Chương XXV Huệ Quả
1
Mình mẩy nóng ran. Cứ như thể đang bị sao trong một cái chảo không có nước cũng không có dầu vậy. Muốn uống một ngụm nước mát cho đã cơn khát mà cơ thể không sao cựa quậy nổi. Thứ mồ hôi nhớp nháp hệt như lũ đỉa chui từ lỗ chân lông và bám nhằng nhằng trên da.
Ta biết mình đang ốm. Cảm giác khó chịu từ sâu bên trong cơ thể không sao thoát ra nổi. Có lẽ ngũ tạng đều đã bắt đầu mục rữa.
Ta thấy như trong hơi thở ra có lẫn cả mùi ngũ tạng đang mục rữa. Mọi thân xác sau khi sáu mươi tuổi đều như thế này ư?
Chẳng gì có thể lưu lại mãi trên cõi đời này…
Ta hiểu rõ điều ấy.
Thân xác con người suy kiệt, và cuối cùng không còn hoạt động được nữa chính là quy luật của vũ trụ này.
Mọi thứ hữu hình đều đi đến chỗ hoại diệt…
Chẳng qua chỉ là sự hoại diệt ấy đã bắt đầu tìm đến với thân xác này mà thôi.
Thân xác này sẽ chẳng trụ nổi mấy năm nữa. Nhưng không có nỗi sợ hãi nào trước cái chết.
Phần lớn giống hữu tình sinh ra từ vũ trụ này dưới dạng một cá thể độc lập, rồi cá thể ấy lại quay trở về với vũ trụ. Ta hiểu, chết cũng giống như một nghi thức để quay trở về với vũ trụ.
Có rất nhiều cá thể, rất nhiều sinh mệnh sẽ tham gia vào cái nghi thức đã lặp đi lặp lại không biết bao nhiêu lần ấy. Chỉ đơn giản là như thế mà thôi.
Đó là những ý nghĩ trong đầu Huệ Quả.
Nếu có điều gì còn vương vấn, thì ông chỉ tiếc rằng sẽ phải từ giã cõi đời này khi chưa có người xứng đáng để truyền lại hai bộ Mật là Thai tạng giới và Kim cương giới mà ông đang giữ ở bên trong mình.
Nếu nói là chấp, thì cũng đúng là chấp.
Đêm thâu…
Huệ Quả đang ngủ.
Trong giấc ngủ, ông vẫn ý thức được thân xác đang ngủ của mình, nhận biết được nhiệt độ mà thân xác ấy đang cảm thấy. Không phải thứ nhiệt độ ở bên ngoài thân xác, mà là nhiệt độ và mùi thối rữa sinh ra từ bên trong thân xác mình.
Ông nhận biết chúng với một ý thức rõ ràng.
Cả nhiệt độ lẫn mùi thối rữa của thân xác, khi ngắm nhìn bằng con mắt của ý thức ở trạng thái này, đều tựa như một cơn mộng mị. Ông đang ngắm nhìn thân xác mình, nhiệt độ mà thân xác ấy cảm thấy, mùi thối rữa mà thân xác ấy tỏa ra, theo cái cách tựa như có một cái tôi nữa đang điềm nhiên quan sát hành vi của chính mình trong mơ.
Nếu nói vậy, thì đây đúng là một giấc mơ rồi…
Nghĩa là, còn có một cái tôi khác đang mơ thấy mình thản nhiên quan sát thân xác và ý thức của chính mình trong giấc ngủ?
Đó là một sự rối loạn ý thức khó tả.
Thế rồi…
Huệ Quả nghe thấy một giọng nói nhỏ.
“Này Huệ Quả…”
Giọng nói đó gọi.
“Này Huệ Quả…”
Giọng nói đó quá đỗi thoảng nhẹ, tới độ không thể xác định được nó đang vọng vào tai, hay vọng thẳng vào tâm trí.
“Này Huệ Quả…”
Giọng nói đó đang gọi ta.
Là ai vậy?
Ai đó gọi ta có việc gì?
Nhưng từ khi nào nó đã đến gần tới mức có thể gọi tên ta?
À, phải rồi, chính là nó.
Cái mùi thối rữa đó.
Có kẻ nào đã chèn ý thức vào cái mùi thối rữa ban nãy, hay đúng hơn là cái mà ta nghĩ là mùi thối rữa, để nhập vào trong ta.
Mà không, có thể chính là nó đã giả dạng thành mùi thối rữa để tiếp cận ta. Nó đội lốt mùi thối rữa, làm như thể một thứ nội sinh, và lén chui vào bên trong ý thức của Huệ Quả này.
Giọng nói cất lên.
“Hãy đến đây…”
Nó gọi ta đến.
“Đến đâu?”
Huệ Quả đáp lại tiếng gọi trong giấc mơ một cách vô thức.
Không được rồi.
Huệ Quả nhủ thầm, vẫn với ý thức trong mơ.
Nếu đáp lại những ảo giác hoặc ảo thanh, đặc biệt khi chúng được kẻ nào đó điều khiển một cách có chủ ý, thì sẽ càng lúc càng lầy sâu vào huyễn thuật.
Tuy nhiên…
Nếu cự tuyệt nó, biết đâu nó lại không gọi ta nữa.
Có kẻ dám tới tận Thanh Long Tự, hơn nữa lại là tẩm thất của Huệ Quả này, để bày trò tà pháp với ta sao?
Hay lắm.
Huệ Quả thầm nghĩ.
“Ai đó?”
Huệ Quả hỏi.
“Ô hô…” Kẻ đó cười to khoái chí. “Ta là kẻ thống nhất, đấng tối cao của thế giới hiện tượng này.”
Thế giới hiện tượng tức là thế giới mà ở đó con người và sự sống được sinh ra, tồn tại, rồi chết đi. Là thế giới mà mọi thứ sinh ra, biến đổi và hoại diệt. Hay nói cách khác, chính là vũ trụ này.
“Hỡi đấng tối cao!” Huệ Quả hỏi giọng nói. “Ta có thể đến đâu bây giờ?”
“Trước tiên hãy ngồi dậy và ra khỏi giường.”
Huệ Quả ngồi dậy, ra khỏi giường theo lời giọng nói.
Sàn nhà lạnh ngắt dưới bàn chân trần.
“Đến đây!” Giọng nói gọi.
Huệ Quả đi về phía giọng nói.
Đôi chân trần giẫm lên sàn gỗ, bước vào màn đêm…
Hơi đêm lạnh.
Dù đã sắp sang xuân, nhưng đêm vẫn giá buốt, băng đóng thành một lớp mỏng.
Huệ Quả đi dưới mái hiên, chân giẫm lên những viên đá lát lạnh như băng.
“Đến đây…”
Đó là hướng dẫn đến chính điện.
Ánh trăng xanh chiếu xiên xuống tận bên dưới mép mái, soi sáng bước chân Huệ Quả. Huệ Quả mở cửa, đi vào trong chính điện…
Có một, hai ngọn đèn đang cháy.
Ngay trước mặt là bức tượng Đại Nhật Như Lai bằng vàng đang tĩnh tọa. Tuy ở tư thế ngồi, song bức tượng vẫn cao gấp đôi chiều cao của một người bình thường. Ngón cái của bàn tay trái gập vào trong lòng bàn tay trái, ngón trỏ của bàn tay trái chĩa lên trời, còn bàn tay phải với ngón cái gập vào trong lòng, tức là Kim cương quyền, nắm trọn lấy ngón trỏ của bàn tay trái. Lối kết ấn ấy của Đại Nhật Như Lai được gọi là Trí quyền ấn.
Đại Nhật Như Lai…
Trong tiếng Phạn là Mahāvairocana, ký âm bằng chữ Hán là Ma Ha Tì Lô Giá Na.
Người ta gọi nguyên lý gốc rễ, hay chân lý của vũ trụ này bằng tên một vị Phật là Đại Nhật Như Lai. Khác với Phật Thích Ca Mâu Ni, Đại Nhật Như Lai vốn không có nhục thân như của con người, nên hình hài ấy chỉ là một cách thể hiện mang tính tượng trưng.
Ở giữa chính điện rộng lớn có một đài sen tám cánh, Như Lai tĩnh tọa trên đó. Xung quanh Như Lai là tượng chư Phật ngồi, ở bốn góc Đông Tây Nam Bắc của chính điện là các tượng tôn thần bảo vệ bốn phía.
