Chương XIV Liễu Tông Nguyên
1
Ngựa đi trong gió xuân.
Không Hải và Quất Dật Thế đang ngồi trên lưng ngựa. Đi phía trước bọn họ là Trương Ngạn Cao. Trương Ngạn Cao là một chức dịch của Kim Ngô Vệ. Đằng sau ba người là ngựa của Đại Hầu. Vóc dáng to lớn của Đại Hầu khiến cho con ngựa như nhỏ lại. Đi sau Đại Hầu còn có bảy chức dịch nữa. Đoàn người đang hướng tới chân núi Ly Sơn theo sự dẫn dắt của Trương Ngạn Cao.
Người bạn nối khố của Trương là Từ Văn Cường có một cánh đồng bông ở phía Bắc núi Ly Sơn. Chuyện ma quái xảy ra trên cánh đồng ấy, vì vậy lúc này Không Hải và Dật Thế đang trên đường tới đó để xem xét sự tình.
Cả bọn rời thành Trường An và đi về phía Bắc được nửa ngày...
Họ Trương nói ra chuyện ấy với Không Hải khi sắp vào đến dịch trạm Vưu Khê ở giữa đường.
“Ông Không Hải…” Trương ngoái đầu lại từ trên ngựa, nhìn về phía Không Hải. “Thật tình thì tôi đã giấu ông một việc, cũng là vì có lý do...”
Họ Trương nói với vẻ áy náy.
“Chuyện gì vậy?”
“Xin ông cho tôi được dẫn theo một người này cùng tới chân núi Ly Sơn.”
“Tất nhiên là không sao, nhưng người đó là như thế nào?”
Bị Không Hải hỏi, sau mấy giây phân vân và ấp úng, họ Trương quyết định nói ra:
“Người này là kẻ thân cận của một quý ông, làm quân sư cho quý ông đó trong nhiều chuyện về chính sự.”
“Quý ông đó là ai?”
“Là kỳ thủ cờ vây hầu cận bên Hoàng đế...”
Không Hải không để anh ta nói hết câu. “Ồ, là ngài Vương Thúc Văn...”
“Đúng vậy. Những lời người này tấu trình lên sẽ tới được tại Thuận Tông hoàng đế thông qua ngài Vương Thúc Văn.”
“Người đó tên là gì?”
“Tôi nghĩ ông đã từng nghe đến cái tên đó rồi, là Liễu Tông Nguyên.”
“Người này thì tôi biết. Tôi đã từng đọc bài thơ Giang tuyết của ông ta.”
Không Hải liền cất giọng ngâm:
Ngàn non, bóng chim biệt
Muôn ngả, người không vết
Ai nón lá, áo tơi
Riêng thuyền ngồi câu tuyết (*)
(*) Nguyên văn âm Hán Việt:
Thiên sơn điểu phi tuyệt
Vạn kính nhân tụng diệt
Cô chu thoa lạp ông
Độc điều hàn giang tuyết.
(Dịch nghĩa: Giữa ngàn non, chim bay hút bóng; Muôn ngả đường tắt, người không dấu vết; Trên sông lạnh chỉ có độc một ông già mặc mặc nón lá, áo tơi trên chiếc thuyền cô quạnh ngồi câu tuyết.)
“Ông biết rõ quá nhỉ.”
Họ Trương nhẩm lại trong miệng bài thơ Không Hải vừa ngâm.
Sau đó, Trương cho ngựa đi song song bên tay trái Không Hải: “Chả là tối qua, ngài Liễu Tông Nguyên đến chỗ tôi.”
Trương kể rằng, Liễu Tông Nguyên gọi Trương lại, hỏi: “Có phải bữa trước anh bảo rằng, ngày mai sẽ đi cùng với một nhà sư người nước Oa.”
“Nếu tên nhà sư đó là Không Hải thì ta cũng sẽ đi cùng.” Liễu Tông Nguyên yêu cầu như vậy.
“Thật đường đột quá, nhưng chuyện là như vậy. Hiện giờ, ngài Liễu Tông Nguyên đang cùng với một người thân cận chờ ông ở Vưu Khê.” Trương nói với Không Hải.
“Người thân cận?”
“Phải. Tôi không biết tên người này, nhưng nghe đâu ngài Liễu Tông Nguyên biết đến ông qua ông ta.”
Không Hải ra chiều suy nghĩ.
“Tôi không đoán ra được.”
“Hôm nay, ngài Liễu Tông Nguyên xuất hành bí mật. Việc ngài ấy đến đây, ngoài chúng ta và ngài Vương Thúc Văn ra thì không ai được biết. Nhằm tránh những con mắt dòm ngó, ngài Liễu Tông Nguyên đã cùng với người thân cận ấy rời khỏi Trường An từ sáng sớm để đến được Vưu Khê trước rồi chờ chúng ta.”
Vưu Khê đã ở ngay trước mặt.
❖ 2 ❖Không Hải và Dật Thế đi theo Trương vào một khách điếm nhỏ ở dịch trạm Vưu Khê. Chủ nhân của khách điếm dường như đã biết mọi chuyện.
“Chúng tôi đang chờ các ông đến, xin mời đi lối này...”
Ba người Không Hải được chủ khách điếm dẫn xuyên qua các gian để vào đến phòng trong cùng.
Có hai người đàn ông cường tráng giắt kiếm bên hông đang đứng ở hai bên tả hữu trước cửa vào. Không Hải, Dật Thế và Trương cùng với chủ khách điếm lách qua giữa hai người đó vào trong phòng.
Trong phòng có đặt một cái bàn, đã có hai người đàn ông ngồi trên hai trong số những chiếc ghế kê quanh bàn.
Cả hai người đó, Không Hải đều quen.
“Ông Không Hải, ông Dật Thế, lại được gặp các ông ở đây.” Người nhìn thẳng vào Không Hải và tủm tỉm cười chính là Bạch Lạc Thiên.
“Ông Lạc Thiên!” Quả là ngay đến Không Hải cũng phải thốt lên đầy ngạc nhiên.
“Còn đây là Liễu Tông Nguyên. Cũng là một chức dịch, đồng thời là bạn thơ của tôi. Khi tôi nói chuyện về ông Không Hải, ông ấy đã tỏ ra vô cùng hứng thú, và đòi được gặp ông hôm nay...”
“Nói chuyện?” Không Hải hỏi như để xác nhận lại lời Lạc Thiên.
Ông đã nói những gì?
Không Hải đang ngầm hỏi Lạc Thiên: Phải chăng ông đã kể hết mọi chuyện, thậm chí là cả chuyện ở mộ Dương quý phi?
“Ấy đấy, chẳng phải chúng ta đã đàm đạo rất nhiều về thơ trong những lần vui vẻ cùng em Ngọc Liên ở Hồ Ngọc Lâu đấy thôi. Tôi đã kể cho ông ấy nghe những chuyện như thế.”
Qua câu nói ấy, Lạc Thiên ngầm thông báo với Không Hải rằng, tôi chưa hề tiết lộ sự việc ở mộ của Dương quý phi.
Không Hải rời ánh mắt khỏi Bạch Lạc Thiên và quay sang người đàn ông để râu.
“Lâu rồi mới gặp lại ông. Ông còn nhớ tôi chứ? Tôi là Không Hải, lưu học tăng tới từ Oa quốc. Tôi vẫn còn nhớ, khi đó ông đã tự xưng là Tử Hậu...” Không Hải lên tiếng.
“Tôi nhớ chứ. Khi nghe nói trong đoàn đi đến Ly Sơn có nhà sư tới từ Oa quốc, tôi liền nghĩ ngay là thầy.”
“Vâng.”
“Tử Hậu khi ấy là tự, còn tên thật của tôi là Liễu Tông Nguyên.” Người đàn ông, tức Liễu Tông Nguyên, nói bằng một giọng bâng khuâng.
Lúc bấy giờ, Liễu Tông Nguyên ba mươi ba tuổi. Lớn hơn Không Hải một tuổi.
“Hai người đã biết nhau rồi sao?” Trương Ngạn Cao hỏi.
“Hôm ấy là một ngày tháng Giêng, chứng sáu ngày trước khi Đức Tông hoàng đế băng hà, phải không nhỉ?” Không Hải nói.
