Chương XXIV Bức văn thứ hai
1
Không Hải và Dật Thế bước đi giữa những con phố Trường An đang mỗi ngày một lộng lẫy hơn. Họ đi đến nhà Liễu Tông Nguyên.
Lá liễu bắt đầu đơm ra những chồi xanh mềm mại, còn lâu mới đến mùa bão cát, nhưng lớp trang điểm của mùa xuân đã đậm dần trên từng cảnh sắc.
Hai người chẳng còn lạ lẫm với sự huyên náo của những con phố không chỉ nghe thấy tiếng Đường, mà còn cả những tiếng Hồ, tiếng Thổ Phồn nữa.
Trang phục của đàn ông, đàn bà đi lại trên phố cũng đã phảng phất hơi xuân. Còn có cả những phụ nữ vận y phục Hồ, xỏ giày Hồ đang là xu thế thời thượng lúc bấy giờ.
Tuy muộn nhưng xuân đã về.
“Lạ lùng thật đấy Không Hải ạ.” Vừa đi, Dật Thế vừa lẩm bẩm.
“Cái gì lạ lùng?” Không Hải hỏi.
“Rằng thì là ở xứ sở xa lạ này cũng có mùa xuân.”
Dật Thế vừa đưa mắt nhìn ra khung cảnh xung quanh vừa nói với giọng có phần hào hứng.
“Tối qua, nghe cậu đọc bức thư của A Bội Trọng Ma Lữ, tớ đã không ngăn nổi mình chặm tay lên khóe mắt. Ngài A Bội Trọng Ma Lữ đã buồn bã biết nhường nào? Giờ đây, khi đã rời xa đất nước ấy, tớ mới thật sự cảm thông với nỗi lòng của ngài ấy. Nhưng hẳn là mỗi độ xuân đến thế này, ngài ấy cũng cảm thấy được an ủi phải không.”
Dật Thế rầu rầu buông một tiếng thở dài.
Ừm.
Ừm.
Không Hải vừa bước đi vừa gật gù.
Bức thư A Bội Trọng Ma Lữ gửi cho Lý Bạch đang nằm trong bọc áo Không Hải.
“Nhưng Không Hải à, cậu nói đúng.”
“Đúng gì?”
“À thì về vụ việc tượng dõng ở ruộng bông của Từ Văn Cường và vụ việc con mèo ấy.”
“Sao nữa?”
“Cậu có nói, chỉ cần tập trung suy nghĩ xem tại sao bọn chúng lại cố tình làm những chuyện gây chú ý như thế là được, phải không nào?”
“À, té ra là chuyện đó.”
“Đúng như cậu nói còn gì?”
“Nhưng chính cậu mới là người phát hiện ra điều đó, Dật Thế ạ.”
“Không, chính là cậu, Không Hải ạ.”
“Ừm.”
“Theo cách nói của Đan Ông thì việc đó do Bạch Long làm nhằm mục đích dụ cho Đan Ông xuất đầu lộ diện, đúng không?”
“Đúng vậy.”
“Nhưng tại sao Bạch Long lại muốn dụ cho Đan Ông xuất đầu lộ diện?”
“Chà, cái đó cậu phải tự đi hỏi Đan Ông thôi.”
“Tất nhiên là như thế, chỉ có điều…”
“Làm sao?”
“Tớ vẫn lấn cấn.”
“Lấn cấn?”
“Ừ, lấn cấn.” Dật Thế gật đầu. “Mà này, cậu không đoán được điều đó à Không Hải?”
“Tớ không đoán được.”
“Đành chịu à.”
“Tớ không đoán được, nhưng bí mật ấy có lẽ nằm ở chỗ Dương Ngọc Hoàn, tức Quý phi.”
“Bí mật ấy là gì?”
“Tớ chịu.”
“Cậu có cần nói toẹt ra thế không?”
“Xin lỗi cậu.”
“Suốt từ đêm qua, tớ cứ thấy thương Quý phi đến đứt ruột.”
“Ừm.”