Phía Đông là Trì Quốc Thiên.
Phía Tây là Quảng Mục Thiên.
Phía Nam là Tăng Trưởng Thiên.
Phía Bắc là Đa Văn Thiên.
Trong không gian tối tăm của chính điện, chư Phật và các tôn thần tựa như những thực thể sống đang động đậy dưới ánh đèn phản chiếu.
Ánh đèn màu đỏ hắt lên lớp da vàng óng của Đại Nhật Như Lai, khiến cho thứ màu vàng óng từ đó tỏa ra như nhuộm đầy bóng tối xung quanh. Chư Phật và các tôn thần đều đang hít thở thứ màu vàng óng đó trong bóng tối với một vẻ diễm lệ.
“Đến rồi đấy à, Huệ Quả.” Đại Nhật Như Lai máy môi, cất giọng trầm trầm.
“Vậy ra là ngài sao?” Huệ Quả cất tiếng.
“Kẻ gọi ngươi đến chính là Đại Nhật Như Lai ta đây.”
“Ngài gọi tôi đến có việc gì?”
“Chớ nóng vội, Huệ Quả.” Đại Nhật Như Lai giải kết ấn, đặt hai tay lên đầu gối.
“Đức Tông chết rồi nhỉ…” Như Lai mấp máy đôi môi vàng óng, nói.
“Vâng.”
“Việc đó là do ta gây ra.”
“Chính là ngài sao!”
“Phải, vì hắn sống lâu quá…”
“Thật là…”
“Tiếp theo là Thuận Tông.”
“Ngài sẽ giết Thuận Tông hoàng đế sao?”
“Ngươi đừng lấy làm lạ. Mọi thứ sinh, mọi thứ diệt trong thế giới này đều ở cả trong lòng bàn tay Mahāvairocana này.”
Điều mà Đại Nhật Như Lai vừa nói đến tất nhiên là đúng.
Đại Nhật Như Lai chính là nguyên lý vận hành của vũ trụ. Nói vậy thì tất cả những sự vật, hiện tượng trong thế giới này, dẫu là sự sinh tử của con người, dẫu là sự sinh tử của cỏ cây, dẫu là sự sinh tử của cầm thú, côn trùng, thảy đều nằm trọn trong lòng bàn tay của Đại Nhật Như Lai.
“Ta sẽ giết hắn. Ngươi thử bảo vệ hắn coi.”
Đại Nhật Như Lai chống một bên chân, từ từ đứng dậy.
Thế rồi chư Phật xung quanh cùng các tôn thần đều đứng cả dậy, giơ hai bàn tay lên và đồng thanh nói.
“Thử bảo vệ hắn coi!” Trì Quốc Thiên nói.
“Thử bảo vệ hắn coi!” Quảng Mục Thiên nói.
“Thử bảo vệ hắn coi!” Tăng Trưởng Thiên nói.
“Thử bảo vệ hắn coi!” Đa Văn Thiên nói.
“Thử bảo vệ hắn coi!”
“Thử bảo vệ hắn coi!”
“Thử bảo vệ hắn coi!”
“Thử bảo vệ hắn coi!”
Chư Phật, chư tôn giơ hai tay lên, nện chân thình thịch và cười ha hả.
Đại Nhật Như Lai ngoác cái miệng đỏ lòm ra cười ngay trên đầu Huệ Quả.
Huệ Quả mỉm cười nhìn Đại Nhật Như Lai với vẻ mặt như không có chuyện gì. Ông nheo đôi mắt ẩn bên dưới đôi lông mày trắng rủ dài một cách thích thú.
“Ngài Như Lai, chẳng phải đã đến lúc ngài hiện nguyên hình rồi sao?”
Huệ Quả ngước lên nhìn Đại Nhật Như Lai, rồi bắt đầu niệm chân ngôn.
Namo buddhāya namo dharmāya namaḥ saṃghāya, namaḥ, suvarṇāvabhāsasya…
Khổng Tước Minh Vương chú, tức là chân ngôn của Khổng Tước Minh Vương.
… Hỡi các bậc tôn Đại Phạm Thiên* làm chúa tể, hỡi các bậc không gì ngăn cản nổi, hãy bảo vệ tôi. Thành tựu cát tường. Tôi quy y nhất thiết chư Phật, cầu cho tì kheo Toa Để* an lạc. Sống lâu trăm tuổi. Được thấy trăm Thu. Hộ tì, ngu tì, mẫu tì, sạ phộc hạ.
(*) Tiếng Phạn là Brahmā.
(*) Tiếng Phạn là Svātī.
Khi Huệ Quả vừa niệm dứt chân ngôn, Đại Nhật Như Lai liền không đứng được nữa, đành ngồi xuống trong im lặng và kết Trí quyền ấn.
Chu Phật, chư tôn cũng ngồi hoặc đứng trở lại vị trí ban đầu. Tất cả mọi thứ đều như cũ.
Trong bóng đêm ắng lặng đến lạnh người, chư Phật chư tôn đang lặng lẽ vây quanh Đại Nhật Như Lai. Chỉ có hai ngọn đèn ai đó thắp lên đang chập chờn leo lét trên đĩa đèn.
Ở khoảng giữa hai ngọn đèn ấy, phía trước Đại Nhật Như Lai có một bóng người màu đen. Trước mặt Đại Nhật Như Lai là hộ ma đàn, trước hộ ma đàn là một tọa đài để người ngồi. Bóng đen ấy đang ngồi trên chiếc tọa đài.
Ngày thường, đó là nơi Huệ Quả ngồi. Ông ngồi đối diện với Đại Nhật Như Lai qua hộ ma đàn. Đó là cách ngồi chính tắc. Nhưng bóng đen ấy thì đang ngồi xây lưng lại phía Đại Nhật Như Lai và hướng mặt về Huệ Quả.
Một cái bóng đen đặc quánh và nhỏ thó…
Tựa như bóng tối vừa tan ra và vón thành một cục ở đó.
Khục khục khục.
Bóng đen bật ra một giọng khàn đục.
“Khỏe chứ, Huệ Quả…” Cái bóng lẩm bẩm.
“Nhà ngươi là…”
“Lâu rồi mới gặp lại ngươi…” Cái bóng nói.
“Ông vẫn còn sống ư?”
“Phải.” Cái bóng đáp. “Chỉ có điều, mạng ngươi cũng chẳng còn được bao lâu nữa. Ngươi trẻ hơn ta, vậy mà sẽ ra đi trước ta sao…”
“Mọi sự đều do số trời…”
“Ngươi thấy sao?”
“Sao là sao?”
“Việc ta nói lúc nãy đó.”
“Việc gì?”
“Ta sẽ giết chết Thuận Tông.”
“Ông nói sao!?”
“Lâu rồi hai ta mới có dịp so tài chú thuật. Sao nào? Ngươi sẽ cứu lấy Thuận Tông bằng pháp lực Mật tông của nhà ngươi chứ?”
“Vậy có nghĩa là cái chết của Đức Tông hoàng đế là do…”
“Phải. Ta đã giết hắn bằng chú thuật.”
“Tại sao ông phải làm vậy, khi mà con người đằng nào rồi cũng chết…”
“Khục, khục, khục…” Bóng đen cười. “Sau Thuận Tông, ta sẽ giết hoàng đế tiếp theo, rồi hoàng đế tiếp theo nữa…”
“Vì lẽ gì?”
“Ước nguyện của ta là triều đại nhà Đường diệt vong.”
“Ông nói sao!?”
“Chúng ta sẽ tái hiện lại những gì xảy ra nhiều chục năm trước. Và Đan Long cũng sẽ dự phần vào cuộc so tài này…”
“Đan Long…”
“Dù không muốn thì đằng nào Thuận Tông cũng sẽ phái sứ giả đến tìm ngươi, để yêu cầu ngươi bảo vệ hắn. Ngươi dám từ chối chăng?” Bóng đen nói. “Trước kia là Bất Không, còn lần nãy sẽ tới lượt ngươi, Huệ Quả ạ…”
❖ 2 ❖“Bạch Long à…” Huệ Quả nói với cái bóng. “Bạch Long!”
“Ồ.” Cái bóng đáp lại.
Cái bóng hình như vừa ngồi xích lại gần Huệ Quả.