“Tôi nhớ đó là quán rượu Hồng Long, ở Bình Khang Phường.” Liễu Tông Nguyên kể ra không chút ngập ngừng.
“Tôi đã xem bài thơ thầy viết ở Hồ Ngọc Lâu.”
Có vẻ như tất cả những cuộc trò chuyện, những án thơ văn trao qua đổi lại với Không Hải trên đường trở về từ Mã Ngôi Dịch, Bạch Lạc Thiên đều kể cho Liễu Tông Nguyên nghe như thể chúng đã diễn ra ở Hồ Ngọc Lâu vậy.
“Ngay đến cả Trường An, cũng hiếm người có được văn và chữ đến mức ấy. Thầy đúng thật là người nước Oa đấy chứ?...”
“Đúng, tôi từ nước Oa sang.”
Không Hải nói ra câu ấy bằng tiếng Nhật, rồi lập tức nói lại bằng tiếng Đường với một âm điệu trôi chảy.
❖ 3 ❖Chừng hai tháng trước. Ngày mười tám tháng Giêng.
Khi ấy Không Hải và Dật Thế đang ở giữa đám huyên náo của chợ Đông.
“Không Hải, xem kìa!”
Mỗi lần thấy gì lạ, Dật Thế lại huých Không Hải, rồi bảo Không Hải nhìn sang.
Đã vài lần đến chợ Đông, nhưng lần nào sự huyên náo của khu chợ này cũng đầy mới mẻ trong mắt Dật Thế.
Về phần Không Hải cũng vậy.
Người Hồ mắt xanh và khách buôn đến từ Thổ Phồn đang bày hàng trong chợ. Những người bán thảm Ba Tư, những người bán bình lọ Hồ, và cả những thương nhân đang dỡ từ lưng lạc đà những đồ y phục, giày cao cổ kiểu ngoại quốc vừa được chở tới và bày lên sạp.
Cả Dật Thế lẫn Không Hải đều hoa mắt trước cảnh tượng không thể tin nổi ấy.
Đúng lúc đó...
Tiếng huyên náo xung quanh bỗng lặng xuống. Các thương nhân khắp chợ cuống quýt thu dọn hàng. Những thanh âm hối hả ấy đã thay thế cho tiếng tấp nập chợ búa.
“Xảy ra chuyện gì thế Không Hải?”
Dật Thế đảo mắt nhìn quanh thì thấy từ đằng sau có mấy người đàn ông mặc trang phục lộng lẫy, rất nhiều người khác đi trên con phố lớn trong chợ.
“Hoạn quan kìa.” Dật Thế nói.
Cả Không Hải lẫn Dật Thế đều đã nhìn thấy hoạn quan nhân lúc yết kiến Đức Tông hoàng đế.
Hoạn quan là những người đàn ông bị thiến mất bộ phận sinh dục.
Họ là những kẻ bị tước mất khả năng đàn ông để không thể quan hệ hoặc khiến cho các ái phi trong hậu cung của hoàng đế mang thai, nhưng vì được ở gần hoàng đế cũng như hoàng hậu và các ái phi nên tiếng nói của bọn họ trong cung cũng có trọng lượng ghê gớm.
Ngay cả giới quý tộc, để được yết kiến hoàng đế cũng phải thông qua hoạn quan. Có biết bao người muốn gặp hoàng đế đã phải trả một khoản hối lộ lớn đến mức khiến người ta không khỏi choáng váng cho hoạn quan để được đẩy lên hàng đầu trong danh sách chờ đợi.
Tiếng nói của hoạn quan thậm chí còn tác động tới cả chuyện nhân sự, chính sự trong cung.
Vì đã mất đi khả năng đàn ông nên dáng dấp của họ có một vẻ gì đó rất lưỡng tính và khác hẳn người thường. Dù đang cười hay đang tức giận, khuôn mặt họ luôn thường trực một vẻ truồi truội khó nắm bắt.
Khi rời cung ra ngoài, họ mặc trên mình những bộ trang phục dễ bị lầm tưởng là phụ nữ quý tộc, còn chân thì xỏ trong những đôi giày cao cổ theo lối Hồ. Dù bắt gặp ở đâu, các hoạn quan cũng không bao giờ bị nhìn nhầm với người thường.
Sáu hoạn quan đang đi trên đường dẫn theo một đám đàn ông dễ có đến hơn hai trăm người ở đằng sau. Đám đàn ông đó chia ra theo từng hoạn quan và tản vào bốn góc chợ.
Có hơn mười chiếc xe ngựa trống...
Những chiếc xe ấy cũng tản vào bốn góc chợ cùng đám đàn ông.
Gần ba mươi người đàn ông cùng một hoạn quan đang đi về phía Không Hải và Dật Thế.
Đó là những kẻ tới chợ để thu dụng các đồ cần thiết trong cung.
Chẳng hạn như khi có yến tiệc, chưa nói đến rượu và đồ nhắm để dùng trong tiệc, các hoạn quan dẫn theo đám người kia sẽ đem từ chợ về bất kỳ thứ gì có giá trị, từ nồi niêu, bát đĩa cho đến thảm trải.
Phía bên kia có tiếng hô: “Cung thị!(*)” và sau đó là tiếng kêu tuyệt vọng của một người đàn ông chừng như là thương nhân.
(*) Cung thị là một chế độ dưới triều nhà Đường, cho phép hoạn quan ra chợ mua hàng hóa của người dân với giá vô cùng rẻ mạt để phục vụ nhu cầu trong cung. Chế độ này sau đó bị bãi bỏ trong cuộc cải cách của Vương Thúc Văn.
Tên hoạn quan vừa đi ngang qua Không Hải đang bắt đầu xem xét những chiếc bình ở cửa hàng của một người Hồ ngay trong tầm mắt.
Người đàn ông có vẻ là chủ tiệm nói với tên hoạn quan đang lọc lựa chỗ chum vại với giọng cố giấu tức giận: “Nhà tôi chẳng có món nào đáng giá cả. Toàn đồ bỏ đi thôi.”
Nhưng tên hoạn quan chẳng buồn lưu tâm. Hắn đưa tay với lấy những chiếc bình, nhìn không chớp mắt, rồi lẩm bẩm: “Cũng ra trò đấy chứ...”
Hắn nhìn chủ tiệm bảo, “Được”, rồi quay về phía đám đàn ông hô lên: “Cung thị!”
“Chừng ba mươi, bốn mươi chiếc là được rồi.”
Đám đàn ông nhanh chóng vơ lấy những chiếc bình bày trong tiệm và chất lên xe. Tiếng kêu tuyệt vọng người chủ tiệm gọi tên một vị thần ngoại quốc. Hai cô gái trẻ hình như là con gái chủ tiệm đang phụ giúp cha bán hàng bắt đầu nói gì đó với đám đàn ông bằng tiếng ngoại quốc.
Chỉ có thể đoán được rằng các cô đang nhiếc móc bọn họ.
Ba mươi chiếc bình được chất lên xe.
Hoạn quan nói với chủ tiệm: “Ta sẽ để tiền lại đây. Đâu phải ta cướp không của ngươi.”
Nói rồi tên hoạn quan lấy từ trong bọc áo ra một trăm tiền, ấn vào tay chủ tiệm người Hồ. Số tiền đó chỉ bằng một phần mấy chục giá trị thật của những chiếc bình.
Với số lượng và chất lượng của những chiếc bình ấy, nếu mua đúng giá, thì phải trả đến vài chục lượng.
“Như thế này thì ít quá.” Chủ tiệm nói, cố nén cơn giận dữ.
“Chẳng phải ban nãy ngươi bảo toàn đồ bỏ đi đấy thôi. Số tiền này là để mua đồ bỏ đi. Một trăm tiền thì ít ở chỗ nào…” Tên hoạn quan không thèm đếm xỉa đến lời chủ tiệm.
Rồi hắn quay sang hai cô con gái đang la hét bằng tiếng ngoại quốc.
“Hai đứa con gái kia, nếu ngươi cũng bán nốt thì để ta mua cho.” Hắn cất tiếng cười nhớp nhúa.
