàn những chuyện khiến tớ nhận ra sự bé mọn của mình. Cỡ tài năng như tớ, có quét đi cũng không hết. Tớ chỉ toàn nghĩ về Nhật Bản, nơi mà đáng lẽ ra tớ đã rất bất hạnh. Nhưng giờ đây, khi tự hỏi mình có bất hạnh hay không...”
“Thì sao?”
“Tớ cũng chẳng rõ nữa.”
“...”
“Tớ không rõ, nhưng Không Hải ạ, tớ thật sự nghĩ mình may mắn khi được gặp cậu. Hoặc ít ra cũng có thể nói rằng, tớ cảm thấy hạnh phúc hơn kể từ khi biết đến con người cậu.”
“...”
“Tớ nghĩ thế này Không Hải ạ. Hẳn là Quý phi cũng đã hạnh phúc. Tất nhiên cũng có phần bất hạnh. Trong một con người, lúc nào chả tồn tại hai thứ ấy, phải không? Thử ngẫm về tiền thì sẽ hiểu. Có tiền rồi sẽ không còn nữa những lo toan, vất vả trong cuộc sống nhưng thay vào đó, người ta lại canh cánh nỗi lo sợ mất tiền. Ở bên cô gái mà mình yêu thật vui biết mấy, nhưng ở riết cùng nhau, thì rồi một trong hai người, sẽ lại có kẻ thay lòng đổi dạ...”
“Ừm.”
“Nói về cuộc đời một con người, làm sao biết cuộc đời ấy là hạnh phúc hay bất hạnh?”
Dật Thế dường như đang độc thoại thì đúng hơn là nói với Không Hải.
“Nhưng dầu vậy, đã là con người thì ai cũng sẽ nghĩ đến việc hạnh phúc hay bất hạnh.”
“Cậu vẫn nói về Dương quý phi?”
“Ừm.” Dật Thế gật đầu, rồi im lặng, âm thầm bước đi giữa đồng cỏ mùa xuân.
Thấy Dật Thế như vậy, Không Hải cất tiếng: “Dật Thế này.”
“Không biết chừng cậu là một gã tốt bụng hơn tớ nhiều.”
“Này Không Hải, cậu nói thế làm tớ thấy như thể bị bảo là thằng ngốc vậy.”
“Đâu nào. Đúng như nghĩa đen thôi.”
“Một gã tốt bụng ư?”
“Phải.”
“Tớ vui được không?”
“Được chứ. Cậu là một gã tốt bụng.”
Dật Thế bất chợt tỏ vẻ bẽn lẽn như một đứa trẻ, rồi làm mặt nghiêm nghị, nói: “Thế thôi nhé, Không Hải. Tớ vui thế đủ rồi.”
Dật Thế hít một hơi sâu, rồi lại thở ra một cách xót xa.
❖ 3 ❖Triền đồi dốc hơn tưởng tượng.
Người ta khoét đất để tạo thành bậc cấp, rồi đóng những khúc gỗ tròn đã cắt thành đoạn ngắn nhằm giữ cho đất khỏi bị mưa cuốn trôi.
Tuy nhiên quá nửa số bậc cấp đã bị hư hỏng. Mưa đã cuốn trôi đất và những khúc gỗ.
Không Hải và Dật Thế đang leo lên theo con đường đó. Một rừng hòe. Màu xanh non của những búp lộc mới nhú rợp trên đầu Không Hải và Dật Thế. Ánh nắng chiều chiếu lên những búp chồi xanh non khiến chúng sáng lấp lánh. Bên dưới đó, Không Hải và Dật Thế đang leo lên qua những tia nắng lọt khe.
“Tuy là mộ phần của quý phi, song cũng không được trang hoàng gì cả cậu nhỉ.” Dật Thế nói.
Con đường họ đang đi có thể tạm gọi là khá khẩm hơn so với những con đường núi khác quanh đó.
Mặc dù thân phận là quý phi, song xét đến cùng thì cũng chỉ là một người đàn bà bị giết cho khỏi hậu họa về sau, nên mộ phần đương nhiên không thể nào tráng lệ quá được.
Đang đi thì Dật Thế dừng lại, nhìn sang Không Hải bên cạnh.
“Này cậu...” Dật Thế gọi khẽ. “Cậu có nghe thấy không?”
Dĩ nhiên, Không Hải đã nghe trước đây một lúc rồi. Đó là tiếng người. Một giọng đàn ông. Nghe lầm rầm như đang niệm chú.
Âm thanh đó vẳng xuống đứt quãng từ trên đầu họ.
“Đó là tiếng người.”
“Ừ, đúng rồi.” Không Hải đáp.
Có vẻ như là những câu thơ. Người đàn ông ở phía trên họ đang ngâm thơ. Nhưng giọng rất nhỏ và đứt quãng, không hẳn thành những tiếng ngâm đều đặn.
Anh ta lặp đi lặp lại một đoạn thơ giống nhau.
Đó là những câu thơ mà hình như Không Hải cũng biết.
Hái Hoàng trọng sắc, tư khuynh quốc
Ngự vũ đa niên, cầu bất đắc
Không Hải lại chậm rãi cất bước trong lúc lắng tai nghe giọng nói ấy. Dật Thế nối gót theo sau.
Ho đã lên đến bên trên. Bên trên nhưng không phải đỉnh đồi, mà chỉ là lưng chừng của con dốc. Cây cối quanh đó được phát quang, đất được san bằng tạo thành một bình đài nhỏ. Chính giữa khu đất bằng ấy có một tấm bia được dựng lên. Trên mặt tấm bia bằng đá hoa cương đen sì khắc dòng chữ: Dương quý phi mộ.
Có một người đàn ông đang đứng trước mộ. Người đàn ông khi thì chăm chú nhìn xuống mộ đá, chốc lại đưa mắt lên mấy cành hoa xung quanh, miệng lẩm bẩm những câu thơ. Có vẻ anh ta không nhận thấy Dật Thế và Không Hải đã lên tới nơi.
In xuống nền đất ấy, một nửa là ánh nắng lọt qua khe, còn một nửa là bóng đổ của những cành hòe.
Người đàn ông ấp tay lên mộ đá như đang mơn trớn một thứ gì yêu thương, và tận hưởng cảm giác đó.