“Bị hoàng đế ép buộc lìa bỏ chồng mình, rồi phải lấy kẻ hơn cả tuổi cha mình làm chồng, và cuối cùng bị giết chết để cứu lấy tính mạng của chính kẻ ấy. Nếu thực tế đúng như những gì viết trong bức thư của ngài Triều Hành, thì may mắn là bà ta đã không chết, nhưng thay vào đó lại bị chôn sống dưới mộ, mặc dù rốt cuộc đã được đào lên, song đã hóa điên và giờ đang ở đâu, thế nào chẳng ai hay…”
“…”
“Thật đến là mệt.”
“Cậu sao thế?”
“Chẳng hiểu sao cứ sang xuân là tớ lại hay nghĩ đến những chuyện thế này.”
Không Hải và Dật Thế tiếp tục sánh bước.
“Nhưng liệu có ổn không?” Dật Thế hỏi.
“Cái gì cơ?” Không Hải hỏi lại.
“Bọn mình đến nhà Liễu Tông Nguyên tiên sinh trong lúc vẫn còn sớm thế này.”
“Có gì không ổn đâu.”
“Ngộ nhỡ ông ta còn đang ngủ, hoặc không có nhà thì sao?”
“Cậu nói đúng.”
“Thế sao cậu vẫn đi?”
“Vì tớ thấy lấn cấn với một số chuyện.”
“Chuyện gì?”
“Chẳng hạn như chuyện bức văn của ngài Triều Hành ở trong nhà Lý Hương Lan, tớ ngờ là chuyện ấy đã bị lộ ra với kẻ địch của Liễu tiên sinh.”
“Ừ.”
“Nhất cử nhất động của Liễu Tông Nguyên tiên sinh đều rất kín đáo, làm gì cũng không để kẻ khác biết được. Nhưng không chừng đã có nội gián. Nếu như vậy thì…”
“Thì sao?”
“Thì kẻ nội gián sẽ nắm được tin Không Hải muốn đến gặp Liễu tiên sinh nếu ta cho người báo trước, cũng như mọi đường đi nước bước của Liễu tiên sinh trong việc thu xếp một cuộc gặp bí mật.”
“Ừm.”
“Thành thử, ta cứ đến bất ngờ mà không báo trước thế này có khi lại vô sự.”
“Hóa ra là như vậy.”
“Nhưng cậu đừng nghĩ phức tạp quá. Thật ra thì chỉ vì tớ muốn thi thoảng lại được thả bộ một chút chứ không phải đi bằng xe ngựa qua những con phố này. Đó mới là lý do chính.” Không Hải nói.
“Ồ, Dật Thế này, trong lúc bọn mình mải chuyện thì nhà Liễu tiên sinh đã ở ngay kia rồi…”
❖ 2 ❖“Ồ… ồ…”
Từ đầu đến cuối chỉ lặng thinh nghe Không Hải kể, nhưng khi câu chuyện kết thúc, Liễu Tông Nguyên bất giác kêu lên gần như tiếng của một con thú.
“Không thể nào tin nổi những điều như vậy lại được viết trong bức văn của ngài Triều Hành…”
Liễu Tông Nguyên nắm chặt bàn tay, đặt lên trên mặt bàn và cắn môi.
Đó là căn phòng mà Liễu Tông Nguyên dùng làm thư khố. Các loại quyển trục chất cao như núi trên các giá sách xung quanh, mùi mực mới và mùi mực cũ hòa lẫn với mùi ấn thư tràn ngập khắp căn phòng.
Sau khi dẫn Không Hải và Dật Thế vào căn phòng này, Liễu Tông Nguyên tỏ ra rất vui mừng khi biết đã tìm thấy bức văn của A Bội Trọng Ma Lữ, hơn nữa còn được Không Hải mang đến.
Không Hải kể lại câu chuyện đêm qua, rồi bắt đầu đọc nội dung bức văn cho Liễu Tông Nguyên nghe theo như cái cách đã đọc cho Đan Ông.
Đó là lúc Không Hải vừa đọc xong bức văn.
“Quả là một câu chuyện ly kỳ, quái dị…” Liễu Tông Nguyên nói, giọng còn chưa hết hưng phấn. “Đây là điều bí mật nhất trong những điều bí mật của triều đình nhà Đường. Một câu chuyện hi hữu và không thể tiết lộ ra ngoài…”
“Phải.” Không Hải gật đầu.