“Lâu lắm rồi ta mới lại được gọi bằng cái tên thân thuộc ấy.”
“Bấy lâu nay ông sống thế nào?”
Huệ Quả hỏi nhưng cái bóng không trả lời.
Hực hực hực… Chỉ có một tiếng cười nhỏ cất lên.
“Hoàng Hạc thầy ta đã mất, Bất Không thầy ngươi cũng chẳng còn ở cõi này…”
“…”
“Huệ Quả à, ta gặp ngươi lần đầu tiên là khi nào nhỉ?”
“Năm Chí Đức thứ hai.”
“Đã bốn mươi tám năm rồi.”
“Địa điểm là Hoa Thanh Cung ở Ly Sơn.”
“Phải rồi.”
“Tôi tới đó cùng sư phụ Bất Không.”
“Lúc đó ngươi bao nhiêu tuổi?”
“Mười hai tuổi.”
“Còn trẻ quá…” Cái bóng lẩm bẩm với vẻ bùi ngùi.
“Cả hai ta…” Huệ Quả cũng lẩm bẩm với một giọng đầy hoài niệm.
“Tôi đã đoán rằng vụ việc con mèo đen ở nhà Lưu Vân Tiêu, vụ việc trên ruộng bông của Từ Văn Cường đều có liên quan tới câu chuyện xảy ra vào năm Chí Đức thứ hai ấy, suy đoán đó là đúng phải không?”
“Phải.”
“Nếu vậy thì Thanh Long Tự đã can dự vào vụ việc này rồi.”
“Ta biết…”
“Tại sao ông lại làm những trò như vậy?”
Huệ Quả hỏi.
Nhưng cái bóng không trả lời.
Im lặng hồi lâu.
“Chuyện đó chẳng phải đã kết thúc rồi sao?”
“Chưa.” Cái bóng nói. “Chưa, vẫn chưa kết thúc. Chưa cái gì kết thúc cả.”
Đó là một giọng nói trầm đục, giống như tiếng bùn sủi.
“Ông vẫn còn oán hận ư?”
“Phải…”
Cái bóng lặng lẽ thở dài, như đang cố trút ra cái gì đó sôi sục ở trong lòng.
Hừ…ừ…ừ… Cái bóng gầm lên.
Tiếng gầm ấy chứa chất nỗi bi ai.
Huệ Quả nghĩ bụng: hình như cái bóng đang khóc.
Tiếng gầm dần dà trở nên một thứ âm hưởng khó tả, giống như tiếng khùng khục.
Khực
Khực
Khực
Khực
Từ lúc nào, nó đã biến thành một tiếng cười trầm, khẽ.
Khực
Khực
Khực
Khực
Ha ha ha ha ha
Cái bóng cười lớn.
Nhưng Huệ Quả lại nghĩ tiếng cười đó là tiếng khóc rống.
“Hận này dằng dặc, dễ có bao giờ nguôi*…” Cái bóng nói. “Chớ có quên, Huệ Quả.”
(*) Ý lấy từ câu “Thử hận miên miên vô tuyệt kỳ” trong Trường hận ca.
Nói đoạn, cái bóng lặp lại lời nói ấy một lần nữa.
“Huệ Quả à, chớ có quên.”
Dưới ánh đèn, cái bóng chậm rãi đứng dậy.
Tóc bạc trắng.
Và những nếp nhăn hằn sâu.
“Dẫu cho tóc có pha sương, dẫu cho nếp nhăn hằn sâu như khe núi vì tuổi già, thì cũng tuyệt đối đừng quên…” Cái bóng nói như hát.
“Dẫu có già đến đâu, dẫu có bao thời khắc trôi qua, thì những thứ không bao giờ biến mất vẫn cứ nằm đó trong tâm tưởng ta.” Cái bóng bước tới một bước như đang múa.
“Cái gì sinh ra tất sẽ diệt, đó là đạo lý của thế giới này…”
“Nhảm nhí nào, Huệ Quả.”
“Bản nhiên của mọi sự vật, hiện tượng trong cõi này, ngay cả những niệm tưởng của con người, thảy đều là không.”
“Ngươi nói gì vậy? Ý ngươi là bữa tiệc mà Huyền Tông bày ra ấy, những bài thơ mà các thi nhân ngâm ngợi ấy, những điệu nhạc mà các nhạc công xướng lên ấy, cuộc tao loạn mà An Lộc Sơn gây ra ấy, thảy đều là không?”
“Đúng vậy.”
“Ngươi nói rằng đó chỉ là mộng, đó chỉ là ảo…?”
“Đúng vậy…”
“Nếu vậy, thì bọn ta gặp lại nhau ở đấy chính là vì mộng ấy, ảo ấy, Huệ Quả ạ.”
“Ông nói sao…”
“Nghe này Huệ Quả. Đã đến lúc bày tiệc rồi. Đây là bữa tiệc của chúng ta. Chúng ta gặp lại nhau ở đây chính là vì bữa tiệc ấy, mặc lòng là mộng hay là ảo. Đan Long, ngươi và ta, chúng ta sẽ lại mở tiệc trước những đóa mẫu đơn…”
“Tiệc ư?”
“Phải, tiệc.”
Cái bóng lại dấn lên một bước.
“Bữa tiệc chú thuật. Chúng ta sẽ vắt nốt chút sức tàn để mở tiệc.”
“Chú thuật?”
“Hãy xem ta, ngươi và Đan Long còn có gì khác nữa. Hãy trổ hết mọi chiêu thức mà chúng ta đã học. Đó sẽ là một bữa tiệc không ai có thể ngồi yên. Trong bữa tiệc ấy, ta có thể vận đến những chiêu thức đã được học mà chưa khi nào dùng tới. Có thể phô ra những chiêu thức cho đến cạn kiệt sức sống này. Ngươi không thấy sung sướng vì điều ấy sao?”
“…”
Mồ hôi đang rịn ra trên vầng trán Huệ Quả.
“Thứ được dâng lên cho bữa tiệc này của chúng ta không phải là chén ngọc, không phải là miện vàng, không phải những bài thơ hào hoa, cũng không phải tiếng nhạc…”
“Vậy thì là cái gì…”
“Là sự diệt vong của vương triều nhà Đường…”
Nói đoạn, cái bóng bước xuống khỏi tọa đài.
“Hãy múa đi. Hãy múa đến cuồng loạn. Bởi đây sẽ là bữa tiệc cuối cùng của chúng ta.”
Huỵch!
Cái bóng giậm chân xuống sàn.
Lập tức hai ngọn đèn phụt tắt, bóng tối đúng nghĩa bao trùm Huệ Quả.
Tăm hơi cái bóng đã biến mất.
❖ 3 ❖Khắp trong cung náo loạn.
Gần đây xảy ra toàn những chuyện kỳ quái. Những chuyện kỳ quái ấy bắt đầu xuất hiện sau khi Thuận Tông lên ngôi hoàng đế ít lâu.
Có lần trong yến tiệc, cây nguyệt cầm nhạc công đang chơi bỗng nhiên đứt dây. Nhạc công ngừng gảy, căng lại dây, nhưng khi vừa bắt đầu chơi thì dây lại đứt. Nhạc công lấy làm lạ, nghĩ bụng chắc là do tơ đàn đã cũ hoặc bị lỗi, bèn thay mới cả năm dây, rồi chơi tiếp. Nhưng lần này thì cả năm dây cùng đứt.
Thuận Tông hoàng đế bực bội, đứng dậy khỏi ghế.
Người ta phao rằng đó là điềm gở, khiến cho nhạc công đó không được ra vào cung nữa.
Lại có lần, Thuận Tông hoàng đế đang chuẩn bị ngự thiện thì thấy một con ruồi bay đến. Con ruồi bay lòng vòng trên mâm cơm của hoàng đế, dai như đỉa, rồi cuối cùng đậu lại trên thức ăn. Đó là một con ruồi to màu đen. Đuôi nó ánh lên màu lục pha vàng, trông rất quái gở.
Hoàng đế sai đám hầu cận bắt lấy nó và giết đi.
Nhưng đúng lúc hoàng đế định tiếp tục dùng bữa thì lại thấy ruồi bay đến.
Vẫn là loại ruồi to màu đen, giống hệt con lúc nãy. Đuôi ánh lên màu lục pha vàng. Nhưng lần này là hai con.