Bên hông mộ là một tảng đá lớn nhô lên từ lòng đất. Người đàn ông chừng như đã mệt bèn ngồi xuống tảng đá, vừa chăm chú nhìn ngôi mộ vừa buông một tiếng thở dài trĩu nặng. Vẻ phiền muộn sâu thẳm, không hẳn là sầu ai cũng không hẳn là xót xa, hiện lên trên gương mặt ấy.
Những mảng nắng loang hắt bóng xuống gương mặt người đàn ông, khiến cho trong thoáng chốc, người đàn ông tựa như đang khóc.
Nhưng tất nhiên người đàn ông không khóc.
Một cách tự nhiên, Không Hải và Dật Thế đang đứng sau bóng cây hòe, ở vị trí mà người đàn ông không nhìn thấy được.
Một lát sau, người đàn ông lại cất giọng ngâm mấy câu thơ, rì rầm như thể niệm chú.
Hái Hoàng trọng sắc, tư khuynh quốc
Ngự vũ đa niên, cầu bất đắc
Đúng lúc đó, Không Hải liền bước ra khỏi bóng cây.
Dương gia hữu nữ sơ trưởng thành
Vừa ngâm câu thơ tiếp theo, Không Hải vừa tiến đến chỗ người đàn ông.
Người đàn ông ngẩng mặt lên nhìn Không Hải, vẻ kinh ngạc.
“Dưỡng tại thâm khuê nhân vị thức…” Không Hải ngâm tới đó thì người đàn ông liền lẩm nhẩm câu tiếp theo: “Thiên sinh lệ chất nan tự khí...”
Người đàn ông chăm chú nhìn Không Hải đang đứng trước mặt mình, rồi cất tiếng: “Tại sao ông lại biết câu thơ ấy? Câu thơ mà ông vừa đọc là...”
“Ông muốn nói rằng đó là một phần của bài thơ chưa hoàn thành phải không?”
“Trời, đúng vậy! Đúng là như vậy!”
“Ông ngâm đi ngâm lại như thế ở đây, ai nghe thấy cũng sẽ thuộc cả thôi.”
“Vậy mà tôi lại nghĩ sẽ chẳng có ai đến đây.” Người đàn ông nói.
Người đàn ông có gương mặt hơi tiều tụy, nước da trắng. Cả gương mặt lẫn vóc người đều có thể nói là gầy. Đôi mắt đen, có vẻ gì đó thấp thỏm. Mặc dầu vậy, hình dạng đôi môi của anh ta đem đến cảm giác như thể trong lòng đang ẩn giấu một cội tình mãnh liệt.
“Xin thứ lỗi vì đã quấy rầy ông, ông Bạch.”
“Sao ông biết tên tội?”
“Ồ, thật thất lễ vì đã làm ông kinh động. Tôi biết tên ông qua em Ngọc Liên ở Hồ Ngọc Lâu. Tôi nghe kể rằng, ở Hồ Ngọc Lâu, ông thường cho đòi bút và mực. Mấy bữa trước, tôi đã vinh hạnh được đọc bài thơ viết hỏng mà ông bỏ lại trong phòng. Đó chính là bài thơ mà ông Bạch vừa ngâm lúc nãy.”
“Ồ...”
“Lẽ ra tôi phải giới thiệu sớm hơn, tôi tên là Không Hải, lưu học tăng tới từ Oa quốc.”
“Ô kìa, hóa ra là vị đại huynh đã chữa lành cho cánh tay của Ngọc Liên!”
“Vâng.”
“Tôi đã được nghe Ngọc Liên kể về ông. Không ngờ tiếng Đường của ông giỏi quá. Ông ở Đường đã lâu chưa?”
“Chưa thưa ông, tôi mới sang được chừng bảy tháng.”
“Tiếng Đường của ông chẳng khác gì chúng tôi.”
Vừa hay Quất Dật Thế cũng đi đến, đứng ngay cạnh Không Hải.
“Còn đây là bạn thân của tôi, Quất Dật Thế, cũng là một lưu học sinh tới từ Oa quốc.”
“Tôi là Quất Dật Thế. Tôi đang học Nho.”
“Tôi họ Bạch, Bạch Cư Dị.”
“Thật ra, tôi đã từng đọc một bài thơ khác nữa của ông: Tây Minh Tự mẫu đơn hoa thời ức Cửu Nguyên .” Không Hải nhắc đến tên bài thơ.
“Vậy là ông đã đọc bài thơ đó ư?”
“Hiện giờ tôi và Dật Thế đang ở Tây Minh Tự.”
“Chí Minh phải không? Có phải Chí Minh ở Tây Minh Tự đã cho ông xem bài thơ đó?”
“Phải.”
Không Hải gật đầu, lúc ấy Bạch Cư Dị - Bạch Lạc Thiên bèn buông một tiếng thở dài rồi ngẩng nhìn lên. Chừng như đang nghĩ về điều gì đó sâu xa.
Không Hải và Dật Thế im lặng chờ đợi Bạch Lạc Thiên nói ra điều ấy, nhưng Bạch Lạc Thiên rốt cuộc đã không nói mà dường như vừa nuốt ý nghĩ ấy vào sâu trong dạ.
“Nhưng tại sao các vị người nước Oa lại tới một nơi như thế này?” Bạch Lạc Thiên như chợt nhớ ra, bèn cất tiếng hỏi.
“Ồ đâu có gì, chỉ là chúng tôi bỗng dưng muốn tới thăm mộ phần của giai nhân ngày trước...”
“Nói là ngày trước, nhưng cũng mới có bốn mươi chín năm mà thôi.”
Đúng như lời Bạch Lạc Thiên, Dương quý phi chôn ở đây cho tới nay đã bốn mươi chín năm.
Cả Không Hải lẫn Dật Thế đều có hiểu biết tương đối về hoàng đế Huyền Tông và Dương quý phi.
“Thật tình mà nói, ấy là vì bài Thanh bình điệu từ của Lý Bạch mà ông đã chỉ cho chúng tôi. Sau khi đọc bài thơ đó, tôi bỗng nảy ra ý định đến đây.”
“Ồ...”
“Thế còn ông Lạc Thiên, tại sao ông lại đến đây? Có phải hai hôm trước ông cũng đã ở Hồ Ngọc Lâu giống như chúng tôi?”
“Tôi cũng giống như hai vị.”
“Giống là sao?”