“Nhưng bức văn đó liệu có đúng là thật không?”
“Tôi cho là không thể nhầm lẫn được. Bức văn được viết bằng chữ Đại Hòa, nếu không phải người nước tôi thì hiếm ai viết được như thế.”
“Hừm…”
“Mà Liễu tiên sinh này, có một việc tôi muốn hỏi ông…”
“Việc gì vậy thầy Không Hải?”
“Ông có được bức văn của ngài Triều Hành vào khi nào và bằng cách nào?”
Không Hải vừa dứt lời, Liễu Tông Nguyên bèn kêu lên: “Ồ, phải rồi, chính là việc đó.”
“Nhưng tôi còn có một chuyện nữa cần phải nói với thầy.” Liễu Tông Nguyên lại hạ thấp giọng, rướn người về phía trước.
“Chuyện gì vậy?”
“Có vẻ như ngài Triều Hành không chỉ để lại một bức văn ấy.”
“Tức là?”
“Còn có một bức văn khác nữa.”
“Có chuyện đó sao!”
“Nhưng trước tiên tôi cần phải bắt đầu bằng việc trả lời câu hỏi vừa rồi của thầy Không Hải rằng, tại sao tôi lại có được bức văn này…”
“Vâng.”
Ngay đến cả Không Hải cũng bất giác rướn người về phía trước vì vẻ mặt nghiêm trang của Liễu Tông Nguyên.
Ực! Có tiếng Dật Thế nuốt nước miếng.
❖ 3 ❖“Thật ra, bức văn này đã không được gửi cho ngài Lý Bạch.” Liễu Tông Nguyên nói bằng giọng thì thầm.
“Thật sao?”
“Thật vậy.”
“Vì sao!?”
“Thầy hãy xem ngày bức thư được viết…”
Liễu Tông Nguyên mở bức thư ra, chỉ vào dòng cuối cùng.
Phong kín mùa thu năm Bảo Ứng nguyên niên.
“Ồ…” Không Hải gật gù như vừa vỡ ra điều gì, rồi thốt lên khoái chí: “Hóa ra là như vậy.”
Dật Thế ngồi cạnh nghe thấy vậy thì nhìn Không Hải đầy vẻ bực bội.
“Này Không Hải, tớ chả hiểu gì cả.”
“Dật Thế à, cậu có biết Bảo Ứng nguyên niên là năm như thế nào không?”
“Bảo Ứng nguyên niên?”
“Đó là năm mà thái thượng hoàng Huyền Tông mất, đúng như những gì ngài Triều Hành đã viết. Và cũng là năm mất của ngài Cao Lực Sĩ.”
“Thế rồi Túc Tông hoàng đế cũng mất vào năm này.” Liễu Tông Nguyên bổ sung.
“Trời…”
Huyền Tông tạ thế vào năm Bảo ứng nguyên niên, nói cho chính xác hơn là vào ngày mùng năm tháng Tư năm Thượng Nguyên thứ ba. Tức năm 762 theo Tây lịch.
Do cái chết của Huyền Tông nên vào năm Thượng Nguyên thứ ba, niên hiệu được cải sang Bảo Ứng nguyên niên.
Chỉ mười ba ngày sau cái chết của Huyền Tông, tức ngày mười tám tháng Tư, con trai của Huyền Tông là Túc Tông băng hà; rồi sau đó hai hôm, tức ngày hai mươi tháng Tư, Cao Lực Sĩ cũng lìa đời.
“Còn nữa Dật Thế ạ. Ngài Lý Bạch, người mà ngài Triều Hành viết bức thư này cho, cũng mất đúng vào năm đó.”
“H… hả…” Dật Thế không tìm được lời nào thích hợp, miệng thì há hốc và mắt thì chớp liên hồi.
Quả vậy, Lý Bạch đã tạ thế ở đất Đương Đồ vào tháng Mười một năm Bảo Ứng nguyên niên.