Lập tức, cô gái trẻ hơn trong hai cô gái có lẽ là một cặp chị em liền thét lên bằng tiếng Đường: “Thằng ngốc. Mi mua về nhưng liệu có cái để cho vào không?”
Vừa đúng lúc tên hoạn quan đổi sắc mặt thì Không Hải nói vọng lại từ đằng sau: “Xin xá lỗi vì tôi ngốc quá. Cái để cho vào thì tôi có mang đến đây,” rồi tiến lên phía trước.
Không cho tên hoạn quan cơ hội cất tiếng, Không Hải lấy từ bọc áo ra một cuốn kinh: “Nếu là cuốn kinh này thì cô có ưng không?”
“Đây là Bát Nhã kinh đã dịch sang tiếng Đường mà ngài Huyền Trang Tam Tạng mang về từ Thiên Trúc. Tôi thấy cuốn kinh này thật hợp để cho vào cái hộp đó.”
“Ngươi là ai!?” Hoạn quan hỏi Không Hải.
“Tôi là lưu học tăng tới từ nước Oa. Chả là hôm qua, lúc tôi đến cửa hàng này thì thấy có một cái hộp rất đẹp để ở đằng kia. Tôi ưng quá, năn nỉ ông chủ bán cho tôi nhưng ông ấy bảo không bán, vì đó không phải món đồ để bán...”
Không Hải chỉ về phía chiếc hộp khảm trai để ở tít trong góc.
“Tôi bèn giải thích vì sao tôi lại muốn mua nó thì ông chủ đây mới bảo rằng: ‘Đây là chiếc hộp mà người mẹ quá cố của tôi dùng để đựng các đồ trang sức. Nó là món di vật quý giá của mẹ tôi, nên giả sử có bán đi, thì nó phải được dùng để đựng cái gì đó xứng đáng, bằng không tôi chẳng biết phải ăn nói thế nào với người mẹ quá cố của mình. Ngày mai ông hãy mang đến cho tôi xem thứ mà ông định đựng vào trong đó. Xem xong tôi sẽ suy nghĩ.’”
Không Hải nhìn như dán mắt vào chiếc hộp để ở góc trong cùng.
“Ồ, ra là vậy. Nếu là một cuốn kinh ghi những lời dạy của đức Phật thì không có gì phải phàn nàn nữa.”
Người chủ tiệm không chút do dự, cầm chiếc hộp khảm trai lên tay và tiến đến trước mặt Không Hải.
“Thật may mắn quá. Vậy, chiếc hộp này giá bao nhiêu thưa ông?”
“Thầy nói gì vậy, tôi làm sao dám phát giá cho một vật mà thầy sẽ dùng để đựng cuốn kinh vô giá đó. Thầy cứ trả bao nhiêu tùy thầy.”
Ông chủ tiệm người Hồ nói như vậy với Không Hải bằng một thứ tiếng Đường lơ lớ.
❖ 4 ❖“Cậu làm tớ bất ngờ quá Không Hải ạ. Sao cậu lại có thể ứng tác tài tình thế kia chứ. Tớ đứng nhìn mà thót hết cả bụng.” Dật Thế nói với Không Hải.
“Đấy là nhờ ông chủ tiệm phối hợp ăn ý mới trót lọt được như thế. Mà cũng may là tớ lại tình cờ mang theo cuốn kinh. Không có thì cũng chẳng biết phải làm sao.”
“Nhưng mà cậu đã mua cái hộp đó thật còn gì.”
Đúng như Dật Thế nói, Không Hải đang ôm trong lòng chiếc hộp khảm trai cho đến khi nãy vẫn còn nằm trong một góc cửa hàng của người Hồ nọ.
Sau khi tên hoạn quan có vẻ hơi tẽn tò bỏ đi, Không Hải đã mua lại chiếc hộp đó thật.
Ông chủ tiệm ban đầu nhất định không chịu nhận số tiền Không Hải đưa cho, nhưng Không Hải cương quyết để tiền lại và rời khỏi cửa hàng.
Lúc này, hai người đang thả bộ trên con phố lớn của Bình Khang Phường.
“Nhưng mà lũ hoạn quan lộng hành quá nhỉ. Đã thế, thuế má lại còn cao, cộng thêm cái trò ăn cướp ấy nữa, thật quá sức tưởng tượng.”
Không Hải gật đầu tán thành với Dật Thế.
Quả thật, hệ thống sưu thuế thời bấy giờ của Trường An bị ta thán rất nhiều, thậm chí có thể nói là tùy tiện. Đức Tông hoàng đế vừa lên ngôi đã lập tức tiến hành cải cách thuế, áp đặt Lưỡng thuế pháp nhằm xốc lại nền tài chính đã bị tàn phá vì loạn An Sử.
Đối với dân chúng thì đây là một sự cải lùi .
Lưỡng thuế pháp có những điểm khác biệt lớn so với chế độ tô, dung, điều(*) trước đó. Nó quy định mức thuế phải nộp dựa trên sức lao động và tài sản. Hệ thống này không chia các sắc thuế thành hai loại địa tô(**) và phu dịch(***), mà gộp tất cả vào làm một và chủ yếu trưng thu bằng tiền.
(*) Tô, dung, điều là tên các loại thuế thời nhà Đường, trước khi áp dụng Lưỡng thuế pháp. Tô là thuế; Dung , Điều giống như sưu.
(**) Thuế đánh trên hoa lợi từ đất.
(***) Ở Việt Nam gọi là sưu hay sưu dịch, là một loại thuê thân, trưng thu bằng sức lao động.
Tên gọi “Lưỡng thuế pháp” bắt nguồn từ việc thuế được thu thành hai lần trong một năm, vào mùa hạ và mùa thu.
Khi ban hành Lưỡng thuế pháp, Đức Tông truyền bố cáo đi cả nước rằng, kẻ nào đặt ra những sắc thuế khác ngoài lệ này thì sẽ bị nghiêm trị, nhưng người đầu tiên phá vỡ lệ ấy không ai khác chính là Đức Tông.
Nhờ Lưỡng thuế pháp mà nguồn thu từ thuế của triều đình tăng lên gấp đôi, nhưng vẫn không đủ để bù đắp các phí tổn quân sự khổng lồ, dẫn đến việc Đức Tông cứ tăng hết loại thuế này đến loại thuế khác: thuế chè, thuế sơn, thuế gỗ, thuế nhà, thuế thuê mướn, thuế giao dịch...
Triều đình thậm chí trưng thu số thuế bằng một phần tư giá trị giao dịch đối với mọi loại giao dịch ở các chợ của Trường An. Không những thế còn tăng thuế thương nghiệp, nâng giá muối do nhà nước độc quyền kinh doanh, ép thương nhân mua quốc trái.
Triều đình sử dụng gần như mọi thủ đoạn để bòn rút tiền bạc của dân chúng. Bởi vậy đã có rất nhiều người tự sát vì không một xu dính túi. Việc này không chỉ diễn ra ở kinh đô Trường An, mà ở địa phương, các trạm thu thuế cũng được dựng lên ở hầu khắp những nơi ra tiền, đến cả những người đẩy rau đi bán rong còn bị thu thuế.
Cùng cực hơn nữa, triều đình còn đánh thuế lên cả người chết.
Không Hải đến Trường An đúng vào thời kỳ này. Trường An quả thật đã giống như một trái chín nẫu sắp rụng.
Những thứ cần dùng trong cung đều được hoạn quan thu gom từ các chợ của Trường An. Sự việc mà Không Hải và Dật Thế vừa chứng kiến ban nãy đã trở thành chuyện hằng ngày.
Hoạn quan khi mua hàng chỉ trả một chút tiền gọi là, có khi còn không trả xu nào. Thậm chí nghe nói, có những hoạn quan còn đòi ngược một khoản tiền gọi là phí vận chuyển.
Các quan đứng đầu địa phương thì đua nhau cung tiến lên hoàng đế đặng được cất nhắc về triều đình. Những thức được dâng lên theo mùa, những thức dâng lên hàng tháng, những thức được dâng lên hằng ngày... số tiền dùng để mua những cống vật ấy nhiều như núi, và tất cả, đều được lấy từ tiền thuế của dân chúng.