Chẳng hiểu sao, chúng chỉ bay lòng vòng bên trên mâm cơm của Thuận Tông hoàng đế, rồi cuối cùng đậu xuống đó.
Đám hầu cận lại bắt và giết chúng đi.
Xong rồi, giờ thì ta có thể bắt đầu dùng bữa, vừa nghĩ đến đó, hoàng đế liền nghe thấy tiếp đập cánh vo ve, ruồi lại bay đến.
Vẫn là loài ruồi to màu đen. Lần này là bốn con.
Chúng lại bay lòng vòng trên mâm cơm của hoàng đế, dai như đỉa, rồi cuối cùng đậu lại trên thức ăn.
Đám hầu cận lại bắt và giết chúng đi.
Lũ ruồi đậu trên thức ăn rất dễ bắt.
Thuận Tông hoàng đế bực dọc, sai người đổi mâm cơm mới, nhưng khi vừa định ăn thì lại nghe thấy tiếng ruồi bay đến. Lần này là tám con.
Lại bắt và giết đi.
Nhưng tiếp theo lại là mười sáu con ruồi bay đến.
Càng giết, lũ ruồi càng bay đến đông hơn. Và chúng chỉ đậu bên trên thức ăn của hoàng đế mà chẳng thèm để mắt đến thức ăn của những người khác. Các món của Thuận Tông hoàng đế không có gì đặc biệt, mà cũng giống như các món trên đĩa của người khác.
Để thử xem thế nào, hoàng đế sai người đem một món khác, trên một chiếc đĩa khác đặt trước mặt mình, lập tức lũ ruồi liền bâu đến đĩa thức ăn mà vốn trước đó chúng không thèm để mắt tới.
Cuối cùng, lũ ruồi kéo đến với số lượng không đếm xuể. Dường như chúng chỉ quan tâm tới các món đặt trước mặt Thuận Tông hoàng đế mà thôi.
Thuận Tông hoàng đế bỏ bữa, tức tối đứng dậy và toan rời phòng. Đúng lúc ấy, lũ ruồi bỗng phát ra những tiếng vo ve, bay lên khỏi đĩa thức ăn mà chúng đang bâu kín rồi vây quanh hoàng đế.
Đến lúc này thì quả nhiên Thuận Tông hoàng đế không còn bực nổi nữa, mà bắt đầu thấy sợ.
Lại một lần khác…
Đêm đã khuya, nhưng Thuận Tông hoàng đế vẫn trằn trọc.
Đầu óc cứ lơ mơ mà chẳng tài nào ngủ được. Vừa mới thiếp đi lại liền tỉnh giấc. Trong lúc lơ mơ, hoàng đế gặp toàn ác mộng. Làm cách nào cũng không ngủ được. Mồ hôi vã ra trong chăn. Cảm giác như có một con đỉa lớn, âm ấm, nhớp nháp đang quấn khắp người.
Tấm chăn nặng trịch.
Hoàng đế chợt mở bừng mắt thì thấy một con mèo lớn màu đen đang ngồi ngay trên ngực nhìn mình. Đôi mắt màu lục pha vàng sáng quắc.
Hoàng đế muốn hét lên nhưng không thành tiếng.
Thế rồi trong bóng tối, con mèo đen đứng phắt dậy bằng hai chân sau và bắt đầu múa. Một cảnh tượng rùng mình. Vừa múa, con mèo vừa nhìn hoàng đế và nói bằng tiếng người.
“Tiếp theo sẽ tới lượt ngươi…”
Á!
Hoàng đế hét lên, ngồi bật dậy, nhưng không thấy con mèo đen đâu nữa.
Nghe kể, những sự việc như thế đã diễn ra rất nhiều lần.
❖ 4 ❖Có cái gì đó đang liếm vào tai. Một cảm giác ram ráp, âm ấm.
Đó là một chiếc lưỡi nhỏ, ẩm ướt và hơi trơn. Sau khi khe khẽ liếm hất ngược vành tai, nó bắt đầu nhóp nhép liếm vào lỗ tai.
Ông già bừng tỉnh giấc.
Gì thế…
Có chuyện gì thế nhỉ?
Vẫn nằm trong chăn, ông ta đưa tay sờ bên tai vừa có cảm giác âm ấm ấy.
Đó là tai phải… vẫn còn ướt.
Mới đấy còn thấy như có cái gì đang liếm tai mình cơ mà…
Ông ta đẩy chăn ra, ngồi dậy. Tất cả đèn đều đã tắt. Bóng tối bao trùm xung quanh. Mặc dầu vậy, vẫn có một chút ánh sáng lờ mờ ở trong căn phòng tối tăm. Hơi đêm lạnh hơn ông già tưởng, đang sột soạt chuyển động.
Tấm chăn lụa.
Bức tường.
Bình gốm đặt bên mép tường.
Có thể lờ mờ nhận ra những thứ đó.
Ông ta nhìn sang bên cạnh. Trên tường là ô cửa sổ hình tròn mở toang. Ánh trăng xanh rọi qua ô cửa in một khoảnh tròn trên nền đá. Ánh trăng lờ mờ soi sáng căn phòng đã tắt đèn. Nhờ đó mà ông ta có thể nhận thấy hơi đêm lạnh lẽo đang chuyển động cũng như quang cảnh của căn phòng dù không có đèn.
Chỉ có điều…
Ai đã mở cánh cửa sổ?
Đêm qua, trước khi đi ngủ ta đã đóng chặt cửa rồi cơ mà.
Thế rồi…
Ông già bỗng để ý thấy, có cái gì đó màu đen cuộn tròn trên bậu cửa sổ.
Cái gì vậy!?
Ông già lập tức đứng xuống khỏi giường. Gương mặt hằn sâu vẻ mệt mỏi và những nếp nhăn. Ông ta có lẽ vào khoảng bảy mươi, để râu. Cả râu và tóc đều trắng như lông cừu.
Một bước…
Hai bước…
Ông già đi về phía cửa sổ. Ông ta mặc bộ áo ngủ bằng vải bông màu tía. Gấu áo hơi quết xuống sàn.
Gờ bậu cửa chỉ dày vừa vặn một nắm tay. Vật màu đen hình như đang ở ngay trên cái gờ. Ánh trăng chiếu lại từ sau lưng cái vật cuộn tròn ấy.
Ông già dừng chân.
Đúng lúc ấy, vật màu đen đứng phắt dậy. Đó là một con mèo đen. Con mèo đang đứng trên hai chân sau. Đường viền xung quanh mình nó phát ra một màu xanh mờ ảo dưới ánh trăng.
Con mèo nhìn ông già bằng đôi mắt lục pha vàng sáng quắc.
“Là ngươi sao…” Ông già lẩm bẩm.
“Cũng lâu rồi đấy nhỉ…” Con mèo mở miệng, nói nhỏ.
Nó nói tiếng người.
Hầu hết hơi thở bị lọt ra ngoài qua kẽ răng hoặc hai bên mép khiến giọng nó trở nên khó nghe, nhưng có thể nhận ngay ra đó là tiếng người nói bằng âm Đường. Một tông giọng cao.
Thấp thoáng phía sau hàm răng trắng và nhọn là chiếc lưỡi đỏ nhớp nháp đang chuyển động.
Chính là cái lưỡi đó… Ông già nghĩ bụng. Chính cái lưỡi đó đã liếm láp tai mình lúc nãy.
“Ngươi đã đi đâu? Sao không liên lạc gì với ta…” Ông già hỏi.
“À, ta bận quá, vì có bao công chuyện phải giải quyết…” Con mèo nhếch mép cười. Một điệu cười khiến người ta phải rùng mình.
“Ta có chuyện muốn bàn với ngươi.” Ông già nói bằng một giọng khô khốc.
“Chuyện gì?”
“Chuyện đang xảy ra ở trong cung.”
“Chuyện gì nhỉ?”
“Đừng có giả tảng. Làm được những việc như vậy thì chỉ có thể là ngươi chứ không ai khác…”
“Những chuyện như vậy?”
“Cho ruồi bâu vào thức ăn của hoàng đế, làm đứt dây nguyệt cầm trong lúc nhạc công đang gảy…”
“Ô hô hô.”
“Chính ngươi đã lẻn vào tẩm thất để hù dọa hoàng đế phải không? Ngài nói đó là một con mèo đen.”