Nghĩa là…
“Tóm lại thì chuyện là như vầy Dật Thế ạ. Ngài Triều Hành viết bức văn này sau khi thái thượng hoàng Huyền Tông, hoàng đế Túc Tông, rồi ngài Cao Lực Sĩ đã qua đời, tuy nhiên lúc ấy thì ngài Lý Bạch hẵng còn sống. Nhưng bức văn chưa kịp gửi đi thì ngài Lý Bạch cũng mất nốt, nên rốt cuộc ngài Triều Hành đành phải tự tay phong kín bức thư lại và cất đi…”
“Ra là vậy. Nhưng Không Hải này, nghe cách nói của cậu, tớ cảm thấy như thể có mối liên hệ nào đó giữa cái chết của thái thượng hoàng Huyền Tông, hoàng đế Túc Tông, ngài Cao Lực Sĩ và ngài Lý Bạch.”
“Tớ không nói là có.”
“Cậu cũng không nói là không.”
“Tớ chỉ đang đoán rằng có thể có mà thôi.”
“Mối liên hệ đó như thế nào?”
“Tớ chịu.”
Không Hải hơi gằm mặt xuống, nhìn Dật Thế.
Sau một lát đăm chiêu như suy nghĩ gì đó, Không Hải liền cất tiếng: “À, tớ nhớ ra rồi.”
“Gì vậy?”
“Nếu không nhầm thì nó xảy ra một năm sau khi thái thượng hoàng Huyền Tông qua đời.”
“Nhưng là cái gì mới được chứ?”
“Việc Sử Triều Nghĩa bị thuộc hạ của An Lộc Sơn là Lý Hoài Tiên giết chết.”
Nghe đến đó, Dật Thế liền hiểu ngay. Bởi số sách sử từng đọc đủ để Dật Thế hiểu được đó là chuyện gì.
Kẻ chủ mưu trong cuộc phản loạn khiến cho Dương quý phi phải chôn thây ở Mã Ngôi Dịch là An Lộc Sơn. Việc An Lộc Sơn định lập con trai của người thiếp trẻ Đoạn phu nhân là An Khánh Ân làm thái tử đã khiến người con cả An Khánh Tự sinh lòng oán hận, để rồi y bị chính An Khánh Tự giết chết. Vì giả rằng An Khánh Ân được lập làm thái tử, thì sau khi An Lộc Sơn chết, An Khánh Ân sẽ trở thành hoàng đế, lúc ấy mạng An Khánh Tự đâu thể giữ được nữa.
Nhưng rồi An Khánh Tự, một kẻ say xỉn tối ngày, lại bị võ tướng dưới trướng mình là Sử Tư Minh giết hại. Sử Tư Minh từng nổi lên thành một thế lực ghê gớm tưởng chừng như sắp đoạt được Lạc Dương, song lại bị chính con trai mình là Sử Triều Nghĩa giết chết, đến lượt Sử Triều Nghĩa lại bị thuộc hạ của An Lộc Sơn là Lý Hoài Tiên giết chết, nhờ đó, loạn An Sử cuối cùng cũng chấm dứt sau chín năm trời.
Kết cục là tự diệt.
Sự kiện đó xảy ra một năm sau cái chết của Huyền Tông, Cao Lực Sĩ, Túc Tông và Lý Bạch, tức năm Bảo Ứng thứ hai.
“Hừ… hừ…” Dật Thế bất giác cất tiếng như rên rỉ.
Còn Liễu Tông Nguyên thì thốt lên đầy cảm khái:
“Than ôi, thật là…”
“Thưa tiên sinh…” Không Hải quay sang Liễu Tông Nguyên, hỏi: “Chẳng hay ông có biết những chuyện xảy ra lúc thái thượng hoàng Huyền Tông mất hay không?”
“Chà, về chuyện đó thì tôi không biết. Tôi chỉ được nghe kể rằng có một kẻ là hoạn quan Lý Phụ Quốc không cho hoàng đế Túc Tông và thái thưọng hoàng Huyền Tông được gặp nhau, rồi ngài Cao Lực Sĩ bị đày đi Hồ Nam trước khi mất hai năm cũng chính là vì Lý Phụ Quốc.”
“Lý Phụ Quốc sao?”
“Nghe đâu tên hoạn quan đó đã cho chuyển thái thượng hoàng Huyền Tông từ Hưng Khánh Cung về Tây Nội. Rốt cuộc thái thượng hoàng đã chết ở Thần Long Cung.”