Chức tước do hoàng đế ban sẽ được định đoạt tùy vào giá trị của cống vật.
Mặc dầu vậy, Trường An thời kỳ này vẫn là đô thị số một thế giới với dân số lên đến một triệu người, tựa như điều kỳ diệu trong lịch sử nhân loại.
Không Hải và Dật Thế đang đi trên phố lớn của Bình Khang Phường, ở giữa cái đô thị Trường An kỳ diệu ấy.
“Bụng tớ ngót mất rồi.”
Dật Thế kêu đói từ ban nãy nên giờ đây hai người đang đi dọc phố để tìm một quán cơm hay quán rượu có thể vào ăn được.
Đang đi thì nhìn thấy ở dãy phố trước mặt có biển hiệu viết bằng chữ son: “Quán rượu Hồng Long”.
“Kia rồi, Không Hải!” Bước chân Dật Thế nhanh hẳn lên.
Lúc hai người đến trước cửa quán rượu Hồng Long thì thấy có một đám đông. Vòng ngoài là những kẻ có lẽ là khách qua đường đứng chầu hẫu. Ngay trước cửa là ba gã trai đang la lối gì đó vào phía trong.
“Có chuyện gì vậy nhỉ?”
Dật Thế và Không Hải dừng bước.
Ba gã trai hình như đã có rượu vào. Mặt đỏ gay, tiếng la lối và lời lẽ mang đặc trưng của những kẻ có hơi men.
Nhìn kỹ thì thấy trên bãi đất trước cửa quán có một thứ gì đó vừa thuôn vừa dài đang chuyển động.
“Rắn kìa, Không Hải.”
Dật Thế thốt lên, nhưng tất nhiên Không Hải đã biết điều đó vì cậu cũng đang nhìn về phía ấy.
Một trong ba gã trai đánh tiếng vào bên trong.
“Này nhé, ngài rắn này thường bắt chim để dâng lên thiên tử đó. Bọn ta lúc nào cũng phải chăm sóc chu đáo để ngài không bị đói bụng.”
Hắn ta nói như vậy.
“Bọn chúng là ai vậy.” Không Hải hỏi một người đàn ông đứng gần đó.
“Ngũ phường tiểu nhi đấy.” Người đàn ông trả lời.
Ngũ phường là nơi hoàng đế nuôi năm loài động vật: đại bàng, cắt lớn, cắt hỏa mai, ưng, chó. Tiểu nhi là những kẻ làm việc ở đó, nhưng đây là lần đầu tiên Không Hải tận mắt thấy bọn người được gọi là ngũ phường tiểu nhi .
“Bọn chúng thường mang trò ấy ra để quấy nhiễu người ta.” Người đàn ông bảo cho Không Hải biết đó là bọn ngũ phường tiểu nhi, chau mày giải thích thêm.
Bọn chúng sẽ không thôi cái trò quấy nhiễu ấy cho đến khi được người ta cho tiền, chứ không chỉ dừng lại ở việc để được ăn không uống không trong quán người ta.
Tuy nói rằng làm việc dưới trướng của hoàng đế, nhưng bọn chúng gây cho người ta cái cảm giác “chẳng khác nào một lũ đầu đường xó chợ”.
Nói như thế thì kiểu cách của đám hoạn quan khi nãy cũng hệt như một lũ đầu đường xó chợ.
Để vòi tiền, bọn ngũ phường tểếu nhi này thậm chí còn làm cả những việc không thể tin nổi. Chẳng hạn, bọn chúng sẽ giăng lưới bắt chim ở cổng ra vào những con phố mà mọi người bắt buộc phải đi qua hoặc trên những miệng giếng mà người dân thường dùng, để hễ có ai đó lại gần, chúng sẽ đổ vấy cho cái tội là làm sổng mất chim dâng lên hoàng đế, rồi đấm đá và cướp đoạt tiền của người ta.
Trường An, nói rộng ra là nhà Đường, trái thơm của lịch sử loài người, thời kỳ này đã bắt đầu tỏa mùi thối rữa từ bên trong.
Trong sách sử có những đoạn ghi chép như sau.
Đây là con số thống kê của một vài hương thôn ở Thiểm Tây khi đó.
Văn Hương vốn là một hương có ba ngàn hộ, nhưng vì không chịu nổi sự bóc lột tàn khốc nên hai phần ba số hương dân đã phải bỏ trốn hoặc chết.
Hơn nữa, ở một hương có bốn trăm hộ tên là Trường Nguyên hương thuộc huyện Vị Nam, có tới hơn chín phần mười hương dân đã chết hoặc phải bỏ đi biệt xứ.
Tại thời điểm Đức Tông ban hành Lưỡng thuế pháp (năm 780), tổng số hộ (tức số hộ phải nộp thuế) của đế quốc Đại Đường là hơn bốn triệu một trăm ngàn hộ. Con số này sau hai mươi tư năm, khi Không Hải nhập Đường, đã giảm xuống còn hai triệu bốn trăm ngàn hộ.
Ước chừng khoảng bốn phần mười số dân chúng của một đế quốc đã chết hoặc trở thành lưu dân không một tấc đất.
Mặc dầu vậy, Trường An thời kỳ này vẫn là sự kết tinh rực rỡ mà lịch sử loài người đã tạo ra.
Bấy giờ, Không Hải mới chỉ vừa xuất hiện trên cái vũ đài lịch sử Trường An ấy và vẫn còn là một sa môn vô danh tới từ một tiểu quốc ở phía Đông - nước Oa.
Không Hải xuất hiện trên vũ đài ấy là để gánh vác vai trò làm cho hệ thống Mật giáo ra đời ở Ấn Độ kết trái trong gian-nhà-kính-Nhật-Bản ở một mức độ hoàn thiện hiếm thấy trong lịch sử Phật giáo, điều mà cả Dật Thế lẫn lịch sử đều chưa nhận ra.
Về phía Mật giáo, cuộc hội ngộ với một thiên tài cháy bỏng tham vọng có tên Không Hải ngay trước bờ vực thất truyền chính là một trong những sự may mắn tựa như phép mầu.
Hoặc có thể nói theo cách ngược lại, Mật giáo sau khi sinh ra ở Thiên Trúc, đã đi suốt dọc chiều dài thời gian, vượt qua con đường tơ lụa rồi tới Trường An chính là để tao ngộ với chàng sa môn Không Hải và kết thành trái thơm tựa như một hòn ngọc ở nơi đảo quốc phía Đông - Nhật Bản.
Có thể coi Mật giáo là một hệ thống tư tưởng thừa nhận toàn bộ vũ trụ, bao gồm cả con người, cái thiện, cái ác và mọi thứ thuộc về nó.
Khi nghĩ về cuộc hội ngộ giữa Không Hải và Mật giáo, ta có cảm giác như số phận, hay nói cách khác là một thứ gì đó giống như quy luật đang xoay vần vũ trụ và thế giới loài người, hoàn toàn có thật trên cõi đời này.
Vào lúc này, nếu có kẻ ý thức được vai trò lịch sử mà Không Hải sẽ gánh vác, thì kẻ đó không ai khác chính là Không Hải.
Mà không, nói là ý thức được e rằng vẫn còn sớm. Nên gọi là tham vọng thì có lẽ phù hợp hơn với nội tâm của Không Hải lúc này.
❖ 5 ❖“Hóa ra là con rắn bắt chim cho thiên tử đây ư?” Không Hải cất tiếng.
Bọn ngũ phường tiểu nhi như giật mình trước giọng nói ấy, liền đổ dồn ánh mắt về phía Không Hải.
“Không Hải, cậu làm gì thế…” Dật Thế hoảng hồn khẽ gọi giật Không Hải.
Hẳn là Dật Thế không thể tưởng tượng rằng Không Hải sẽ dây vào bọn chúng.
Lúc ánh mắt của ba kẻ đó đổ dồn vào mình, Không Hải bèn rảo bước về phía trước theo đúng nhịp thở của bọn chúng.
“Hóa ra vì thế mà con rắn này có cánh phải không.” Không Hải nói trong lúc chăm chú nhìn ba kẻ đó.