Xì
Xì
Xì
Con mèo vừa phì hơi vừa cười.
“Con đàn bà của ngươi…” Con mèo nói, không đếm xỉa đến lời ông già.
“Con đàn bà của ta?”
“Phải, ngươi đã gửi cô ta giữ hộ một cái tráp trong nhà đúng không…”
“Cái tráp nào?”
“Cái tráp mà ngươi đã đánh cắp khỏi ngôi nhà đó.”
Lời con mèo khiến ông già bối rối.
“À… Nhưng đó là vì ngươi bảo ta đánh cắp nó rồi gửi Hương Lan cất giữ đấy chứ. Ta chỉ làm theo lời ngươi thôi mà…”
“Ngươi nói hay lắm. Nhưng chẳng phải chính ngươi là kẻ đánh cắp hay sao?”
“Bởi vì ngươi dọa sẽ tiết lộ mọi chuyện nếu ta không làm thế…”
“Ừ hữ.”
“Việc để tên đạo sĩ Chu Minh Đức ở lại trong ngôi nhà đó cũng là do ngươi yêu cầu ta làm vậy.”
“Hắn chết rồi, phải không?”
“Phải, hắn chết rồi. Hắn tự mình chui vào vạc nước đang sôi và chết chín.”
“Khực khực khực…”
“Là ngươi phải không? Chính ngươi gây ra chuyện đó.”
“Biết nói sao…”
“Con mèo xuất hiện trong tẩm thất của hoàng đế trước khi biến mất đã nói: tiếp đến là ngươi. Như thế nghĩa là sao?”
“Đức Tông băng, kế đến là Lý Tụng…” Con mèo nói với một giọng như ngâm ngợi.
Rồi nó nhấc bổng một chân lên, điệu bộ như đang múa.
“Sao!!”
“Lời cáo ấy đã đến được tai Thuận Tông. Hắn ta chắc không đến nỗi không hiểu ý nghĩa của câu nói: tiếp đến là ngươi.”
Lý Tụng chính là tên húy của đương kim hoàng đế Thuận Tông.
Đức Tông hoàng đế mới băng vào tháng Giêng, con trai là Lý Tụng kế vị trở thành Thuận Tông hoàng đế.
Việc con mèo đen xuất hiện trong nhà một chức dịch Kim Ngô Vệ tên là Lưu Vân Tiêu báo trước về cái chết của Đức Tông hoàng đế cũng như việc diễn ra những lời đối đáp khẳng định về cái chết ấy rồi có những bức tượng dõng to lớn chui ra từ lòng đất ở cánh đồng bông của Từ Văn Cường trước khi Đức Tông hoàng đế băng hà ít lâu đều đã đến tai Thuận Tông hoàng đế.
Và ngài cũng đã biết về những tấm cáo thị dựng trên phố lớn Trường An sau đó. Trên đó viết “Đức Tông băng, kế đến là Lý Tụng”, chính là câu nói mà con mèo vừa nhắc đến.
“Thằng khốn Thuận Tông ấy chắc là đang run lên vì sợ…” Con mèo nói vẻ khoái trá.
“Hóa ra là ngươi sao? Quả đúng là ngươi rồi.”
“Vậy đấy, ngươi định thế nào?”
“Nhưng còn việc ấy thì sao?” Ông già nhấn mạnh.
“Việc gì?”
“Giấc mơ.”
“Giấc mơ nào?”
“Giấc mơ mà ta và ngươi đã bàn với nhau, về việc thay đổi kinh sư này…”
“Chẳng phải nó đã thay đổi rồi sao?”
“Chưa hề. Ta vẫn còn chưa làm được gì. Mới chỉ vừa bắt đầu mà thôi. Không, thậm chí ta còn chưa bắt đầu. Ngươi định thế nào với lời hứa của mình?”
“Lời hứa nào?”
“Chẳng phải giữa ta và ngươi đã có một lời hứa?”
“Ta đã giữ đúng lời hứa rồi còn gì.”
“Ngươi nói đã giữ đúng lời hứa!?”
“Ta đã khiến cho Đức Tông chết sớm hơn như đã hứa đấy thôi.”
“Vậy chuyện với Thuận Tông hoàng đế là sao? Chính nhờ Thuận Tông hoàng đế nên ta mới có cơ hội để thay đổi đất nước này.”
“Thay đổi đất nước này? Xem kìa, một kỳ thủ cờ vây định làm anh hùng cứu thế ư?”
“Ngươi định làm gì Thuận Tông hoàng đế?”
“Nghe đây. Ta chỉ hứa với ngươi một điều duy nhất, đó là khiến cho Đức Tông hoàng đế chết sớm hơn. Còn thì không hứa hẹn gì với ngươi về Thuận Tông hoàng đế hết.”
Con mèo lại cất lên tiếng cười trầm và khàn.
Ông già định tóm lấy con mèo thì nó đưa hai chân trước ra như ngăn lại, rồi ngồi xuống theo tư thế xếp bằng.
“Hãy khoan.”
Ông già lập tức dừng bước.
“Ta sẽ chỉ cho ngươi một cách hay.”
“Cách gì!?”
“Nghe này. Ngày mai, khi vào cung, ngươi hãy diện kiến Thuận Tông và tâu lên như sau. Thưa bệ hạ, về chuyện này, phi Huệ Quả ở Thanh Long Tự thì không ai khác có thể làm cho yên được…”
“Huệ Quả?”
“Phải. Hãy buộc ông ta phải xuất đầu lộ diện.”
“…”
“Chỉ cần như vậy nữa là đủ cả. Không còn thiếu thứ gì…”
“Đủ cả?”
“Mọi thứ ở trong tình trạng sẵn sàng. Sau đó là có thể bắt đầu.”
“Bắt đầu cái gì?”
“Bữa tiệc.”
“Bữa tiệc!?”
“Phải rồi, một bữa tiệc…”
Con mèo nói, đoạn đứng dậy.
“Nghe này. Ngươi nhớ phải tâu lên đấy nhé. Kẻ cứu được Thuận Tông hoàng đế chỉ có thể là hòa thưọng Huệ Quả mà thôi…”
Dứt lời, con mèo nhảy phắt từ bậu cửa sổ xuống vườn.
Ông già vội vàng chạy theo, nhòm ra ngoài vườn nhưng con mèo đã mất dạng. Chỉ có những thân cây gỗ, cây bụi tắm dưới ánh trăng xanh tịch mịch trong vườn khẽ lay động trước một cơn gió thoảng.
Trong hơi đêm lạnh lẽo, đám cây cối cho thấy mùa xuân đã đến gần hồ như đang tỏa ra một mùi thơm ngọt ngào để chuẩn bị cho bữa tiệc.
❖ 5 ❖Lúc Huệ Quả với thân hình gầy guộc bước vào phòng thì ông già vẫn đang cúi mặt xuống.
Bốn bức tường quét vôi trắng. Chỉ có một ô cửa sổ hình tròn. Căn phòng giản dị tới mức có rất ít đồ trang trí.
Sàn nhà được lát bằng những viên đá hình chữ nhật, trên đó kê một chiếc bàn gỗ. Hai bên bàn là hai chiếc ghế kê đối diện nhau. Ông già ấy đang ngồi trên một trong hai chiếc. Ông ta chống khuỷu tay trên mặt bàn, gục mặt vào giữa hai tay.
“Tôi xin được cáo lui…” Kẻ dẫn Huệ Quả tới căn phòng này nói từ phía sau, rồi khép cánh cửa lại.
“Thật không phải phép khi cho gọi ngài đến đây…”
Ông già toan đứng dậy thì Huệ Quả ngăn lại: “Ông cứ ngồi đó được rồi…”
“Xem ra ông không được khỏe?”
“Không sao. Tôi ổn.” Ông già đứng dậy. “Mời ngài ngồi.”
Ông già giục Huệ Quả ngồi xuống chiếc ghế đối diện. Huệ Quả ngồi xuống, chăm chú nhìn ông già. Ông ta đang chậm rãi ngồi trở lại chiếc ghế của mình.
Vương Thúc Văn…
Đây không phải là lần đầu Huệ Quả gặp ông ta.
Ông già này luôn ở bên đương kim hoàng đế từ hồi ngài còn là thái tử. Đó là một danh thủ cờ vây. Ông ta dạy cờ vây cho thái tử và được thái tử Lý Tụng hết sức sủng ái.