Khi ấy Huyền Tông đã bảy mươi tám tuổi.
“Hình như sau đó ngài Cao Lực Sĩ được ân xá nhưng đã mất trên đường trở về Trường An…?”
“Đúng vậy.” Liễu Tông Nguyên gật đầu, trong dạ lại càng thêm thán phục trước sự uyên bác của nhà sư ngoại quốc này.
Hai năm là quãng thời gian Cao Lực Sĩ phải rời xa thái thượng hoàng Huyền Tông. Nhưng rồi đây ông ta sẽ được gặp lại Huyền Tông. Xuất phát từ Vu Châu thuộc Hồ Nam, nơi bị lưu đày, với niềm háo hức, nhưng khi vừa đến Lang Châu thì nhận được cáo phó của Huyền Tông.
“Nghe tin thái thượng hoàng băng, liền khóc rống lên, thổ huyết mà chết.” Sách Tư trị thông giám chép về cái chết của Cao Lực Sĩ như vậy.
Cao Lực Sĩ nghe tin báo, liền ngóng về phương Bắc xa xôi, khóc rống lên, sau đó ho ra máu rồi chết. Đó là cái chết bi thống đến tráng lệ của một nhân vật đã từng cùng Huyền Tông nắm mọi quyền bính của triều đình trong tay.
Còn Cao Lực Sĩ truyện chép về sự việc này như sau: “Cao Lực Sĩ rời Vu Châu vào tháng Bảy, đến được Lang Châu, sang tháng Tám bệnh tình đã tới chỗ cùng, bèn nói với tả hữu: ‘Ta năm nay đã bảy mươi chín. Có thể coi là thọ. Làm quan cũng tới khai phủ nghi đồng tam ty*. Có thể coi là quý. Quý, thọ đã đủ, dẫu chết cũng không có gì oán hận…’ ”
(*) Chỉ chức quan cao nhất trong hệ thống quan giai của triều đình Trung Quốc cổ đại.
Đây dường như là một ghi chép chân thật về cái chết của Cao Lực Sĩ.
Cao Lực Sĩ trong lúc bị lưu đày ở Vu Châu đã làm một bài thơ.
Lưỡng kinh tác cần mại,
Ngũ khê vô nhân thái.
Di Hạ tuy bất đồng,
Khí vị chung bất cải.
(Dịch thơ:
Hai kinh, rau cần quý,
Ngũ khê, bị bỏ không.
Di, Hạ tuy bất đồng,
Chẳng khác nhau mùi vị.*)
(*) Bài thơ này Cao Lực Sĩ muốn nói về thân phận của mình khi bị đi đày. Giống như rau cần, ở kinh đô thì được coi trọng, nhưng về vùng hẻo lánh (ngũ khê) thì chẳng ai màng tới.
“Ồ, hóa ra ngài Cao Lực Sĩ đã làm một bài thơ như thế…” Không Hải cất tiếng.
Quả thật, ngay cả Không Hải cũng chưa từng biết tới bài thơ này, bài thơ mà Cao Lực Sĩ đã làm với niềm thương nhớ kinh đô.
Trong lúc kể về cái chết của Cao Lực Sĩ, Liễu Tông Nguyên chợt nhớ đến bài thơ nên đã đọc cho Không Hải và Dật Thế nghe.
“Bài thơ không hẳn là xuất sắc, nhưng có thể cảm nhận được sự thuần phác trong đó.” Liễu Tông Nguyên nói.
“Nhân chuyện này xin Liễu tiên sinh cho hỏi…” Không Hải nói với Liễu Tông Nguyên.
“Việc gì thưa thầy?”
“Tiên sinh có biết người nào tỏ tường về cái chết của thái thượng hoàng Huyền Tông và hoàng đế Túc Tông hay không? Nếu được, tôi muốn hỏi kỹ thêm sự tình.”
“Quả nhiên là thầy đang nghi ngờ điều gì đó?”
“Hiện giờ thì tôi chưa thể nói ra, nhưng đúng là tôi đang có chút băn khoăn.”
“Tôi hiểu rồi. Vậy tôi sẽ tìm kiếm xem có ai phù hợp không.”
“Tôi xin nhờ cậy cả vào tiên sinh.”