“Tôi cũng vì bài Thanh bình điệu từ được ông đưa cho mà bỗng nhớ đến Dương quý phi, mới bất chợt nảy ra ý định đến đây. Tuy là một chức lại trong Bí thư sảnh, nhưng chừng nào không màng đến chuyện thăng quan tiến chức thì chừng ấy tôi vẫn có thể làm được những việc thế này.”
“Vì ông có mối quan tâm đối với Quý phi?”
“Cũng không hẳn, chẳng là tôi có một vài điều cần suy nghĩ, nên thỉnh thoảng lại tìm đến những nơi gắn liền với Dương Ngọc Hoàn như thế này. Các ông cũng quan tâm tới câu chuyện của Huyền Tông và Quý phi?”
“Đúng vậy.”
Không Hải vừa trả lời thì Bạch Lạc Thiên lại buông một tiếng thở dài não nuột.
“Phải chăng vì mọi thứ đã nguội lạnh nên thế gian mới biến nó thành một chuyện tình buồn và đẹp?”
“Có vẻ là như vậy.”
“Nhưng thực tế lại hơi khác. Mà không, rất khác.”
Bạch Lạc Thiên đột nhiên nói to. Hành động đó vô tình để lộ ra cảm xúc hưng phấn không rõ nguồn cơn bên trong Bạch Lạc Thiên.
“Hoàn toàn khác.” Bạch Lạc Thiên nói thêm.
“Khác ở điều gì?”
“Có thể đó là một cuộc tình buồn, nhưng không phải một cuộc tình đẹp. Nếu đẹp thì phải kể đến câu chuyện Hạng Vũ lấy kiếm chém chết Ngu mỹ nhân(*) trước khi tận số. Ở đó có cảm giác bi thiết như thể chính thân mình bị chém, và một vẻ đẹp thuần khiết. Tôi thấy nỗi buồn đau và giằng xé dữ dội của Hạng vương khi ấy, cứ như thể ông ta đang tự tay lôi ruột mình ra vậy. Chính vì sẽ phải chết, nên Hạng vương mới làm được điều đó. Nhưng...”
(*) Tức Ngu Cơ, thiếp yêu của Sở Vương Hạng Vũ. Có thuyết cho rằng khi Hạng Vũ bị Lưu Bang vây khốn, Ngu Cơ đã lấy gươm tự vẫn để khỏi làm Hạng Vũ vướng bận.
“Ý ông muốn nói nhưng chúng ta không biết được sự thể giữa Quý phi và Huyền Tông hoàng đế?”
Thi nhân khẽ lắc đầu trước câu hỏi của Không Hải.
“Không phải thế. Trong cuộc tình của Hạng vương và Ngu mỹ nhân, cái đẹp ấy đã kết thúc trọn vẹn trong cái đẹp. Có thể nói bản thân điều đó đã là một bài thơ…”
“…”
“Ở đó không có vai diễn nào cho tôi.”
“Nhưng nếu là câu chuyện giữa Quý phi và Huyền Tông hoàng đế...”
“Thì, biết đâu tôi sẽ có một vai diễn cho mình. Trong thời khắc Huyền Tông bị buộc phải giết Quý phi, ông ta đã quả quyết đấu tranh, đã cuống quýt biện hộ cho Quý phi trước mặt chúng thần, nhưng rốt cuộc thì sao, ông thấy đấy, để mình được sống, hay nói cách khác là để giữ mạng mình, ông ta đã giết chết Quý phi. Nhưng khác với Hạng Vũ, ông ta đã sai hoạn quan Cao Lực Sĩ chứ không phải tự mình ra tay. Thật khôi hài làm sao, thật khó coi làm sao...”
“…”
“Nhưng thật kỳ lạ là tôi lại thích cái chỗ rất người ấy ở ông ta. Tôi luôn canh cánh một nỗi niềm. Rằng biết đâu ở đó sẽ có một vai diễn cho mình. Mà không, chắc chắn là có chứ. Nó ở trong ngực tôi, trong bụng tôi đây này. Nó nhiều tới mức khiến tôi nghẹt thở...”
Giọng thi nhân mỗi lúc một to.
“... Nhưng tôi không thể biến nó thành lời. Tôi không biết phải kể câu chuyện ấy ra như thế nào.”
“Nghĩa là ông muốn kể câu chuyện của Quý phi và Huyền Tông hoàng đế bằng thơ?”
Bạch Lạc Thiên đột nhiên im bặt trước câu hỏi của Không Hải. Vẻ mặt như thể vừa sực tỉnh khỏi cơn ma ám.
“Ôi chà, hình như tôi đã nói hơi nhiều.” Dứt lời, Bạch Lạc Thiên liền nghiêm nét mặt rồi đứng dậy.
“Thật quấy quả ông quá, ông Lạc Thiên. Nhưng nếu ông không vội, tôi có chút việc muốn hỏi ông...”
“Gì vậy?”
“Lúc Quý phi bị Cao Lực Sĩ thắt cổ, dải dây dùng để thắt cổ đó được làm bằng gì?”
“Một dải lụa.” Bạch Lạc Thiên đáp.
“Lụa!?” Người thốt lên là Dật Thế.
“Cũng có thuyết cho rằng đó là vải gai trắng, nhưng tôi tin theo thuyết dải lụa. Nhưng lụa thì sao?”
“À, không có gì. Còn một việc nữa tôi muốn hỏi ông, có đúng là Quý phi đã múa theo bài Thanh bình điệu từ của Lý Bạch thật không?”
“Tất nhiên là tôi không được chứng kiến, nhưng tôi tin là như vậy.” Bạch Lạc Thiên đáp.
“Liệu ông có biết điệu múa đó như thế nào không…”
“Tôi không biết.”
Nói xong, Bạch Lạc Thiên quay sang nhìn chằm chằm vào Không Hải và Dật Thế với ánh mắt hau háu.
“Hình như quý vị biết điều gì đó mà tôi chưa biết về Dương quý phi?”
“Nếu có thời gian, tôi muốn trao đổi thêm nhiều chuyện nữa. Đêm nay ông nghỉ ở đâu?”
“Tôi đang định nghỉ lại khách điếm ở Mã Ngôi Dịch.”
“Chúng tôi cũng sẽ nghỉ lại đó. Nên chăng ta sẽ nói về chuyện này vào đêm nay?”
“Được thế thì hay quá.”
“Nhân tiện, thưa ông Lạc Thiên, tảng đá mà ông vừa ngồi trên đó phải chăng đã có ở đây từ trước?”