Đức Tông hoàng đế băng hà vào tháng Giêng năm nay và thái tử Lý Tụng hiện đang là người kế vị. Kẻ đứng sau đương kim hoàng đế chính là Vương Thúc Văn. Cũng có thể gọi ông ta là kẻ giấu mặt quyền uy nhất ở đế quốc Đại Đường này. Ông ta can thiệp vào mọi việc từ nhân sự cho đến chính sách dưới thời vị hoàng đế mới và tất cả đều được chuẩn y. Ông ta và Huệ Quả đã từng nhiều dịp giáp mặt và trò chuyện với nhau. Song đây là lần đầu tiên hai người gặp riêng ở một nơi như thế này.
Vương Thúc Văn có lẽ đã bảo bọn tôi tớ lánh hết đi nên chẳng thấy bóng ai xung quanh.
Huệ Quả không ghét con người này. Thậm chí lại còn quý mến là đằng khác.
Tuy có vẻ là một người đầy tham vọng, nhưng Vương Thúc Văn luôn tỏ thái độ hòa nhã, đối đãi với xung quanh chu toàn. Có thể đoán được mục đích của Vương Thúc Văn khi muốn nắm lấy mọi quyền bính ở hậu trường. Huệ Quả không phải không có suy nghĩ muốn ủng hộ ông ta hết sức có thể. Bản thân Huệ Quả không phải một người có tham vọng, nhưng người đàn ông này thì có và ông ta che giấu điều đó một cách rất khéo léo.
Nhưng khi nhìn gương mặt Vương Thúc Văn phía đối diện, Huệ Quả không khỏi kinh ngạc.
Gương mặt ấy bỗng như già đi mười tuổi. Tiều tụy. Những nếp nhăn hằn sâu như thể bị giày vò bởi một mối phiền não thâm căn nào đó.
Nếu không nhầm thì ông ta còn trẻ hơn mình vài tuổi, Huệ Quả nghĩ bụng.
Sắc mặt Vương Thúc Văn nhợt nhạt như người bị bệnh.
“Để tôi gọi người nhé.” Huệ Quả hỏi.
“Không cần đâu ạ.” Vương Thúc Văn đưa một tay lên xua xua.
Hai con ngươi vằn lên những tia máu như thể bị thiếu ngủ. Bọng mắt thâm quầng.
“Nom ông có vẻ không được khỏe đâu…”
“Tự tôi thế nào tôi biết. Người khác trông thấy tôi thế nào tôi cũng biết. Mọi thứ tôi đều biết cả, vì thế hôm nay tôi mới cho mời ngài đến, thưa Huệ Quả A-xà-lê*…”
(*) Tiếng Phạn là ācārya, nghĩa là người chỉ dạy giáo lý, phẩm vị cao nhất trong Mật tông.
“Tôi hiểu.” Huệ Quả gật đầu.
Sáng nay, có một cỗ xe ngựa dừng lại ở Thanh Long Tự, trên đó là một sứ giả. Sứ giả mang theo thư của Vương Thúc Văn. Khi mở thư ra đọc, Huệ Quả thấy Vương Thúc Văn nói có việc rất kíp nên muốn gặp càng sớm càng tốt. Nếu được thì hãy lập tức đi cùng sứ giả tới nhà Vương Thúc Văn.
À, vậy ra là vì việc này. Huệ Quả tự nhủ, rồi chuẩn bị ít hành lý sơ sài, giao lại việc chùa cho đệ tử và lên xe ngựa cùng sứ giả đến nhà Vương Thúc Văn.
Nhưng Huệ Quả không tưởng tượng ra được Vương Thúc Văn lại tiều tụy đến mức này.
“Trước tiên, xin ông hãy cho biết việc chính.” Huệ Quả giục Vương Thúc Văn.
“Chẳng hay Huệ Quả A-xà-lê đã nghe được những chuyện đang xảy ra trong cung chưa?”
“Ông muốn nói tới những sự việc kỳ quái xảy ra xung quanh hoàng đế?”
“Ồ, đúng vậy. Đúng là việc đó. Chính vì thế nên tôi mới cho mời ngài tới đây…”
Vương Thúc Văn thuật lại vắn tắt những việc kỳ quái xảy ra với hoàng đế cho Huệ Quả nghe.
“Những việc như vậy xảy ra khiến hoàng đế hết sức buồn phiền, đến nỗi cơm chẳng buồn ăn.”
“Thật chẳng lành chút nào.”
“Thế rồi…” Nói đến đó, Vương Thúc Văn dừng lại lấy ống áo lau những giọt mồ hôi lấm tấm rịn đầy trên trán, rồi tiếp. “Thế rồi trong cung có người cho rằng, gốc rễ của những việc kỳ quái đó là vì có kẻ đang muốn hãm hại hoàng đế bằng chú thuật…”
“Vâng.”
“Nếu đúng là như vậy thì xin ngài Huệ Quả hãy dùng pháp lực của mình để bảo vệ hoàng đế khỏi những phép phù thủy ấy.”
“Tất nhiên là…”
“Xin ngài hãy làm gì đó.”
“Nhưng đâu thể đường đột như vậy được. Hoàng đế đã biết ý định của ông chưa?”
“Hoàng đế biết rồi ạ. Có người nói với tôi rằng nếu không nhờ đến ngài Huệ Quả thì không ai có thể hóa giải được thứ bùa chú ấy, nên tôi đã tâu với hoàng đế.”
“Thế là vội vàng quá…”
“Hoàng đế nói nếu là Huệ Quả A-xà-lê ở Thanh Long Tự thì còn gì bằng, vì vậy đây cũng là ý chỉ của hoàng đế.”
“Vậy tôi có thể diện kiến hoàng đế một lần được không?”
“Lúc nào cũng được thưa ngài.”
“Tôi muốn trực tiếp gặp hoàng đế để xem đó là loại bùa chú gì. Sau đó mới có thể chuẩn bị đầy đủ để vào cung được.”
Huệ Quả nói, rồi cúi thấp đầu.
Quả nhiên là như vậy, Huệ Quả nghĩ bụng trong lúc cúi xuống. Đúng như những gì Bạch Long đã nói: “… đằng nào Thuận Tông cũng sẽ phái sứ giả đến tìm ngươi.”
Quả đúng là như vậy.
Dù không biết trong mình còn lại bao nhiêu phần công lực, nhưng ta chẳng còn cách nào khác là phải làm hết sức.
Lúc ngẩng mặt lên thì trong lòng Huệ Quả đã quyết.
“Vậy tôi có thể diện kiến hoàng đế ngay bây giờ được không?”
Huệ Quả quay sang Vương Thúc Văn hỏi bằng một giọng trầm ấm và điềm tĩnh.
❖ 6 ❖Vương Thúc Văn hiện đang giữ chức hàn lâm học sĩ, khởi cư xá nhân. Nhiệm vụ là ghi chép những lời hoàng đế nói ra và lập thành văn tự.
Ông ta vốn dĩ là bạn cờ của thái tử, nhưng giờ đây đã là một trong những người thân cận nhất với hoàng đế.
Xét trên cấp bậc, khởi cư xá nhân là một chức quan tòng lục phẩm, về phẩm trật thì không thể nói là cao, nhưng công việc của chức quan này là ghi lại các “phát ngôn” của hoàng đế.
Tương tự còn có một chức quan khác là khởi cư lang, khởi cư lang có nhiệm vụ ghi lại các việc trị nước và hành vi của thiên tử.
Các ghi chép của khởi cư xá nhân, khởi cư lang về sau sẽ được biên lại thành chính sử.
Nhìn rộng ra lịch sử Trung Quốc, khi nói đến khoa học thì tức là nói đến lịch sử, việc biên soạn sách sử là công việc ở tầm quốc gia. Không có dân tộc nào trên thế giới này lại dành nhiều công sức cho việc biên chép lịch sử dân tộc mình bằng được người Trung Quốc.
Tuy phẩm trật không cao, song vai trò của khởi cư xá nhân rất quan trọng. Thêm nữa, với cương vị như thế, khởi cư xá nhân còn phải thường xuyên túc trực ở bên để ghi lại các “phát ngôn” của hoàng đế. Do đó, như một hệ quả tất yếu, cơ hội để chuyện trò với hoàng đế sẽ nhiều hơn khởi cư lang.