“Thế còn về ngài Cao Lực Sĩ và ngài Lý Bạch thì sao?”
“Nếu như tiên sinh có manh mối gì…”
“Tôi có người quen ở nhiều nơi, để tôi biên thư hỏi họ xem sao.”
Suốt từ nãy tới giờ chỉ im lặng lắng nghe câu chuyện giữa Liễu Tông Nguyên và Không Hải, đến đây thì Dật Thế bỗng buông tiếng thở dài.
“Không Hải à, tớ cảm thấy vụ việc này có rất nhiều uẩn khúc. Dĩ nhiên ngay từ đầu tớ đã không nghĩ rằng mình có thể làm được gì đó, nhưng đến nước này thì quả là đã vượt quá khả năng của một kẻ như tớ rồi.” Dật Thế nói bằng một giọng đầy vẻ khiêm nhường.
“Ngay đến tớ cũng còn chẳng biết mình sẽ đương đầu được đến đâu trong vụ việc này Dật Thế ạ.”
Không Hải nói với Dật Thế, rồi lại quay sang Liễu Tông Nguyên.
“Việc đó hẵng tạm như vậy đã, xin Liễu tiên sinh tiếp tục câu chuyện được chứ?”
“Chuyện gì thưa thầy?”
“Chuyện về bức văn của ngài Triều Hành, bằng cách nào mà nó lại đến được tay Liễu tiên sinh đó ạ…”
“À, phải rồi. Chuyện đó vẫn chưa xong nhỉ.”
“Xin tiên sinh tiếp tục.”
“Tôi kể đến đâu rồi?”
“Tiên sinh đã kể đến đoạn còn một bức văn khác nữa…”
“Ờ, đúng rồi…”
Nói đoạn, Liễu Tông Nguyên nhoài người ra trước.
❖ 4 ❖Sau đó Liễu Tông Nguyên sửa lại tư thế, ưỡn thẳng lưng, nói:
“Chẳng là ngài Triều Hành có một người thân mà người này lại là họ hàng bên đằng ngoại tôi.”
Hai gò má Liễu Tông Nguyên đanh lại.
Dật Thế thấy vậy cũng chỉnh lại dáng ngồi, ưỡn thẳng lưng.
Chỉ có Không Hải là vẫn ở yên như vậy. Vì ngay từ đầu, Không Hải đã ngồi ở tư thế tự nhiên, lưng luôn giữ thẳng.
Lúc này, trời đã quá trưa.
“Người này tên là Bạch Linh. Nghe nói, bà ấy đã chăm lo rất nhiều cho cuộc sống của ngài Triều Hành.”
“Nghĩa là ngài Triều Hành có một người phụ nữ ở bên để chăm lo cho cuộc sống của mình!”
“Theo tôi hiểu thì là như vậy.”
“Chuyện tiếp theo thế nào ạ?”
“Bà Bạch Linh trẻ hơn ngài Triều Hành chừng mười tuổi. Bà ấy đã ở bên khi ngài Triều Hành tạ thế vào năm Đại Lịch thứ năm (năm 770).”
“Vâng.” Không Hải gật đầu như thể đang hối thúc.
“Sau khi ngài Triều Hành mất, bà Bạch Linh đã dọn bỏ rất nhiều đồ đạc của người quá cố. Bà chỉ để lại một vài món muốn giữ làm kỷ vật, còn thì hầu hết, bao gồm cả ngôi nhà lẫn những đồ trang trí bên trong, đều đã vào tay người khác.”
“…”
“Những món mà bà Bạch Linh giữ lại đều là các bức văn do ngài Triều Hành viết cùng các loại thư tịch. Trong số đó có…”
Liễu Tông Nguyên vừa nói đến đó thì Không Hải cắt lời:
“Có bức văn mà ngài Triều Hành viết bằng tiếng nước Oa đề gửi cho ngài Lý Bạch, phải vậy không?”
“Đúng như vậy. Nhưng không chỉ có vậy.”
“Tức là?”
“Nghe nói không chỉ có một bức này, mà còn một bức khác nữa.”
“Sao lại nghe nói, thưa tiên sinh?”
“Vì mẹ tôi đã nói lại với tôi như vậy.”