“Đúng vậy. Năm ngoái tôi có tới đây hai lần, vào tháng Ba và tháng Năm, thì đã thấy tảng đá này ở đây. À, nhưng mà hình như nó thấp hơn trước. Cảm giác khi ngồi lên không giống trước đây.”
“Phải chăng là do nền đất cao lên chứ không tảng đá lún xuống?”
Không Hải trỏ tay xuống nền đất gần tảng đá.
“Ông có thấy màu đất dưới chân tảng đá, à mà không, chính xác là dưới chân mộ Quý phi có vẻ hơi khác so với xung quanh không?”
“Ồ, quả tình nghe ông nói vậy tôi mới để ý.”
“Không Hải à, ý cậu là gì thế?” Dật Thế hỏi.
“Tớ nghĩ rằng sau lần ông Lạc Thiên tới đây hồi tháng Năm, đã có bọn trộm mộ hoặc kẻ nào đó quật mộ Quý phi lên.”
“Sao cơ!?”
“Chỗ có màu hơi khác hẳn là phần đất bị bới lên.”
“Cậu nói vớ vẩn gì thế!”
“Tớ cũng như cậu, có đến nửa phần là không tin, nhưng có vẻ ta sẽ buộc phải coi đây là một khả năng cần suy xét.”
“Cậu nói gì cơ, Không Hải?”
Không Hải dường như không để tâm đến câu hỏi của Dật Thế. Cậu sờ vào bia mộ, đi quanh một vòng, bò xuống mặt đất, áp tay vào đất, rồi gật gù một mình và thở dài.
Bạch Lạc Thiên và Dật Thế nhìn như dán mắt vào cảnh tượng ấy.
Lát sau, Không Hải quay trở về chỗ hai người.
“Tớ quyết định rồi.” Không Hải nói.
“Quyết định cái gì?”
“Ờ, đêm nay ta sẽ thử đào lên xem.”
“Đào lên!?”
“Đào lên sao!?”
Dật Thế và Bạch Lạc Thiên đồng thanh thốt lên.
“Chúng ta sẽ đào.”
“Nếu bị phát hiện sẽ to chuyện đấy.”
“Không ai phát hiện được đâu.” Không Hải bình thản đáp. “Mà dù cho bị phát hiện, chúng ta vẫn có lý do chính đáng.”
“Là gì?”
“Là để bảo vệ thiên tử.”
“Ông Lạc Thiên, đêm nay ông sẽ đi cùng chúng tôi chứ?”
“Để đào trộm mộ?”
“Đúng vậy. Trong bữa tối, tôi sẽ thong thả kể ông nghe những điều tôi biết được cho đến nay. Nghe xong, nếu thấy hứng thú thì mời ông đi cùng chúng tôi, được chứ?” Không Hải nói.
“Tôi hiểu. Tôi sẽ quyết định sau khi nghe xong câu chuyện...”
“Nhưng mà tớ...” Dật Thế nói được nửa chừng thì nhận ra có nói cũng vô ích, nên đành ngậm miệng. “Thôi thì mặc cậu, Không Hải. Coi như tớ không biết gì. Nếu xảy ra chuyện thì tớ không biết gì đâu đấy.”
❖ 4 ❖Không Hải, Quất Dật Thế và Bạch Lạc Thiên rời khỏi khách điếm ở Mã Ngôi Dịch sau khi mọi người đã chìm vào giấc ngủ.
Đêm sáng trăng. Vầng bán nguyệt lơ lửng trên trời.
Có gió thổi. Những đám mây rải rác trôi về phía Đông theo làn gió.
Vầng trăng chốc chốc lại chui vào mây, rồi lại hiện ra. Tựa như từng bầy thú lao qua không trung, hết nuốt mây vào rồi lại nhả mây ra.
Họ đi về phía Tây theo đường cái.
Gió lạnh hơn ban ngày.
Ánh trăng soi rõ đường đi.
“Không Hải này.” Giọng Dật Thế hơi run, có lẽ vì hồi hộp. “Cậu định làm thật đấy à?”
“Làm thật chứ.” Không Hải đáp nhẹ tênh.
Đi bên cạnh Không Hải, Bạch Lạc Thiên còn hồi hộp hơn cả Dật Thế.
Bạch Lạc Thiên, tức Bạch Cư Dị, là một lại viên của Bí thư sảnh.
Vì đâu một viên chức triều đình lại dám cả gan đào trộm mộ Quý phi? Nếu bại lộ, anh ta chắc chắn sẽ mất chức.
Bạch Lạc Thiên dám liều lĩnh như thế là bởi vô cùng tò mò trước câu chuyện được Không Hải kể cho nghe.
Câu chuyện về con yêu quái ở nhà Lưu Vân Tiêu.
Câu chuyện kỳ quái ở cánh đồng bông của Từ Văn Cường.
Thêm nữa, hai câu chuyện này dường như có mối liên hệ với nhau.
Con yêu mèo xuất hiện ở nhà Lưu Vân Tiêu đã tiên đoán về ngày Đức Tông hoàng đế ngã bệnh. Tiếng nói ma quái ở cánh đồng của Từ Văn Cường đã tiên đoán về ngày Lý Tụng, con trai của Đức Tông, ngã bệnh.
Và cả hai lời tiên đoán ấy đều hoàn toàn trùng khớp với thực tế.
Thế rồi người vợ bị mèo ám của Lưu Vân Tiêu vừa ngân nga khúc Thanh bình điệu từ vừa múa theo điệu múa của Dương quý phi.
“Đây là dải lụa. Thiếp sẽ thắt cổ chàng bằng dải lụa này. Lụa sẽ thít rất chặt...”
Vợ Lưu Vân Tiêu đã nói như vậy với chồng.
“Chàng sẽ không chôn thiếp rồi bỏ mặc thiếp trong lòng đất bao nhiêu năm dẫu đã hứa là sẽ đào thiếp lên ngay khi có thể phải không?”
Ẩn ý bên trong câu nói.
Thanh bình điệu từ và điệu múa.
Chuyện thắt cổ bằng dải lụa.
Những bóng gió về việc có một người phụ nữ bị chôn.
Tất cả hẳn có liên quan gì đó tới Dương quý phi.
Có hai kẻ đang vô cùng tò mò về chuyện ấy.
Bạch Lạc Thiên cố gắng không biểu lộ cảm xúc ra mặt, có lẽ vì nghĩ mặt mình đang căng lên do tò mò chăng? Hơn thế nữa, có vẻ như người đàn ông tên Bạch Lạc Thiên này, sâu trong lòng đang rất thích thú với hành động đào trộm mộ giai nhân giữa đêm khuya.