Vào thời kỳ này, nếu nói đến người ở gần hoàng đế nhất thì phải kể đến nữ quan Ngọ chiêu dung.
Kế đến là hoạn quan Lý Trung Ngôn.
Tiếp theo là tả tán kỵ thường thị Vương Phi.
Rồi mới tới Vương Thúc Văn.
Tư trị thông giám chép rằng, Lý Trung Ngôn và Ngọ chiêu dung (chiêu dung là một cấp bậc của nữ quan) chỉ chăm sóc các việc riêng tư của Thuận Tông, còn kẻ quyết định việc triều chính và nhân sự là Vương Thúc Văn và Vương Phi.
Vương Phi, giống như Vương Thúc Văn, vốn là thầy dạy thư pháp cho Lý Tụng. Và cũng giống như Vương Thúc Văn, Vương Phi trở thành một kẻ được trọng dụng sau khi Đức Tông mất và Lý Tụng lên ngôi xưng làm Thuận Tông hoàng đế.
Năm ngoái, chính xác là tháng Tám năm Trinh Nguyên thứ hai mươi, đúng vào khoảng thời gian Không Hải nhập Đường thì Lý Tụng bị chảy máu não. Sau đó, tuy đã hồi phục phần nào, song vẫn không thể làm chủ được cơ thể, tay trái hầu như bị liệt hoàn toàn. Mặc dầu vẫn nói được, nhưng rất khó khăn.
Vương Phi là người Ngô. Ông ta nói tiếng Ngô, tức là tiếng Thượng Hải ngày nay. Vào thời ấy thì đó là thứ tiếng nhà quê nên Vương Phi thường bị trêu chọc vì giọng nói của mình. Tướng mạo Vương Phi xấu xí. Vóc người nhỏ thó, khó coi. Thành thử ông ta rất giỏi bút đàm. Vì vậy có thể nói, tài năng ấy đã được Lý Tụng đang chịu di chứng của bệnh đột quỵ mua lại.
Mặt khác, việc đưa ra những chính sách mới trên thực tế là công việc của Hàn lâm viện, nơi Vương Thúc Văn trực thuộc với tư cách một hàn lâm học sĩ. Nghĩa là, về bản chất, Vương Thúc Văn chính là người đang nắm giữ quyền lực của triều đình nhà Đường.
Vương Phi, Lý Trung Ngôn và Ngọ chiêu dung đóng vai trò là những mắt xích trung gian trong việc truyền đạt ý kiến của Vương Thúc Văn lên hoàng đế. Khi ấy, Vương Thúc Văn đã bãi bỏ chế độ cung thị vốn bị ta thán rất nhiều, cách chức kinh triệu doãn, tức thị trưởng Trường An, Lý Thực.
Tư trị thông giám chép: “Thúc Văn bất kể việc gì cũng rất tự tin, tường tận chữ nghĩa, thích bàn chuyện.”
Đó là một con người đầy tự tin, có học thức và giỏi hùng biện.
Vương Thúc Văn dẫn theo Huệ Quả đến Tử Thần Điện vào buổi chiều.
❖ 7 ❖Thuận Tông hoàng đế đang nằm trên ngự sàng có rèm lụa rủ quanh. Nay đã ở vào tình cảnh nửa người bị liệt, nói năng khó khăn, nên lại càng lao tâm khổ tứ.
Sàn nhà trải thảm Ba Tư, cửa sổ cũng được che bằng rèm lụa. Trên chiếc bàn gỗ trắc có đôi chim phượng hoàng làm bằng ngọc và mã não. Đôi ngà voi được chạm trổ tinh vi miêu tả xứ thần tiên. Đó là xứ sở nơi những tiên nhân trứ danh từ cổ chí kim cư ngụ sau khi đắc đạo thành tiên.
Rồi những là bình gốm Hồ, xà cừ Nam Hải, tượng Phật bằng vàng.
Trong chiếc ang đổ đầy thủy ngân, có một con rùa bằng vàng đang bơi. Đó là sự kết hợp giữa thủy ngân, thứ được cho là thuốc tiên trường sinh bất tử, với con rùa, là biểu tượng của sự trường thọ.
Một căn phòng tột cùng xa hoa.
Chính giữa căn phòng ấy kê một chiếc giường, Thuận Tông hoàng đế đang nằm chơ vơ trên đó. Rèm được kéo lên, để lộ ra vóc dáng Thuận Tông.
Người đứng cạnh ngự sàng là hoạn quan Lý Trung Ngôn.
“Tâu bệ hạ, ngài Huệ Quả và ngài Vương Thúc Văn đã đến.”
Người nữ quan đưa đường thấp giọng thông báo rồi nhẹ nhàng lui ra.
Vương Thúc Văn và Huệ Quả chậm rãi bước vào phòng.
Không kể một vài lính canh ở bên ngoài, trong phòng chỉ có bốn người là Vương Thúc Văn, Huệ Quả, Lý Trung Ngôn và Thuận Tông. Việc đưa Huệ Quả đến đã nhận được sự đồng ý của hoàng đế.
“Hạ thần đã đưa ngài Huệ Quả đến đây.”
Vương Thúc Văn dừng lại ở gần lối vào, cung kính cúi đầu, tâu lên.
“Được…”
Thuận Tông hoàng đế đáp lại một cách khó khăn.
Từ khi bị đột quỵ, Thuận Tông có thói quen chỉ nói ngắn gọn và vào thẳng việc chính. Nếu người nghe không nắm bắt được ý tứ trong câu nói ngắn gọn ấy, Thuận Tông sẽ ngay lập tức tỏ ra khó chịu.
“Được” trong trường hợp này nghĩa là được phép lại gần ngự sàng.
Vương Thúc Văn giục Huệ Quả cùng tiến lên.
Sau khi dừng chân, Vương Thúc Văn hỏi Lý Trung Ngôn: “Ngọc thể hoàng thượng thế nào?”
Lý Trung Ngôn kính cẩn cúi đầu nói: “Tâm trạng của hoàng thượng…”
Vương Thúc Văn bèn quay sang Thuận Tông.
Như chỉ chờ có thế, Thuận Tông liền lắp bắp nói: “Thúc Văn à…”
“Dạ.”
“Làm quá rồi…”
Vương Thúc Văn hiểu ngay ý câu nói.
Thuận Tông muốn nói rằng, chẳng phải vừa mới thay hoàng đế mà ngươi đã vội vàng cải cách quá hay sao.
“Dạ.” Vương Thúc Văn không nói gì hơn, chỉ cúi đầu.
“Chẳng phải vội vàng quá sao?”
Thuận Tông lặp lại. Rồi nói tiếp.
“Hận đấy…”
Câu này Thuận Tông muốn nói đến những kẻ bị biếm chức trong cuộc cải cách gấp rút của Vương Thúc Văn.
“Nhất là bọn Lý Thực…”
Lý Thực là nhân vật từ thời Đức Tông, mới hai tháng trước vẫn còn là kinh triệu doãn của Trường An. Là nhân vật trung tâm trong những hành vi tham nhũng và hối lộ xảy ra tràn lan ở kinh đô, Lý Thực đã khiến dân Đường lao đao. Có thể nói Lý Thực chính là kẻ thù của phe cải cách bao gồm Vương Thúc Văn, Liễu Tông Nguyên, Lưu Vũ Tích, Lục Thuần, Lã Ôn, Lý Cảnh Kiệm, Vi Chấp Nghi v.v. Quyền lực của Lý Thực có được là nhờ sự gắn kết chặt chẽ với Đức Tông hoàng đế. Chính sự thao túng quyền lực ấy đã đưa đến những chuyện bóc lột và bất nhân của bọn ngũ phường tiểu nhi kia.
Đường thư chép: “(Lý Thực) chỉ đem sự tàn nhẫn ra mà trị dân.”
Ông ta là chủ nhân của một nền chính trị tàn bạo, đã sát hại vô số những kẻ vướng chân, những kẻ không vừa ý mình. Lý Thực đánh mất quyền lực cùng với cái chết của Đức Tông, rồi bị thế lực mới nổi lên là bọn Vương Thúc Văn cách chức, biếm về Thông Châu.