“Tiên sinh có thể giải thích kỹ hơn được không ạ?”
“Được chứ. Để tôi kể cho có tuần tự thì thầy sẽ dễ hiểu hơn.”
Liễu Tông Nguyên lại nhoài người về trước, nhìn Không Hải.
“Sau khi ngài Triều Hành mất, bà Bạch Linh đã nương cậy nhà mẹ tôi.”
“Ra là vậy.”
“Bà Bạch Linh chẳng bao giờ hé miệng về ngài Triều Hành, nhưng vào ngày nọ, có lẽ là một lần cao hứng hiếm hoi, bà Bạch Linh đã kể hết về ngài Triều Hành với mẹ tôi, khi ấy hẵng còn trẻ.”
“Vâng.”
“Nghe nói bà Bạch Linh quen biết ngài Triều Hành chính trong cái lần ngài Triều Hành cùng thái thượng hoàng Huyền Tông lánh về đất Thục hầu tránh nạn An Sử. Rồi đương khi kể chuyện, không hiểu sao bà Bạch Linh lại đột nhiên đem các bức văn và sách vở của ngài Triều Hành mà bà vẫn giấu kín với mọi người cho mẹ tôi xem.”
“Những món đó vẫn còn cả chứ ạ?” Người hỏi là Dật Thế.
“Tôi nghĩ nó vẫn đang ở nhà mẹ tôi. Vì tôi tìm thấy bức văn viết bằng tiếng nước Oa này trong đống giấy tờ, sách vở đó mà.”
“Nếu có dịp, rất mong tiên sinh cho phép chúng tôi được xem qua.” Dật Thế ngỏ lời, không giấu nổi vẻ hiếu kỳ.
“Không Hải nhỉ…” Dật Thế nhìn sang Không Hải như để tìm sự đồng tình.
“Phải đấy…” Không Hải hưởng ứng một cách ngắn gọn.
“Thân mẫu tiên sinh đã trông thấy bức văn này vào cái lần mà bà Bạch Linh đưa cho xem các kỷ vật của ngài Triều Hành, phải vậy không?”
“Đúng vậy. Bà Bạch Linh đưa ra rồi giảng giải về từng món một, cuối cùng mới lấy bức văn này ra và bảo, còn đây là cái gì thì chính tôi cũng không hiểu.”
“Không hiểu?”
“Có lẽ bà Bạch Linh muốn nói rằng bà không hiểu bức văn viết những gì…”
“Như vậy thì phải chăng ngay cả việc bức văn được viết bằng tiếng nước Oa, bà Bạch Linh cũng không biết?”
“Tôi không rõ. Không biết là bà Bạch Linh hoàn toàn không hiểu gì, hay bà ấy có hiểu chút ít…”
“Thân mẫu tiên sinh nhận định thế nào?”
“Mẹ tôi bảo bà ấy không đọc được, nhưng cũng không hẳn là không đọc được một chút nào.”
“Vì sao?”
“Vì lúc cho mẹ tôi xem, bà Bạch Linh có nói một câu.”
“Bà ấy nói sao?”
“Thực tế là mẹ tôi đã tự tay cầm lấy và mở ra xem, thì thấy bên trong toàn là chữ nước Oa. Tất nhiên là mẹ tôi không hiểu gì, nhưng có thể đọc được một vài chữ.”
“Chữ gì?”
“Những chữ là tên người hoặc địa danh như Dương Ngọc Hoàn, Huyền Tông hoàng đế, Trường An chẳng hạn.”
“À…”
“Mẹ tôi bảo nhờ vậy mà bà hiểu được bức thư viết về những người này, nhưng không hiểu nó viết gì về họ.”
Ánh mắt Liễu Tông Nguyên nhìn ra xa xăm như đang nhớ lại cuộc trò chuyện khi ấy.
“Nhưng mẹ tôi kể bà Bạch Linh có nói một câu.”
“Vâng.”