Thêm một lý do nữa khiến Bạch Lạc Thiên tham gia vào kế hoạch đêm nay, ấy là vì Không Hải. Bạch Lạc Thiên cảm thấy một niềm hứng thú kỳ lạ với chàng lưu học tăng tới từ nước Oa này. Anh ta lập tức nghe theo lời Không Hải rủ rê, cứ như thể bị nam châm hút.
Tuy nhiên, Bạch Lạc Thiên không quên địa vị quan lại của mình. Mặc dù tò mò, nhưng anh ta thừa hiểu việc sắp làm vượt ra khỏi luân thường như thế nào. Mặc dù phân vân giữa hai ý nghĩ, nhưng trong lòng Bạch Lạc Thiên lại đang chất chứa biết bao hồi hộp.
“Bây giờ thì tớ đã hiểu vì sao cậu lại muốn đến Mã Ngôi Dịch để thăm mộ Dương quý phi, nhưng liệu có cần phải làm chuyện này không?” Dật Thế hỏi.
“Cũng không nhất thiết phải làm chuyện này, tuy nhiên...” Không Hải cất lời đáp. “Đã mất công đến đây rồi thì bắt buộc phải làm thôi.”
Không Hải vừa nói xong thì cũng là lúc cả bọn tới trước gò đất có mộ Dương quý phi.
❖ 5 ❖Ngước nhìn lên, dưới bầu trời đêm, họ nghe thấy tiếng cành hòe loạt soạt trong gió.
“Hừ hừ.” Dật Thế bất giác phát ra tiếng rên.
“Cậu sợ hả Dật Thế?” Không Hải hỏi bằng tiếng nước Oa.
“Tớ không sợ.” Dật Thế trả lời bằng giọng hơi bực mình. “Chỉ là không được dễ chịu lắm thôi.”
Dật Thế vừa dứt lời thì từ sau gốc hòe gần lối lên có một gã đàn ông bước ra.
“Ê, chúng mày vừa nói với nhau bằng tiếng nước Oa phỏng.”
Rồi phía sau hắn xuất hiện thêm hai kẻ nữa. Ba tên đứng chắn trước mặt bọn Không Hải. Cả ba xem ra đều rất dũng mãnh. Kẻ nào kẻ nấy đeo kiếm bên hông. Nhưng không phải binh lính hay chức dịch. Có vẻ chính là bọn lang bạt đã ngồi túm tụm ở tửu lâu dưới tầng một của khách điếm.
“Thằng sư này là Không Hải ở Tây Minh Tự, còn thằng kia là Quất Dật Thế chứ gì.” Một tên vừa quắc mắt nhìn Không Hải và Dật Thế vừa nói. “Chúng mày mang cuốc đi làm gì? Định đào trộm mộ hử?” Tên đó đưa mắt sang mấy chiếc cuốc bọn Không Hải đang cầm.
“Còn một thằng nữa kìa. Thằng này hình như là người Đường.” Một tên khác nói thêm vào.
“Thêm một thằng nữa cũng cóc bõ bèn gì.” Tên còn lại nói rồi nhổ nước bọt.
“Các vị có việc gì không?” Không Hải chẳng hề tỏ ra sợ hãi, hỏi lại rành rọt bằng tiếng Đường.
“Bọn tao chỉ định cho chúng mày nếm tí trái đắng thôi mà.” Một trong ba tên rút kiếm.
Tiếp theo hai tên còn lại cũng tuốt kiếm. Lưỡi kiếm bằng thép chạm vào ánh trăng tỏa ra những tia sáng sắc lạnh.
Dật Thế suýt nữa thì kêu lên nhưng kịp kìm lại, rút thanh đoản kiếm đeo bên hông ra. Đây là thanh đoản kiếm mà Dật Thế luôn mang theo bên mình từ Oa quốc.
“Rút cái đấy ra là nguy to đó con. Ngoan ngoãn thì bọn tao chỉ xin một cách tay hoặc một cẳng chân, bằng không thì mất mạng đó.”
“Cẩn thận, Dật Thế, bọn chúng không đùa đâu.”
Không Hải vừa dứt lời thì có giọng nói vang lên từ phía sau những gã đàn ông.
“Định làm gì với thầy ta thế, bọn kia!”
Ba gã giật mình ngoảnh lại: “Ai!?”
Những lưỡi kiếm loang loáng chuyển động dưới ánh trăng theo từng cử động của ba gã đàn ông.
Bóng một người khổng lồ đứng đó lừng lững, che khuất cả ánh trăng đang rót xuống từ trên trời. Một người đàn ông to lớn tới mức ai nấy đều sững sờ.
“Đại Hầu!” Dật Thế kêu lên.
Người đứng đó là Đại Hầu với mái tóc tốt bời búi vội ra sau. Mà đáng lẽ anh ta phải đang ở Trường An chứ nhỉ.
“Thầy Không Hải, tôi làm lông bọn này được chứ?” Đại Hầu hỏi.
“Được, nhưng nhớ chừa lại một kẻ lanh lợi.”
Không Hải chưa kịp nói xong thì Đại Hầu liền xông thẳng vào kẻ gần nhất. Hắn ta luống cuống chém về phía Đại Hầu. Đại Hầu đưa tay phải đón lấy đường kiếm.
Keng!
Có tiếng kim loại va vào đá. Hình như tay phải Đại Hầu đang cầm hòn đá hay thứ gì đó. Cùng lúc ấy, tay trái Đại Hầu tóm lấy cổ tay cầm kiếm của gã đàn ông, dùng hòn đá trên tay phải phang thẳng vào trán gã. Không kịp kêu lên một tiếng, gã đàn ông đổ sụp dưới chân Đại Hầu. Tay trái Đại Hầu giằng lấy thanh kiếm từ tay gã đàn ông.
“Á à, mày dám hả!”
Hai tên còn lại gườm gườm nhìn Đại Hầu, vừa giữ miếng với thanh kiếm trên tay vừa xoay vòng xung quanh chờ đợi sơ hở của đối thủ.
“Tiếp theo là ai nhỉ?” Đại Hầu nói về phía hai tên còn lại, hơi thở vẫn nhẹ nhàng như không. “Không đưa nào tới thì ta đành tự chọn vậy...”
