Chương XXVII Hồ thuật
1
Trường An đang độ giữa xuân.
Vào thời gian này ở thành Trường An, tâm trạng ai cũng phơi phới.
Mẫu đơn ở các địa điểm nổi tiếng về mẫu đơn, trong đó có Tây Minh Tự nơi Không Hải tá túc, đang kỳ nở rộ.
Người người rủ nhau cùng tới những vườn hoa đang nở, nếu nay là Tây Minh Tự, thì mai sẽ là Đại Hưng Thiền Tự. Trang phục của những người đi ngắm hoa cũng nhẹ nhàng và nhiều màu sắc hơn so với ngày thường.
Có những phụ nữ chẳng phải người Tây vực nhưng lại xỏ giày cao cổ, bận áo quần kiểu Tây vực, đi lại trên phố lớn.
Việc người Hán ăn mặc và dùng các đồ trang sức theo lối Ba Tư rất thịnh hành thời bấy giờ. Đó được coi là một phong cách tân kỳ.
Không Hải và Quất Dật Thế đang len lỏi giữa đám người như vậy.
Đến một người dễ buồn như Dật Thế cũng trở nên cao hứng khi đi giữa những khu phố phồn hoa cùng Không Hải.
“Này Không Hải, bọn mình đang ở Trường An phải không?” Dật Thế lẩm bẩm như thể đến lúc này mới nhận ra.
“So với quang cảnh này, tuy cùng là kinh đô, song kinh đô của Oa quốc chẳng khác nào chốn thôn quê.” Giọng Dật Thế như thể đã trở lại tâm trạng trước đó.
Không Hải và Dật Thế vừa rời khỏi Diên Khang Phường nơi có Tây Minh Tự và đang hướng về chợ Tây. Họ đi gặp Liễu Tông Nguyên.
Bảy ngày trước Lưu Vũ Tích tới tìm Không Hải, đem theo bức thư của Liễu Tông Nguyên nói muốn gặp Không Hải vào buổi tối bảy ngày sau. Thư chỉ hỏi Không Hải có thời gian vào buổi tối bảy ngày sau đó không, còn địa điểm sẽ thông báo sau. Không Hải đồng ý. Thế rồi ba hôm trước ngày hẹn thì có thông báo về địa điểm. Lưu Vũ Tích lại mang thư của Liễu Tông Nguyên tới. Thư nói muốn gặp vào ban ngày chứ không phải buổi tối nữa. Nếu gặp vào buổi tối thì phải sau khi mộ cổ gióng lên. Nhưng khi mộ cổ chấm dứt, cổng phường sẽ đóng lại. Nếu vậy thì sẽ không thể đi từ phường này sang phường khác được. Việc di chuyển phải thực hiện trước khi cổng phường đóng, và như thế thì một trong hai bên hoặc cả hai bên đều phải di chuyển vào ban ngày.
Liễu Tông Nguyên rất bận, vì vậy chắc chắn Không Hải sẽ phải đi đến phường của Liễu Tông Nguyên, nhưng như thế thì sau khi gặp nhau Không Hải sẽ không về kịp. Liễu Tông Nguyên sẽ phải thu xếp chỗ nghỉ lại cho Không Hải. Tuy nhiên, Liễu Tông Nguyên vẫn còn đang giữ kín sự việc này, tức việc gặp gỡ Không Hải để trao đổi về bức thư của Triều Hành, với Vương Thúc Văn. Vì rất có thể chính Vương Thúc Văn là người đã đánh cắp bức thư mà Liễu Tông Nguyên giữ trước đó.
Nếu gặp Không Hải xong rồi lại phải chuẩn bị nơi ăn chốn ngủ cho Không Hải thì Liễu Tông Nguyên sẽ phải giải trình với Vương Thúc Văn về việc tại sao lại phải làm vậy trong lúc bận bịu thế này. Việc giữ kín câu chuyện liên quan đến bức thư là bắt buộc nên Liễu Tông Nguyên sẽ phải nói dối Vương Thúc Văn rằng mình đã gặp Không Hải vì một chuyện khác. Hoặc không thì phải hoàn toàn giữ kín cuộc gặp với Không Hải và Dật Thế.
Nhưng rất khó để hành động một cách bí mật ở phường của Liễu Tông Nguyên. Bởi lẽ có nhiều người biết mặt Liễu Tông Nguyên ở đó. Thành thử mới phát sinh yêu cầu phải gặp nhau ở một phường khác. Nhưng nếu vậy thì tới lượt Liễu Tông Nguyên không thể về kịp. Do đó mới đi đến quyết định gặp nhau vào ban ngày.
Hơn nữa, trong thư Liễu Tông Nguyên cũng viết rằng tối hôm đó ông ta có việc gấp. Nhưng vì đã hẹn với Không Hải rồi nên mới cố gắng sắp xếp thời gian để có thể gặp vào ban ngày.
Với tình cảnh hiện nay của Liễu Tông Nguyên, nếu không gặp Không Hải lần này thì chưa biết đến bao giờ mới gặp lại được.