“Có cánh á?” Bọn chúng ngờ vực hỏi lại.
“Phải.”
Sau khi gật đầu với vẻ mặt ráo hoảnh, Không Hải cúi xuống quơ lấy con rắn dưới mặt đất.
“Các ngươi không thấy đôi cánh của nó đang xếp lại như thế này à?” Không Hải chỉ vào lưng con rắn đang cầm trên tay trái.
“Vì có cánh nên nó mới bắt được chim đây mà.” Không Hải nói ra một điều khó tin.
Lúc ấy, Dật Thế không còn lời nào để nói, chỉ biết đứng nhìn điệu bộ của Không Hải.
“Ô kìa, đôi cánh xếp lại ban nãy bắt đầu xòe ra rồi này. Chà, một đôi cánh trắng muốt đẹp đẽ. Quả không hổ danh là con rắn của thiên tử…”
Không Hải vừa dứt lời thì bọn ngũ phường tiểu nhi bèn đua nhau ồ lên.
Ba gã trai đưa mắt về phía con rắn quấn trên cánh tay Không Hải như thể chúng đang nhìn thấy đôi cánh xòe rộng ra từ chỗ ấy.
“Đây là loài thụy thú(*) có tên tường xà(**) sống ở Sơn Hải Châu(***) nằm về phương Nam. Các ngươi kiếm được loài thú quý này ở đâu vậy?”
(*) Nghĩa là loài thú tốt lành, may mắn.
(**) Nghĩa là con rắn bay.
(***) Là nơi sinh sống của các loại dị thú theo truyền thuyết cổ Trung Quốc.
“Ch... chuyện đó thì...” Bọn chúng quá đỗi kinh ngạc, tới mức không thể thốt thành lời.
“Kìa, khi vẫy cánh thế này, hình như nó đang báo hiệu điều gì đó tốt lành...”
“Ồ, đúng là nó đang vẫy cánh.”
“Người ta bảo lúc nó bay lên trời, nếu đi theo nó, nó sẽ dẫn đến một nơi có đầy châu báu không đâu sánh nổi. Xem kìa, đôi cánh của nó...”
“Ồ...”
“Đó, nó bay lên rồi. Nó sẽ bay về hướng Tây ở đằng kia.”
Không Hải hướng ánh nhìn lên không trung, đảo mắt như thể dõi theo một thứ gì đó đang bay trên trời.
“Ồ, đúng thật. Nó bay rồi kìa. Ở đằng kia. Đuổi theo nào...”
Ba gã trai lật đật chạy đuổi theo con tường xà đang bay trên không trung, bỏ lại Không Hải đứng đó.
“Dật Thế, cậu thấy màn vừa rồi thế nào?” Không Hải cười tinh nghịch, rồi khẽ hất đầu về phía Dật Thế.
Ánh mắt những kẻ hóng chuyện đang đổ dồn về phía Không Hải.
“Không Hải, cậu vừa làm gì với con rắn vậy? Tớ cũng thấy con rắn bay lên trời.”
Dật Thế đi đến bên cạnh Không Hải.
“Ô hay, chẳng phải cậu đã gặp một lần ở Lạc Dương rồi sao?”
“Gặp cái gì ở Lạc Dương?”
“Tớ chỉ diễn lại phép trồng dưa mà Đan Ông đã trổ tài ở Lạc Dương thôi.”
“Cái đó hả?”
“Phải.”
“Nhưng tớ thấy con rắn đó bay lên trời thật mà.”
“Bay đâu mà bay.”
“Thế nó đi đâu rồi?”
“Này Dật Thế, trước khi nói đến chuyện đó, ta phải quên chuyện ăn đi và rời khỏi đây ngay. Ở đây có nhiều tai mắt lắm. Hơn nữa, mấy tên ngũ phường tiểu nhi đó mà quay lại thì rách chuyện...”
Không Hải hối Dật Thế rồi cất bước. Dật Thế bèn bám theo.
Những kẻ đứng hóng nhìn theo bóng hai người một lúc lâu cho đến khi bọn Không Hải rẽ ngoặt ở một góc phố. Đi thêm một đoạn nữa Không Hải dừng lại dưới gốc một cây liễu. Dưới tán lá xanh mềm mại đang đung đưa trước gió, Không Hải thọc tay vào ống tay áo lấy ra con rắn lúc nãy.
“Hóa ra cậu đút nó vào trong đấy...”
“Đúng thế. Giờ tớ sẽ thả nó ở đây.”
Vừa được Không Hải đặt xuống đất, con rắn liền thoăn thoắt trườn đi cho đến khi biến mất vào trong bóng một ngôi nhà gần đó.
“Cậu là một tay đáng sợ, Không Hải ạ.” Chờ cho con rắn khuất dạng, Dật Thế mới cất tiếng.
“Vì sao?”
“Vì cậu làm được những chuyện như vậy. Tớ đến không dám lại gần cậu mất.”
“Sai rồi, Dật Thế.” Không Hải nói.
“Sai chỗ nào?”
“Thì bởi, việc một người có thể làm được gì và việc người ấy đáng sợ là hai chuyện khác nhau.”
“Cậu lại sắp nói chuyện gì khó hiểu phải không?”
“Không có gì khó hiểu. Ví dụ thế này nhé, ở đây có một thanh đao cực sắc.”
“Ừm.”
“Cậu có sợ thanh đao đó không?”
“Sợ gì. Vì nếu thanh đao chỉ nằm đó thì đâu có chuyện nó tấn công tớ.”
“Vậy giả sử rằng có ai đó đang cầm thanh đao ấy trong tay thì sao?”
“Thì còn tùy thuộc vào việc ai cầm nó nữa chứ…”
“Chính xác là như vậy đó, Dật Thế.”
“Cậu bảo cái gì chính xác cơ?”
“Nghĩa là, Dật Thế ạ, nó chỉ đáng sợ khi có kẻ dùng nó với ý đồ gây hại cho cậu hoặc cướp đoạt tiền của cậu. Còn một người thân thiết với cậu, dù có đang cầm một thanh đao hay cây thương sắc nhọn đến thế nào, cũng chẳng có gì đáng sợ cả.”
“Điều đó thì chính xác.”
“Chính thế tớ mới nói thanh đao không đáng sợ. Khi cậu nói sợ, ấy là cậu đang sợ tâm địa của cái người cầm nó kìa. Chứ bản thân thanh đao không hề đáng sợ…”
“Tớ hiểu rồi...”
“Phép trồng dưa cũng tương tự, nó giống như thanh đao vậy, ta đâu cần sợ hãi nó. Điều khiến ta phải lo lắng là ai có trong tay thanh đao hay pháp thuật đó kia.” Không Hải nói.
“Ừm.”
“Yên tâm đi Dật Thế. Cậu chẳng có gì phải sợ tớ cả...” Không Hải vỗ nhẹ vào vai Dật Thế rồi tủm tỉm cười.
Đúng lúc ấy một giọng nói cất lên.
❖ 6 ❖“Thưa thầy…” Một giọng đàn ông.
Không Hải và Dật Thế quay về phía giọng nói thì thấy một người đàn ông đang đứng đó. Gương mặt anh ta toát lên vẻ thành thật và giàu ý chí. Người đàn ông mỉm cười trong lúc tiến lại gần.
“Ô chà, hóa ra là vậy. Thật đáng kinh ngạc! Bản thân tôi đã nhìn thấy cả hai con rắn, con bay trên trời và con ở trong ống tay áo thầy, thành thử tôi chẳng biết đâu là con thật.”
“Ồ, ông đã thấy cả hai con ư...”
“Phải. Nhưng việc thầy làm ban nãy khiến tôi thấy thật hả dạ, tôi không thể chịu đựng được cái lối của bọn chúng.”
Nói đoạn, anh ta vội vàng cúi đầu.
“Xin xá lỗi vì tôi quên chưa giới thiệu mình. Tên tôi là Tử Hậu.”
“Tôi là Không Hải.”
“Tôi là Quất Dật Thế.”
Không Hải và Dật Thế lần lượt xưng tên.
“Tên các vị nghe lạ quá. Các vị có phải người Đường không?”
“Không, tôi là lưu học tăng tới từ Oa quốc.”