Cấp bậc ở Thông Châu là hàm chính lục phẩm, so với tòng tam phẩm khi làm kinh triệu doãn thì như thế là bị giáng chức rất nặng.
Nhưng đằng nào thì việc biếm chức đó cũng là để “ban cho cái chết”.
Không ít kẻ tham gia cung thị và đám ngũ phường tiểu nhi là đồng bọn của Lý Thực bị vạch mặt và tru sát.
Người dân vô cùng hân hoan đón nhận cuộc cải cách này.
“Lý Thực đã giết hại hàng mấy chục người ngay trong thời gian để trở thưa hoàng thượng.” Vương Thúc Văn hạ thấp giọng.
Thời gian để trở là khoảng thời gian chịu tang của dân chúng sau khi hoàng đế chết. Trong thời gian này nếu giết người sẽ bị coi là trọng tội. Hình phạt cho tội đó là chết.
Nếu xét tới tình tiết này thì việc bãi truất đối với Lý Thực không có gì là vô lý cả.
“Dân chúng rất hồ hởi trước việc Lý Thực bị sa cơ.”
“Trẫm biết.” Thuận Tông nói. “Nhưng ý trẫm là, cả Lý Thực lẫn những kẻ đã bị tru sát hẳn là đều đang hận trẫm…”
“Thần nghĩ cũng có thể.” Vương Thúc Văn cẩn thận lựa chọn từ ngữ.
“Khanh có nghĩ là do bọn chúng gây ra không?” Thuận Tông hỏi.
Thuận Tông muốn hỏi, với sự mặc định rằng ai cũng đã biết đến những chuyện kỳ quái xảy ra với mình, rằng có phải đó là do những kẻ bị giết chết hoặc bọn Lý Thực gây ra hay không.
“Phải chăng có kẻ nào đó trong bọn chúng đang nguyền rủa trẫm?” Thuận Tông nhắc lại.
“Đã lâu rồi mới diện kiến hoàng thượng…”
Đó là Huệ Quả, người từ nãy tới giờ chỉ im lặng nghe đoạn đối đáp giữa Thuận Tông và Vương Thúc Văn.
Huệ Quả tiến lên một bước.
“Thần là Huệ Quả.”
Huệ Quả cúi đầu.
“Ồ, Huệ Quả A-xà-lê đó ư?”
“Vâng.”
“Khanh đến đúng lúc lắm…”
Thuận Tông ngồi dậy trên ngự sàng. Lý Trung Ngôn ấn hai chiếc gối bọc lụa vào dưới lưng Thuận Tông.
Trong tư thế ấy, Thuận Tông nhìn quanh một lượt. Gương mặt mệt mỏi. Nửa thân trái bị liệt khiến cho biểu cảm trở nên cứng nhắc, bởi vì rất khó để cử động nửa bên mặt ấy. Thịt má teo tóp, sắc da nhợt nhạt, khô ráp. Tuy khoác trên mình bộ trang phục thêu kim tuyến lộng lẫy, nhưng càng lộng lẫy bao nhiêu, lại càng khiến cho vẻ thiếu sức sống nổi bật bấy nhiêu.
Không có tia sáng nào trong đôi mắt.
Nó khiến người ta phải tự hỏi khi vừa trông thấy: “Đây là hoàng đế ư?”
Sao lại tiều tụy đến vậy…
Người nằm đó chỉ là một bệnh nhân nhăn nheo sắp chết.
Mới hơn bốn mươi tuổi.
Tuổi già còn chưa tới vậy mà nhìn như một lão nhân.
“Huệ Quả à, ý khanh thế nào?” Thuận Tông hỏi.
❖ 8 ❖“Hoàng thượng muốn hỏi, chuyện này có phải do những kẻ ôm hận vì cuộc thanh trừng vừa rồi gây ra?” Huệ Quả hỏi lại Thuận Tông.
“Phải…”
“Không loại trừ khả năng đó, nhưng theo thần thì nguyên nhân có thể còn sâu xa hơn.”
“Khanh đã biết được gì chăng, Huệ Quả?”
Huệ Quả nhắm mắt lại với vẻ khó nhọc trước câu hỏi của Thuận Tông.
“Vâng…” Huệ Quả gật đầu, rồi mở mắt ra.
“Khanh biết những gì?”
“Việc đó thì…”
“Hãy nói đi.”
“Đây mới chỉ là suy đoán của thần, nói ra e sẽ khiến hoàng thượng thêm phiền lòng.”
“Suy đoán cũng được. Hãy nói đi. Vì đây là việc liên quan đến trẫm.” Thuận Tông ra lệnh bằng một giọng lắp bắp.
Cơ thể Thuận Tông khẽ run lên có lẽ vì phấn khích.
“Vâng lệnh bệ hạ. Thần sẽ nói. Thần biết hôm nay đến đây thì thế nào thần cũng phải tâu lên bệ hạ việc này. Nhưng trước đó, xin bệ hạ cho thần kiểm tra xem có phải bệ hạ bị trúng bùa thật không.”
“Được…”
“Nếu sau khi hạ thần kiểm tra mà không thấy, thì bệ hạ hãy coi đây chỉ là một câu chuyện vui.”
“Còn nếu đúng là có bùa chú?”
“Thì xin bệ hạ chuẩn bị tinh thần lắng nghe, vì đó là bí mật của Đại Đường này.”
“Bí mật?”
“Đúng vậy. Hạ thần vốn không phải kẻ biết hết mọi chuyện, nên lời kể có thể sẽ không hoàn toàn ăn khớp, nhưng hạ thần vẫn sẽ kể cho hoàng thượng nghe.”
“Còn có ai khác biết về chuyện đó nữa không? Thúc Văn à, khanh có biết không?” Thuận Tông đưa ánh mắt sang Vương Thúc Văn.
“Không thưa bệ hạ. Thần chưa từng nghe đến.” Vương Thúc Văn cúi đầu, trán lấm tấm mồ hôi.
“Câu chuyện này thần chưa từng kể cho ai nghe. Người duy nhất biết về nó là sư phụ của hạ thần, Bất Không A-xà-lê, nhưng thầy Bất Không và những người khác đều đã thành người thiên cổ cả rồi…”
“Là những ai?”
“Huyền Tông hoàng đế, ngài Triều Hành người nước Oa, ngài Cao Lực Sĩ…”
“Vậy ư…” Thuận Tông thốt lên.
“Vậy ư…” Thuận Tông lại thốt lên lần nữa.
Bởi đó là những cái tên mà Thuận Tông không ngờ tới.
“Chuyện xảy ra đã hơn năm mươi năm trước nên đúng ra thì tất cả đều đã thành cố nhân…”
“Đúng ra?”
“Vâng. Nhưng cũng có thể có người nào đó dính líu tới vụ việc ngày ấy còn sống và đang quấy rầy hoàng thượng…”
“Khanh muốn nói kẻ đó dùng bùa chú?”
“Chính đó là điều mà hạ thần muốn kiểm tra bây giờ.”
“Làm được không?”
“Được ạ.”
“Bằng cách nào?”
“Hoàng thưọng cho thần xin một sợi tóc.”
“Tóc của trẫm?”
“Đúng vậy.”
“Rồi khanh làm gì?”
“Tóc người phản ứng rất nhạy với bùa chú. Khi định bỏ bùa ai đó, nếu có được tóc của người ấy thì hiệu quả sẽ tăng lên gấp bội. Và ai đang bị bỏ bùa thì tác dụng của bùa chú nhất định sẽ biểu hiện trên tóc của người ấy. Chính vì thế nên thần mới xin phép được kiểm tra tóc của bệ hạ.”
“Ta cho phép. Khanh muốn lấy mười sợi hay hai mươi sợi cũng được. Tóc thì sẵn thôi.”
“Dạ.” Huệ Quả cúi đầu. “Thần lại gần hơn được không ạ?”
“Được.”
Sau khi được phép, Huệ Quả tiến đến mép giường của Thuận Tông, rồi dừng lại.
“Xin bệ hạ hãy đưa đầu về phía này.”
“Ờ.” Thuận Tông liền đưa đầu về phía Huệ Quả.
“Thần xin mạn phép.”
Huệ Quả đưa hai tay về phía đầu Thuận Tông, dùng tay trái giữ đầu, rồi lấy ngón trỏ và ngón cái của bàn tay phải nhón lấy một sợi tóc đen.