Đại Hầu tiến lên một bước, thấy thế bọn chúng nhất tề lao vào từ hai phía. Đại Hầu liền ném hòn đá trong tay về phía tên bên phải. Hòn đá to gấp đôi nắm tay người va vào kiếm rồi văng trúng chính giữa mặt gã. Một âm thanh hoàn hảo vang lên. Tên này cứ thế ngã vật xuống đất.
Cùng lúc, Đại Hầu vung kiếm gạt đường kiếm chém xuống của tên còn lại. Đại Hầu gần như không phải vận sức nhiều cho lắm, vậy mà thanh kiếm của gã đàn ông bị gạt văng ra rất xa, khiến gã ta lảo đảo.
Bàn tay trái của Đại Hầu vươn ra, quắp lấy yết hầu gã. Tên này lấy hai tay định giằng cổ tay trái của Đại Hầu đang siết chặt cổ họng mình ra. Nhưng sức hai cánh tay gã cộng lại cũng chẳng làm gì nổi một bàn tay Đại Hầu.
“May cho mày đó, có vẻ thằng lanh lợi nhất là mày.”
Khi ấy, hai chân gã ta gần như đang lơ lửng trên không, chỉ có đầu ngón là hơi chạm được xuống đất. Có lẽ vì không thở được, nên mặt gã mỗi lúc một sưng phù lên, trong mắt chỉ chực lòi ra ngoài.
Lúc Đại Hầu hạ hai chân gã xuống đất, nới lỏng lực tay, gã liền hớp lấy hớp để không khí.
“Anh đã cứu bọn ta, Đại Hầu.” Không Hải nói.
“Đại Hầu, giỏi lắm!” Dật Thế kêu lên bằng giọng cảm kích, hơi thở hổn hển như chính mình vừa đánh nhau xong.
“Đây là người quen của các vị?” Bạch Lạc Thiên hỏi, giọng như thở phào.
“Anh ta tên là Đại Hầu. Để đến lúc thong thả tôi sẽ giới thiệu kỹ sau, tuy nhiên trong vụ việc này, Đại Hầu giúp đỡ tôi rất đắc lực.”
“Tôi không phải người dạn chuyện đao kiếm, nên nhất thời đã nghĩ chẳng biết mạng mình sẽ ra sao.” Bạch Lạc Thiên nói, trong lúc nhìn xuống gã đàn ông đang ngã lăn dưới đất, mặt tím tái không thốt nên lời.
Hai tên còn lại, một tên thì vỡ hàm, một tên thì giập mũi và gãy mất gần nửa số răng cửa.
“Hai tên này còn xơi mới tỉnh lại được.” Đại Hầu nói.
“À mà Đại Hầu này, sao anh lại có mặt ở đây thế?” Không Hải hỏi.
“Chả là gần giữa trưa hai hôm trước, cái hôm mà thầy rời Trường An ấy, trong lúc tôi đang trông chừng trước cửa nhà tay đạo sĩ đó, thì thấy mấy thằng này đi vào trong ngôi nhà.”
“Ừm.”
“Nhìn mặt bọn chúng đã thấy khả nghi. Thật tình thì tôi đã định lẻn vào bên trong để nghe xem bọn chúng bàn bạc những chuyện gì.”
“Thế anh có vào không?”
“Tôi không. Vì thầy bảo tôi chớ có lại gần, mà chỉ đứng trông chừng từ xa thôi.”
“Thế thì tốt.”
“Thế rồi một lát sau bọn chúng đi ra. Túi có vẻ đẫy tiền, nên mặt mũi hoan hỉ lắm. Tôi mới nghĩ bụng, chắc là có điều gì ám muội đây, bèn thử bám theo bọn chúng.” Đại Hầu nói như để cho gã đàn ông mà mình vừa bóp cổ nghe thấy.
“Đúng như tôi đoán, lũ này chui vào một tửu lâu tên là ‘Diệu Dược’ ở Bình Khang Phường. Thường thì khi có tiền, người ta sẽ nghĩ ngay đến rượu và đồ ăn, hoặc là gái mà…”
“Sau đó thì sao?”
“Tôi mới vờ như không biết, ngồi xuống ghế sau lưng bọn chúng để nghe chuyện. Thế là tôi nghe thấy bọn chúng nhắc đến tên thầy Không Hải.”
Theo lời Đại Hầu, ba gã đàn ông vừa uống rượu vừa nói chuyện với nhau đại ý thế này.
“Tóm lại là bọn ta chỉ cần bám theo hai tên người nước Oa hiện đang ở Tây Minh Tự đến Mã Ngôi Dịch là được chứ gì.”
“Tên đầu trọc Không Hải và tên nho sinh Quất Dật Thế.”
“Nhưng người nước Oa thì đến Mã Ngôi Dịch để làm gì nhỉ?”
“Ai mà biết được. Theo như họ nói thì cũng không có gì to tát. Tóm lại, ta chỉ cần xông tới chém lìa một cánh tay nếu bọn chúng định chọc ngoáy gì đó ở mộ của Quý phi là được rồi.”
“Họ bảo tùy tình hình có thể giết phăng cũng được phải không?”
“Ờ. Nhưng chọc ngoáy nghĩa là sao?”
“Là quật mộ chứ sao.”
“Đào mộ? Hay là dưới mộ có chôn của quý?”
“Lấy đâu ra. Nếu có chôn thì khối kẻ đã đào lên rồi.”
Nhờ thế mà Đại Hầu mới biết bọn Không Hải có thể sẽ gặp nguy hiểm.
“Lúc ấy kể mà quật lũ chúng nó xuống để hỏi chuyện thì cũng được. Nhưng hiềm nỗi, nếu làm vậy thì sau đó chẳng biết phải ăn nói thế nào để che mắt thiên hạ. Nên tôi tự nhủ, thôi thì cứ bám đuôi chúng nó cái đã, đến lúc hữu sự tôi ra tay cũng chưa muộn. Tôi bám theo chúng mãi, tới tận Mã Ngôi Dịch này...” Đại Hầu thuật lại duyên cớ mình đến đây.
Ba gã đàn ông và Đại Hầu tới Mã Ngôi Dịch vào xế chiều hôm nay.
Chúng dò xét và biết được bọn Không Hải vừa lấy phòng trọ ở khách điếm, lại bí mật chuẩn bị cuốc thuổng. Chắc hẳn là buổi tối, khi mọi người đã chìm vào giấc ngủ, bọn Không Hải sẽ lẻn ra khỏi khách điếm để đi “quật mộ”. Vậy là chúng đã đến đây từ trước để đợi.