“Còn tôi là lưu học sinh, cũng từ Oa quốc sang đây để học Nho.”
Hai người đáp.
“Vậy mà tiếng Đường của thầy Không Hải giỏi quá.”
“Ồ không, tôi chưa thể thành thạo được như người bản xứ.”
“À mà lúc nãy các thầy đang định vào ăn cơm phải không?”
“Vâng. Nhưng chúng tôi chưa kịp ăn.”
“Vậy thì đằng trước có quán rượu của ông chủ mà tôi quen. Ta hãy vào đó ăn, các thầy thấy thế nào?”
Không Hải và Dật Thế ưng thuận đi theo Tử Hậu. Họ vào một quán rượu tên là Thanh Sơn.
Ở đó, Không Hải đã trò chuyện với người đàn ông tên Tử Hậu.
“Thầy Không Hải, thầy thấy nền chính trị của nhà Đường hiện nay thế nào?” Tử Hậu hỏi.
“Thật là một câu hỏi khó.”
“Thế tôi hỏi khác đi một chút. Thầy có nghĩ dân chúng nước tôi hạnh phúc hay không?”
“Đó có vẻ cũng là một câu hỏi khó. So với nước Oa chúng tôi, Đường, à đúng hơn thì Trường An, đã đi trước rất xa. Về đời sống, những người giàu có ở Trường An nhiều hơn hẳn Oa quốc. Cùng là giới quý tộc, song quý tộc Oa quốc chẳng thể bì kịp quý tộc Trường An. Tuy nhiên về độ xa hoa...”
“Đúng vậy. Nhưng sự vượt hơn về đời sống không đồng nghĩa với việc con người cảm thấy hạnh phúc.”
“Phải.”
“Dân chúng Đại Đường hiện nay đã vô cùng mỏi mệt. Dân thì khốn đốn vì thuế nặng, nhưng quý tộc vẫn là quý tộc, chỉ mải lo phòng thân và thăng tiến, chẳng còn đầu óc đâu mà nghĩ đến dân.”
“Vâng.”
“Tôi thì cho rằng, có lẽ Đại Đường đã đi qua thời cực thịnh mất rồi. Giờ đây chỉ còn Lạc Dương và Trường An là vẫn giữ được vẻ xa hoa ấy, nhưng thực tế thì như các vị vừa chứng kiến.”
Qua cách lựa chọn từ ngữ, có vẻ Tử Hậu là người nói chuyện dựa theo lý nhiều hơn là tình.
Nhưng dường như bên dưới cái lý ấy, lại chứa chất biết bao nhiêu tình, đến độ như muốn ngạt thở.
“Nếu có cơ hội...” Tử Hậu nói tiếp.
“Cơ hội?”
“Phải. Nếu có được cơ hội, tôi nghĩ mình sẽ làm cho đất nước này trở nên dễ sống hơn với người dân, dù chỉ là một chút thôi, so với bây giờ. Chỉ cần có một cơ hội như thế, dẫu phải đánh đổi cả tính mạng mình, tôi cũng sẵn lòng xả thân vì nó...”
Rượu vào, lời ra, Tử Hậu nói như muốn trút hết bầu nhiệt huyết.
“Nếu có cơ hội...”
Không Hải và Dật Thế trò chuyện một thôi với Tử Hậu về nhà Đường, về thơ, rồi về Oa quốc.
Rượu đã ngà ngà, thi hứng nổi lên, Tử Hậu cho đòi mang nghiên, mực, giấy, bút ra, rồi thoăn thoắt thảo một bài thơ.
Không Hải cũng đối lại bằng thơ.
Hiếm khi nào Dật Thế làm thơ, vậy mà lần này cậu ta cũng cầm lấy bút.
Bài thơ bắt đầu bằng câu: “Oa quốc, một áng mây”, sau đó kết ở hai câu: “Gió hè dẫu ngừng lay, Chí ta vẫn đơm đầy”. Một bài thơ khá liền lạc.
Tử Hậu ngạc nhiên trước nét chữ điêu luyện của hai người. Nhưng hơn hết, Tử Hậu không tiếc lời khen ngợi lối làm thơ tài hoa của Không Hải.
Họ ngồi với nhau thêm một lát nữa rồi chia tay trước cửa quán.
“Hạnh phúc của dân chúng ư...” Vừa nhìn theo bóng lưng Tử Hậu, Không Hải vừa lẩm bẩm một mình. “Thế nào là hạnh phúc, một câu hỏi thật khó nghĩ.”
“Tại sao?” Dật Thế hỏi.
“Vì dục vọng của con người không có chỗ tận cùng.”
“…”
“Vả lại, ôm chí lớn trong lòng mà sống, quả cũng không dễ dàng gì.”
“Ừm...”
Dật Thế gật đầu như thể đã cảm thấy hài lòng về câu trả lời, theo lối hiểu riêng của mình.
❖ 7 ❖Liễu Tông Nguyên, tự là Tử Hậu, là một văn nhân tiêu biểu thời kỳ trung Đường. Tổ tiên vốn ở Hà Đông, sau này là tỉnh Sơn Đông, sau chuyển đến sinh sống ở Trường An, bản thân Tông Nguyên cũng sinh ra ở đây. Tông Nguyên sinh năm Quý Sửu, tức năm Đại Lịch thứ tám đời nhà Đường (773). Tông Nguyên nhỏ hơn Hàn Dũ, một văn nhân cùng thời, năm tuổi.
Bài tựa trong Liễu Tông Nguyên tập của Lưu Vũ Tích Có viết: “Tử Hậu ngay khi còn là thiếu niên đã có kì danh vào đầu Trinh Nguyên.”
Đầu Trinh Nguyên, tức Trinh Nguyên nguyên niên (785), Liễu Tông Nguyên mười ba tuổi. Bài tựa viết rằng ngay từ khi ấy, Liễu Tông Nguyên đã có “kì danh”, hay nói cách khác là một người có tiếng tăm lừng lẫy.
Đó tuyệt nhiên không phải một lời tâng bốc, vì tương truyền Liễu Tông Nguyên đã có tài năng hơn người từ thời trẻ. Bằng chứng là vào năm Trinh Nguyên thứ chín, lúc hai mươi mốt tuổi, Tông Nguyên tham gia kỳ thi khoa cử và đỗ tiến sĩ. Nếu so với việc một nhân tài khi ấy là Hàn Dũ đỗ tiến sĩ năm hai mươi lăm tuổi thì Tông Nguyên đã đỗ tiến sĩ lúc trẻ hơn bốn tuổi.
Nhưng cũng vào năm đó, Tông Nguyên mất cha.
Kế đến năm Trinh Nguyên thứ mười bốn, tức năm năm sau, Tông Nguyên đỗ bác học hoằng từ khoa(*), được bổ làm Tập Hiền điện thư viện chính tự(**), hiệu thư lang(***).
(*) Là một trong những kỳ thi thuộc hệ thống khoa cử của Trung Quốc.
(**) Tập Hiền điện thư viện là tên cơ quan lưu trữ, quản lý các loại thư tịch dưới triều nhà Đường. Chính tự là chức quan thấp nhất làm việc tại Tập Hiền điện thư viện, tương đương cửu phẩm.
(***) Tên chức quan làm công việc đối chiếu, hiệu đính sách vở tại Bí thư sảnh.
Một năm sau, năm Trinh Nguyên thứ mười lăm, khi ấy Tông Nguyên hai mươi bảy tuổi, vợ là Dương thị mất. Tông Nguyên không có con. Lại đến năm Trinh Nguyên thứ mười sáu, người chị gái hơn Tông Nguyên hai tuổi mất, năm Trinh Nguyên mười chín, người chị cả mất. Ở tuổi ba mươi mốt, Tông Nguyên đã mất hết anh chị em.
Cũng vào năm Trinh Nguyên thứ mười chín, trở thành giám sát ngự sử lý hành(*), nghĩa là chưa đầy một năm, Tông Nguyên đã sánh ngang với Hàn Dũ.
(*) Giám sát ngự sử là chức quan thuộc cơ quan giám sát quyền lực thời phong kiến. Lý hành là quan học việc.