“Mẹ tôi kể với tôi rằng bà Bạch Linh đã nói thế này…” Liễu Tông Nguyên nói đến đó thì dừng lại, nhìn Không Hải và Dật Thế, rồi tiếp tục bằng một giọng điệu như cố bắt chước mẹ mình khi ấy. “Ta không biết nội dung của nó viết gì, ngoại trừ một điều…”
“Mẹ tôi hỏi đó là điều gì thì bà Bạch Linh nhìn mẹ tôi với vẻ trang nghiêm…” Nói đến đây, Liễu Tông Nguyên liền đặt hai bàn tay lên đầu gối, “Đây là bức thư ngài Triều Hành viết về người đàn bà mà ngài đã dành trọn trái tim mình một lần và duy nhất trong đời.” Liễu Tông Nguyên giả giọng nữ.
“Người đàn bà ngài đã dành trọn trái tim?”
“Phải.”
“Nhưng trong bức thư đó chỉ xuất hiện một người đàn bà duy nhất…” Dật Thế rón rén xen vào.
“Là Dương Ngọc Hoàn…” Không Hải nói toạc ra cái tên ấy.
“Đúng vậy. Chính là Dương quý phi.” Liễu Tông Nguyên xác nhận.
“Người đàn bà mà ngài Triều Hành đã dành trọn trái tim mình một lần và duy nhất trong đời là Dương quý phi…” Dật Thế hỏi lại.
“Ý của bà Bạch Linh là như thế.” Liễu Tông Nguyên đáp, rồi mím chặt môi.
Phù, Dật Thế trút ra một tiếng thở dài.
“Ta biết điều đó, vì ta cũng là đàn bà. Bà Bạch Linh đã nói như vậy…” Liễu Tông Nguyên thêm vào.
“Nhưng điều đó không thật rõ ràng trong bức thư mà chúng ta đã đọc…” Không Hải nói.
“Tôi đã nói rằng còn một bức văn nữa, thầy nhớ chứ?”
“Chuyện là như thế nào?”
“Mẹ tôi kể đã nhìn thấy hai bức văn trong quyển trục mà bà Bạch Linh đưa cho xem lúc ấy.”
“Trời…” Dật Thế thốt lên.
“Vậy thì bức văn còn lại đang ở đâu?” Không Hải hỏi.
“Tôi không biết.”
“Tiên sinh nói không biết?”
“Phải.”
“Thế còn bức này, bằng cách nào tiên sinh có được nó?”
“Khi bà Bạch Linh mất, mọi di vật của bà đều được để lại ở nhà mẹ tôi. Nhưng trong các bức văn của ngài Triều Hành, mẹ tôi chỉ giữ được bức này, còn bức kia thì không sao tìm thấy.”
“Tại sao vậy?”
“Có thể trong lúc lộn xộn nó đã bị thất lạc, hoặc vẫn nằm ở đâu đó trong nhà…”
“Hay là khi còn sống, bà Bạch Linh đã đưa nó cho ai, hoặc hủy đi rồi…”
“Hủy đi?”
“Như đốt bỏ chẳng hạn…”
“Đốt bỏ?”
“Việc đốt bỏ bức thư của người có thể coi là chồng mình viết về một người đàn bà khác mà người ấy đem lòng yêu thương là chuyện hoàn toàn có thể…”
“Cũng có thể nghĩ đến khả năng đó.” Liễu Tông Nguyên gật gù.
“Hoặc giả nó đã bị đánh cắp…” Không Hải thêm vào.
“Nhưng suy luận mãi thì cũng chẳng đi đến đâu. Để tôi biên thư về nhờ mẹ tôi tìm kỹ lại lần nữa xem sao.”
“Thế là thân mẫu tiên sinh vẫn còn khỏe phải không ạ?”
“Vâng. Tuy không còn được như trước, nhưng vẫn đi đây đi đó tốt.”
“Bà năm nay bao nhiêu tuổi rồi?”
“Có lẽ đã năm mươi bảy rồi.”
“Trong trường hợp cần thiết, tôi có thể gặp thân mẫu tiên sinh để hỏi chuyện được chăng?”
“Nếu cần thì bất cứ lúc nào tôi cũng có thể thu xếp được.”
“Nếu thân mẫu tiên sinh không tìm ra, khi ấy tôi sẽ cậy đến tiên sinh…” Không Hải nói.
“Vâng, chắc chắn là được.” Liễu Tông Nguyên gật đầu một cách cả quyết.