“Sao không đến báo ngay cho bọn ta biết?” Dật Thế hỏi Đại Hầu.
“Làm vậy, ngộ nhỡ thầy Không Hải thôi không đào mộ nữa, thì bọn này cũng sẽ thôi không tấn công thầy nữa. Như thế sao có thể khiến chúng phun ra những chuyện bí mật.”
“...”
“Vả lại, nếu tôi xuất hiện đúng lúc nguy nan thì sẽ được biết ơn hơn.”
“Khỉ gió, nhờ ơn anh, suýt chút nữa ta đã bị ăn một nhát kiếm rồi.” Dật Thế hơi tỏ vẻ tức giận.
“Thôi nào Dật Thế. Dù gì cũng nhờ Đại Hầu mà chúng ta vô sự. Thay vì cật vấn Đại Hầu, chi bằng hãy hỏi gã này xem tại sao lại tấn công chúng ta cái đã.” Không Hải nói.
“Ê, mày nghe thấy rồi chứ! Sao nào?”
Đại Hầu siết mạnh mấy ngón tay đang bóp dưới hàm của gã đàn ông. Có tiếng xương hàm kêu lên kèn kẹt. Gã đàn ông dường như cố hé mồm để lấy hơi, nhưng rõ ràng là không khí hoàn toàn không vào được tới phổi gã.
“Làm thế hắn có muốn nói cũng không nói được. Hãy nới tay một chút xem sao.”
Đại Hầu vừa thả lỏng ngón tay theo lời Không Hải, gã đàn ông liền hớp lấy hớp để không khí.
“Được rồi, nói đi.” Đại Hầu ra lệnh.
“Tôi... tôi được thuê.”
“Ai thuê?” Người hỏi là Không Hải.
“Một... một phụ nữ.”
“Phụ nữ?”
“Người phụ nữ sống trong ngôi nhà đó. Một người phụ nữ rất đẹp. Hình như có lẫn dòng máu không phải của người Hán.”
“Có phải tên là Lệ Hương không?”
“Tên... tên thì tôi không biết. Cô ta không nói.”
“Sao ngươi biết cô ta?”
“Con... con mèo.”
“Con mèo?”
“Bọn tôi không có tiền, đang lượn lờ trước một tửu lâu thì có con mèo đen đi tới.”
“Ồ...”
“Con mèo khi ấy ngậm một hồ lô rượu. Rồi nó đặt hồ lô xuống trước mặt bọn tôi...”
Uống đi!
Con mèo bảo vậy.
“Bọn tôi toát mồ hôi. Bảo nhau sao con mèo lại biết nói? Một người cầm hồ lô lên thì thấy quả nhiên bên trong có rượu.”
Ba gã đàn ông uống chỗ rượu đó ngay trước mặt con mèo.
Thấy vậy, con mèo hỏi: “Muốn có thêm rượu nữa không?”
“Có!” Bọn chúng đáp.
Con mèo liền bảo: “Ta không cho các người rượu nữa, nhưng ta sẽ cho tiền. Có một công việc kiếm khá. Nếu các ngươi muốn uống rượu, hãy dùng tiền đó mà mua.”
“Vậy là con mèo chỉ cho bọn tôi chỗ có ngôi nhà ấy. Con mèo nói xong liền biến mất. Bọn tôi quyết định cứ thử đến ngôi nhà mà con mèo nói tới. Và thế là...”
“Các ngươi gặp người phụ nữ ở ngôi nhà ấy phải không?” Không Hải hỏi.
“Phả... phải rồi.”
“Cô ta nói những gì?”
“Y như những gì ông vừa nghe ban nãy thôi. Cô ta bảo: Không Hải và Quất Dật Thế ở Tây Minh Tự đang đi về Mã Ngôi Dịch. Hình như chúng đang định giở trò gì đó với mộ Dương quý phi, nếu phát hiện thấy chúng sắp giờ trò thì hãy dằn mặt chúng cho ta...”
Có thể chém lìa hoặc đánh què một bên tay bọn chúng cũng được. Chỉ cần làm vậy là đủ để bọn chúng hiểu ra...
“Hiểu ra cái gì?”
“Cô ta nói để các ông hiểu rằng không nên động đến chuyện của Dương quý phi...”
“Cô ta còn bảo, tùy vào tình hình, các người có đoạt mạng đối phương cũng không sao, phải vậy không?”
Gã đàn ông gật đầu trước câu hỏi của Dật Thế. Dật Thế còn định hỏi gì đó nữa, nhưng Không Hải đã cướp lời.
“Ở ngôi nhà ấy, ngươi chỉ gặp người phụ nữ đó thôi à?”
“Phải.”
“Không còn ai khác sao?”
“Không.”
“Có vẻ gì là có người nào nữa không?”
“Hình như cô ta không sống một mình. Nơi bọn tôi vào là một căn phòng rất bình thường, nhưng căn phòng ở trong cùng thì hơi lạ.”
“Lạ như thế nào?”
“Tôi muốn đi nhà xí, chắc mẩm nhà xí nằm ở trong cùng nên mới đi vào đó, thế là cô ta cuống quýt đuổi theo, bảo không phải đằng ấy...”
“Thế rồi sao...”
“Đến lúc ấy thì tôi đã kịp liếc qua căn phòng trong cùng. Bên trong đặt một cái lư và một bàn thờ kiểu Hồ.”
“Ồ.”
“Còn có một tượng dõng lớn.”
“Ông dõng!?”
“Phải, đúng là như vậy.”
Dõng, tức tượng hình người.
Đây là các hình nhân bằng đất nung hoặc gỗ, được chôn theo thi thể của vương hoặc hoàng đế, để thay cho kẻ tuẫn táng.
“Ông dõng to lắm. To hơn tôi nhiều. Hình như là một dõng chiến binh, vì tượng dõng ấy mặc chiến bào.”
Thực ra thì lời kể của gã đàn ông không được trôi chảy cho lắm. Vì cứ bị ngón tay của Đại Hầu bóp mạnh vào dưới hàm nên gã phải nói trong tiếng hổn hển. Mỗi lần gã ta ngắc ngứ, Đại Hầu sẽ lỏng tay ra. Vậy là gã lại nói được. Cứ lặp đi lặp lại như thế.