Mùa đông năm ấy, Hàn Dũ bị biếm về làm huyện lệnh Dương Sơn, Lưu Vũ Tích trở thành giám sát ngự sử thay cho Hàn Dũ.
Vào thời kỳ này, các quan lại trẻ tuổi trong đó có bọn Liễu Tông Nguyên đã tạo thành một thế lực chính trị xoay quanh vai trò trung tâm do các nhân vật được thái tử Lý Tụng tin cậy như Vương Thúc Văn, Vương Phi v.v. nắm giữ.
Không Hải nhập thành Trường An vào tháng Chạp một năm sau đó, năm Trinh Nguyên thứ hai mươi.
Tháng Giêng năm kế tiếp, Đức Tông hoàng đế băng hà, Lý Tụng trở thành Thuận Tông hoàng đế.
Ấy chính là năm nay.
Nhờ đó mà Liễu Tông Nguyên, người có mối quan hệ chặt chẽ với Vương Thúc Văn, cũng trở thành một nhân vật thuộc về phe sẽ xoay chuyển nền triều chính.
Và vào lúc này, Liễu Tông Nguyên đang ngồi đối diện Không Hải trong một khách điếm nhỏ ở dịch trạm Vưu Khê. Bên cạnh Liễu Tông Nguyên là Bạch Lạc Thiên, còn bên cạnh Không Hải là Quất Dật Thế.
“Dường như ông đã có được cơ hội rồi phải không?” Không Hải nói.
Lần đầu gặp nhau vào tháng Giêng, Liễu Tông Nguyên đã thổ lộ với Không Hải rằng mình muốn làm cho đất nước này tốt đẹp hơn. Rằng nếu có cơ hội, anh ta sẵn lòng đánh đổi cả tính mạng vì việc đó.
Ý của Không Hải muốn nhắc tới chuyện ấy.
“Phải. Nhưng cơ hội này không kéo dài lâu.”
“Ông đang nói tới bệnh tình của thái tử, à của Thuận Tông hoàng đế phải không?”
“Phải.” Liễu Tông Nguyên gật đầu.
Vào tháng Tám năm ngoái, Lý Tụng bị đột quỵ vì chảy máu não. Di chứng để lại khiến Lý Tụng bị liệt và hầu như không nói chuyện được ngay cả khi đã trở thành đương kim hoàng đế.
Bấy giờ, Vương Thúc Văn đang là hàn lâm học sĩ, khởi cư xá nhân(*). Vương Phi cũng làm tới tả tán kị thường thị(**).
(*) Khởi cư xá nhân là chức quan ở bên cạnh thiên tử, ghi chép lại lời nói, hành động của thiên tử.
(**) Tán kị thường thị là chức quan ở bên cạnh thiên tử, truyền đạt chiếu chỉ và mệnh lệnh của thiên tử.
Khởi cư xá nhân do Vương Thúc Văn đảm nhận là chức quan hầu cận bên thiên tử, có nhiệm vụ ghi lại mọi lời nói, hành động của thiên tử. Do luôn ở bên thiên tử, Vương Thúc Văn đã nắm trong tay thực quyền khá lớn.
Vương Thúc Văn vốn dĩ được tuyển vào cung để làm người chơi cờ vây cùng thái tử Lý Tụng. Vương Thúc Văn được trực tiếp nghe lời Lý Tụng, mà nay đã trở thành thiên tử, khiến ông ta ở vào một vị thế có thể xoay chuyển thiên hạ.
Sau khi kẻ thao túng quyền lực cho tới bây giờ là kinh triệu doãn, tức thị trưởng Trường An, Lý Thực sa cơ, Vương Thúc Văn cùng Vương Phi đã bằng mọi giá đẩy mạnh công cuộc cải cách. Họ cho giải phóng những phụ nữ trong hậu cung, bãi bỏ chế độ “cung thị”, giáng chức nhiều quan lại ăn hối lộ.
Bởi vậy mà phe cải cách của Vương Thúc Văn bị những kẻ thuộc hệ thống cũ vô cùng căm hận. Giả sử Thuận Tông hoàng đế chết, hoặc truyền lại ngôi cho ai đó thì chắc chắn cả Vương Thúc Văn lẫn Vương Phi đều sẽ ngã ngựa.
Và ngày ấy không còn xa nữa, Không Hải nghĩ vậy.
Tuy nhiên, cuộc cải cách do bọn Vương Thúc Văn thúc đẩy đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt liệt của dân chúng Trường An. Cả chức dịch lẫn dân thường, có vô số người vui mừng vì Lý Thực thất thế. Việc trưng thu thuế của Lý Thực rất hà khắc, thiếu một tiền một cắc cũng không tha. Đến cả chức dịch cũng bị giết chết nếu không thu đủ số thuế theo quy định. Từ đó có thể suy ra, nếu dân thường không nộp thuế hoặc nộp thiếu thì sẽ thế nào.
Tháng Hai, ngày Tân Dậu, xuống chiếu kể tội vơ vét tàn bạo của kinh triệu doãn Đạo Vương Thực, biếm xuống làm trưởng sử Thông Châu. Trong phố dậy tiếng hoan hô, ai nấy đều giấu gạch đá trong ống áo, chặn đường đứng xem. Thực phải đi đường tắt mới thoát được .(*)
(*) Đoạn này trích từ Tư trị thông giám , quyển số 236. Nguyên văn: 辛酉 , 詔數京兆尹道王實殘暴括斂之罪 , 貶 通州長史 。 市裡歡呼 , 皆袖瓦傑遮道伺之 , 寶田 間道獲免。
Các sử gia đương thời đã chép lại như vậy.
Cuộc cải cách của bọn Vương Thúc Văn, mặc dầu vậy, đã tạo ra vô số kẻ thù. Đám hoạn quan bị tước mất quyền lực cấu kết với đám quý tộc và tướng sĩ bị giáng chức hòng hất cẳng Vương Thúc Văn. Những chuyện đồn đại ấy cũng đã đến tai Không Hải và Dật Thế.
Những kẻ thù chính trị của bọn Vương Thúc Văn không có lý gì lại không tranh thủ sự ốm yếu của Thuận Tông hoàng đế trong giai đoạn này. Cuộc trò chuyện giữa Liễu Tông Nguyên và Không Hải mang ẩn ý đó.
Không Hải và Liễu Tông Nguyên gặp nhau ở Vưu Khê đúng vào giai đoạn này.
“Chẳng phải đây là giai đoạn rất bận rộn của ông sao?” Không Hải nói với Tông Nguyên.
“Điều đó thì khỏi phải nói...” Tông Nguyên gật đầu thành thật, không hề che đậy.
“Vì sao đang trong giai đoạn này mà ông lại tới đây?”
“Chính vì đang trong giai đoạn này mà đích thân tôi phải tới đây.”
“Ý ông là sao?”
“Thầy Không Hải, hẳn là thầy đã biết nhiều chuyện rồi, nên tôi xin đi thẳng vào vấn đề.”
“Vâng.”
“Tôi đã nghe chuyện xảy ra ở ruộng bông của Từ Văn Cường, nơi thầy sắp tới...”
Liễu Tông Nguyên kể lại ngắn gọn sự việc mà Không Hải cũng biết ở ruộng bông của Từ Văn Cường.
Tiếp đó, Liễu Tông Nguyên hỏi: “Thầy Không Hải, thầy có biết vụ việc những tấm cáo thị được dựng lên ở phố lớn dạo gần đây không?”
“Có, tôi có nghe nói.”
“Những tấm cáo thị đó quả cũng lại tiên đoán về cái chết của hoàng đế.”
“Vâng.”
“Lại còn một chuyện nữa. Bắt đầu từ năm ngoái, có con yêu mèo xuất hiện ở nhà Lưu Vân Tiêu, một chức dịch của Kim Ngô Vệ, con mèo này cũng tiên đoán về cái chết của Đức Tông hoàng đế. Về vụ việc này, vì thầy có can dự vào, nên hắn là thầy tường tận hơn tôi.”
“Vâng.”
“Con yêu mèo ở nhà Lưu Vân Tiêu, những giọng nói ở ruộng bông của Từ Văn Cường, những tấm cáo thị được dựng trên phố lớn... Tôi ngờ rằng ba sự việc này đều có liên hệ với nhau ở đâu đó...”
“Vâng.”
“Tính mệnh của Thuận Tông hoàng đế cũng chính là tính mệnh của bọn tôi...” Liễu Tông Nguyên nói.
Nếu Thuận Tông chết vào lúc này, Vương Thúc Văn sẽ ngã ngựa.
Ngã ngựa nghĩa là chết.
Trước tiên, kẻ ngã ngựa sẽ bị biếm về địa phương, rồi chỉ ít lâu sau sẽ bị hạ độc, hoặc có chỉ dụ ban cho cái chết một cách chính thức.
Không khéo, Liễu Tông Nguyên cũng sẽ bị ban cho cái chết. May ra thì chỉ bị biếm về địa phương. Trong trường hợp đó, không chỉ riêng bản thân kẻ đắc tội, mà cả nhà đều sẽ bị biếm về địa phương.
“Bọn tôi vẫn còn vô số việc cần phải làm ở kinh đô này. Trong khi thời gian thì vô cùng ít…”
“Các ông đang rất vội phải không?”
“Vội vàng là không tốt. Bọn tôi biết rõ điều đó. Nhưng không vội không được…” Liễu Tông Nguyên thở dài. “Vụ việc này liên quan tới tính mạng của Thuận Tông hoàng đế, tức là tới cái chí của bọn tôi, trong đó có cả Thuận Tông hoàng đế. Vì vậy mà tôi đã đến đây hôm nay.”
“Trong cung còn có kẻ tung tin thất thiệt rằng chính bọn tôi đã rút ngắn sự sống của Đức Tông hoàng đế, tức là cha của đương kim hoàng đế bây giờ. Chúng bảo rằng vì thái tử Lý Tụng ngã bệnh nên bọn tôi đã vội vã ra tay…”
“…”
“Bọn tôi còn phải chiến đấu với cả những tin đồn như thế.”
“Vâng”
“Thầy Không Hải ạ, tôi đã từng nghĩ, bo bo giữ lấy thân mình là việc làm của những kẻ hèn hạ, không có chí. Nhưng khi rơi vào hoàn cảnh này rồi mới thấy cần phải giữ lấy thân. Tôi không nói tôi thương thân mình, mà cần phải giữ lấy thân để đạt được cái chí. Đôi khi, chính tôi cũng đã…” Liễu Tông Nguyên dừng lời, trút một tiếng thở dài nặng trĩu. “... làm vấy bẩn tay mình.”
“…”
“Nhiều lúc tôi cứ nghĩ: Những việc mình đang làm bây giờ chẳng phải rất vô nghĩa hay sao? Rốt cuộc thì việc mình đang làm đâu có thấm thía gì với thế gian này? Đó chỉ là sự tráo đổi cái nhân quyền lực mà thôi, chứ với dân chúng thì việc bọn tôi đang làm hay Lý Thực đã từng làm thì có khác gì nhau?”
“…”
“Có những khi tôi thấy thật ủ dột.”
“Nhưng ông chưa từng nghĩ đến chuyện lẩn trốn đúng không?”
“Phải. Tôi chỉ có con đường này. Tôi không có nơi nào để lẩn trốn.”
Liễu Tông Nguyên đưa mắt sang Bạch Lạc Thiên: “Có vẻ Bạch Cư Dị có suy nghĩ hơi khác với tôi.”
“Hơi khác là sao?” Không Hải nhìn Bạch Lạc Thiên.
“Vì tôi không hợp với chính sự.” Bạch Lạc Thiên nói với một giọng bướng bỉnh.
“Chàng trai này là một kẻ vị tình. Quá mức vị tình.” Liễu Tông Nguyên nói.
“Vị tình?” Không Hải hỏi.
“Chính sự, tất nhiên là phải có tình, nhưng không được để cho tình kiểm soát.” Liễu Tông Nguyên nói rồi nhìn sang Bạch Lạc Thiên.
“Lúc nãy tôi nói rằng mình không có ý định lẩn trốn. Dù là vào trong cái tình của thơ văn. Nhưng, Bạch Cư Dị thì ngược lại, cậu ấy có cái tình đó. Tôi tuy có biết chút thơ văn, nhưng không đánh cược đời mình vào thơ văn. Trong khi Bạch Cư Dị thì...”
“Tôi cũng đâu có ý định đánh cược đời mình vào thơ văn...” Bạch Lạc Thiên ngắt lời Liễu Tông Nguyên. “Các ông hãy bỏ qua chuyện của tôi mà tiếp tục câu chuyện kia được chứ!”
“Cậu nói phải.”
Liễu Tông Nguyên thu cằm, chuyển ánh mắt từ Bạch Lạc Thiên về lại phía Không Hải.
“Thật ra thì thầy Không Hải ạ, tôi có một vài việc muốn nhờ thầy.”
“Việc gì xin ông cứ nói ra.”
“Việc thứ nhất như tôi đã nói. Xin thầy cho tôi được đi cùng thầy hôm nay.”
“Việc nữa là gì?”
Nghe Không Hải hỏi, Liễu Tông Nguyên nhìn một lượt những người xung quanh.
Trong phòng có Không Hải, Quất Dật Thế, Liễu Tông Nguyên, Bạch Cư Dị, rồi Trương Ngạn Cao, hai người lính và Đại Hầu.
“Chuyện gì tôi nghe được thì Đại Hầu cũng nghe được.”
“À, đúng vậy. Thầy Không Hải, lần trước tôi đã thấy thầy giấu con rắn đi. Tôi tin vào tấm lòng nghĩa hiệp của thầy khi ấy.”
“Vâng?”
“Thật ra tôi muốn thầy đọc giúp tôi một bức văn.”
“Một bức văn!? Nếu là một bức văn thì đâu cần đến tôi, ông thừa sức đọc được chứ ạ?”
“Nhưng mà thầy Không Hải, nó được viết bằng thứ tiếng của nước thầy.”
“Bằng tiếng nước Oa?”
“Đúng vậy.” Liễu Tông Nguyên gật đầu.
“Ông có mang theo ở đây không?”
Liễu Tông Nguyên lắc đầu trước câu hỏi của Không Hải.
“Nó đang được cất ở một nơi.”
“Bức văn đó phải chăng có quan hệ với vụ việc này?”
“Phải. Tôi đoán là như thế...”
“Nhưng nếu là tiếng nước Oa thì đâu cần nhờ đến tôi, Trường An này chẳng phải cũng có rất nhiều người Oa đó sao?”
“Thật hổ thẹn khi phải thú nhận rằng, bên cạnh tôi không có kẻ nào vừa nói được tiếng nước Oa mà vừa tin cậy được.”
“Ra là vậy...”
“Thầy Không Hải, như tôi đã nói với thầy ban nãy, bọn tôi không còn nhiều thời gian nữa. Bọn tôi không thể tiến hành đầy đủ các bước cần thiết như dò la tin tức, giao thiệp trong một khoảng thời gian rồi cuối cùng mới quyết định có nhờ cậy một người nào đó hay không.”
“Thế còn nếu là tôi thì...”
“Khi không thể tiến hành đầy đủ các bước thông thường thì chỉ còn cách tin vào trực giác. Tôi nghe đến tên thầy từ miệng Bạch Lạc Thiên, rồi sau đó Trương Ngạn Cao cũng nhắc tới thầy, tôi lập tức nhận ngay ra, Không Hải này chính là Không Hải mà mình đã gặp khi ấy. Nếu vậy thì còn gì phải nghĩ nữa.”
“Tạm thời, tôi xin hứa là sẽ làm hết khả năng có thể.”
“Vậy thì may quá.”
“Nhân tiện xin cho hỏi, bức văn bằng tiếng nước Oa đó là do ai viết ra?”
“Đó là người mà có lẽ thầy cũng biết. Tiên sinh Triều Hành.”
“Triều Hành!?”
Lúc Không Hải nhẩm lại cái tên đó trong miệng, Dật Thế đang im lặng bỗng kêu to: “Có phải là A Bội Trọng Ma Lữ(*)!?”
(*) Âm Nhật đọc