Sau đó Không Hải còn hỏi han gã đàn ông một lúc, nhưng không moi thêm được điều gì đặc biệt mới mẻ từ miệng gã nữa.
“Thôi được rồi, Đại Hầu, hãy thả hắn ta đi.” Không Hải nói.
“Có ổn không ạ? Ngộ nhỡ sau này chúng sinh chuyện rầy rà, chi bằng chôn quách cả ba đứa cho xong.” Đại Hầu nói ráo hoảnh.
Gã đàn ông kêu lên ú ớ.
“Không được, không được.” Không Hải lắc đầu, rồi quay sang nói với gã đàn ông: “Ngươi nghe đây. Người phụ nữ đó đã lừa phỉnh ngươi. Bọn ta tới đây theo lệnh của Thiên tử và phải giữ bí mật. Câu chuyện ngươi vừa kể vô cùng thú vị. Do đó lần này bọn ta sẽ không hỏi tội ngươi. Ngươi nên nhớ, việc đêm nay dù có hé răng ra với ai cũng vô ích. Vả chăng, bọn ta còn chưa làm gì cả. Chỉ là tình cờ gặp ngươi ở đây mà thôi. Nếu có định nói gì, thì chỉ được phép nói rằng bọn ta chưa làm gì cả.”
“Hi... hiểu rồi.” Gã đàn ông trả lời đứt quãng.
Không Hải đưa mắt ra hiệu cho Đại Hầu. Đến lúc ấy Đại Hầu mới chịu thả gã đàn ông ra.
Gã đàn ông luống cuống nhặt thanh kiếm dưới đất lên rồi đá mạnh vào hai tên đang nằm gục ở đó. Nhờ vậy mà hai tên còn lại kịp hồi tỉnh. Tuy mặt mũi biến dạng, nhưng chân tay không hề hấn gì. Bọn chúng bò dậy trong tiếng rên rỉ, rồi chậm chạp biến khỏi đó.
“Được rồi!” Không Hải lẩm bẩm. “Chúng ta phải tiếp tục công việc của mình thôi.”
Nói đoạn, Không Hải nhìn sang Bạch Lạc Thiên.
“Thế nào, Ông Bạch? Nếu đổi ý, ông có thể quay về ngay bây giờ hoặc đợi chúng tôi ở đây. Còn nếu chưa cụt hứng, ông sẽ đi với chúng tôi chứ?”
“Tất nhiên tôi sẽ đi cùng. Đã tới đây rồi sao còn thối lui được nữa. Nhưng đổi lại, sau khi xong việc, ông có thể kể tường tận cho tôi sự việc được chứ?” Bạch Lạc Thiên nói, gương mặt hơi ửng đỏ.
“Chắc chắn rồi, ông Bạch. Tôi cũng định bụng sẽ kể cho ông những chuyện mà tôi có thể kể được.” Không Hải đáp.
❖ 6 ❖Họ thắp đuốc.
Đại Hầu cầm đuốc đi trước, cả bọn bắt đầu leo xuyên qua rừng hòe.
Làn hương của lá hòe non hòa lẫn trong hơi đêm, mỗi lần hít vào là hương thơm ấy sẽ ùa vào lỗ mũi. Có thể thấy thấp thoáng mặt trăng qua kẽ lá, nhưng khi đã vào trong rừng rồi thì thật khó mà lần bước nếu không có ánh sáng. Thế nên họ đã thắp cây đuốc mang theo.
Đi sau Đại Hầu là Không Hải, tiếp theo là Dật Thế, cuối cùng là Bạch Lạc Thiên.
“Không Hải này.” Dật Thế gọi từ phía sau.
“Gì thế?”
“Trong lúc bước đi như thế này, càng lúc tớ càng thấm thía một cảm giác: vậy là mình đã lún sâu vào chuyện này mất rồi.”
“Ờ. Đúng là lún sâu mất rồi.” Không Hải đáp lời Dật Thế.
“Đồ ngốc! Không Hải à, tớ đâu có nói với cậu để được nghe cậu bảo vậy. Tớ những muốn cậu sẽ bảo: không đời nào, chớ có lo!”
Không Hải cười khoái trí khi nghe Dật Thế nói.
“Tớ thật ghen tị với tính cách của cậu đấy.” Vừa nói, Dật Thế vừa dùng cuốc thay gậy chống để leo lên.
Bất thình lình...
Đại Hầu đang đi trước dừng chân.
“Sao thế?” Không Hải cất tiếng hỏi.
“Con cóc...”
Đại Hầu nói rồi tránh sang một bên. Không Hải tiến lên đứng cạnh Đại Hầu. Quả đúng là con cóc.
Ở lưng chừng bậc cấp đã bị sạt, một con cóc đang đứng trên hai chân sau, trừng trừng nhìn bọn Không Hải bằng đôi mắt lồi sang hai bên.
Con Cóc được soi sáng bởi ngọn đuốc trên tay Đại Hầu, làm nổi rõ những mụn cóc trên da và cái bụng vàng vằn vện.
Ánh lửa hồng rực chiếu lên bụng và lưng con cóc.
Chẳng những thế, con cóc đó còn mang bộ dạng của một chiến binh. Đầu đội mũ trụ nhỏ, mình mặc giáp, hông đeo kiếm.
Bọn Không Hải còn đang quan sát thì con cóc đã rút thanh kiếm đeo bên hông ra, thét lên bằng một giọng nhỏ nhưng the thé: “Các ngươi đến đây làm gì?”
“Chúng tôi đến mộ Quý phi...” Không Hải đáp.
“Đến mộ để làm gì? Để đào trộm mộ phỏng!?” Con cóc khua kiếm, rồi nói tiếp: “Về đi!”
Lập tức, những giọng nói khác cũng vang lên từ bóng tối trong rừng:
“Về đi!”
“Về đi!”
“Về đi!”
Trông kỹ thì thấy có những con cóc giống nhau rào rào nhảy ra từ trong rừng. Cơ thể nhỏ bé khiến giọng chúng rất cao. Nếu không để ý kỹ sẽ chỉ nghe thấy những tiếng chiếp chiếp như chim non kêu.
Dật Thế và Bạch Lạc Thiên đứng sau Không Hải liền tiến lại xem có chuyện gì.
“Kh... Không Hải, con cóc biết nói kìa!”
“Ờ, nó biết nói.”
“Có chuyện gì thế?”
“Để xem...” Không Hải nói, rồ