Địa điểm hẹn gặp là chợ Tây. Tuy cách xa phường của Liễu Tông Nguyên, nhưng như thế lại tốt. Chợ Tây có đông người, đông người thì Liễu Tông Nguyên không dễ bị nhận ra.
Liễu Tông Nguyên viết trong thư: Vào khoảng giờ Ngọ, thầy cứ quanh quẩn ở khu vực trung tâm chợ Tây, tôi sẽ đánh tiếng với thầy.
Vậy thì nhân tiện ta nên đi sớm một chút, vì cũng lâu rồi chưa ghé qua cửa hàng của Mohammed, Không Hải bảo Dật Thế như vậy, rồi hai người sớm rời khỏi Tây Minh Tự.
Bên ngoài trời đã sáng. Ánh dương chiếu chan hòa. Lá hòe non mọc hai bên đường rót xuống thành những cái bóng thật đẹp.
Dật Thế lâu rồi mới thấy phởn phơ như vậy.
“Quả tình là không nên suốt ngày ngồi lì ở trong phòng. Vì như thế thì chỉ phí thời gian mà thôi.”
Dật Thế đảo mắt nhìn quanh và nói với Không Hải.
“Chắc là Liễu tiên sinh phải bận lắm. Ngọc thể của hoàng đế đã không được tốt, lại thêm bị chuốc bùa phép nữa…”
“Suỵt!” Không Hải nhắc nhở Dật Thế vì đột nhiên cậu ta nói to tướng lên. “Những chuyện như thế, cậu đừng có nói với giọng như thế chứ.”
“Tại sao?”
“Nhỡ đâu có người nghe thấy, mà người đó lại là một chức dịch thì sẽ rất phiền hà.”
Nghe Không Hải nói vậy, Dật Thế liền cười khanh khách.
“Không sao đâu. Việc đó thì tớ nằm lòng rồi.” Cậu ta hạ giọng.
“Không Hải này.” Dật Thế ghé sát người vào Không Hải, giọng thì thầm. “Bây giờ trong cung đang gay go lắm hả?”
“Ừ.” Không Hải gật đầu.
Dật Thế đang nhắc đến nội dung bức thư của Phụng Minh ở Thanh Long Tự gửi đến vào hôm qua. Đó là thư hồi âm của Phụng Minh. Vì mấy hôm trước, Không Hải sai Đại Hầu đem thư cho Phụng Minh ý hỏi rằng, nay tôi muốn tới Thanh Long Tự gặp Huệ Quả A-xà-lê, chẳng hay nên làm thế nào cho phải?
Thư viết rằng, Huệ Quả A-xà-lê hiện đang không ở chùa, với nét chữ tỉ mỉ đúng kiểu Phụng Minh.
Ngoài ra, thư còn viết: “Chưa biết lúc nào thì ngài quay về.” Phụng Minh cũng nói, không thể tiết lộ Huệ Quả A-xà-lê đã đi đâu, nhưng khi nào ngài quay về, anh ta sẽ dạm hỏi ngài về việc của Không Hải.
Dật Thế cũng được đọc bức thư đó.
Huệ Quả không ở chùa.
Nhưng không thể nói là đi đâu.
Chính điều này, ngược lại, là cách Phụng Minh tiết lộ về việc Huệ Quả đang đi đâu. Câu chữ ấy cho thấy, Phụng Minh hiểu rõ Không Hải đang nghĩ gì. Hơn nữa, khi nói rằng: chưa biết lúc nào thì ngài quay về, tức là Phụng Minh muốn ám chỉ: việc vẫn chưa xong.
Huệ Quả vào cung để đối phó với thứ bùa phép đang ám lấy hoàng đế.
Ông đi từ bấy vẫn chưa về.
Và nếu không biết lúc nào ông có thể quay về thì nghĩa rằng thứ bùa chú đang ám lấy hoàng đế là thứ bùa chú có sức mạnh khôn lường.
Nói về chú pháp, thì trái tim của Mật giáo, tức Huệ Quả của Thanh Long Tự, thuộc vào hàng không nhất cũng nhì ở Trường An này. Nhưng ngay cả Huệ Quả cũng chưa thể giải quyết dứt điểm được thứ bùa chú ấy…
Nhân vì việc đó nên Dật Thế mới hỏi: Bây giờ trong cung đang gay go lắm hả?
“Ừ.” Không Hải gật đầu.
Kết thư, Phụng Minh viết, nếu muốn gặp Huệ Quả A-xà-lê thì thầy phải mau lên.
Từ lời lẽ ấy có thể suy ra, không chỉ hoàng đế, mà ngay cả Huệ Quả cũng chẳng mấy sung sức nữa.
“Phải mau lên!”
Phụng Minh đã nhắn nhủ Không Hải như thế.
“Có thể Huệ Quả A-xà-lê sẽ tổn thọ vì cuộc đấu pháp thuật này.” Không Hải nói.
Dù thắng hay thua trước pháp thuật của đối thủ thì khi cuộc đấu kết thúc, Huệ Quả cũng sẽ phải chịu tổn thất ghê gớm cả về tinh thần lẫn thể xác.
Khi dùng bùa chú để rút ngắn sự sống của người khác, bản thân kẻ dùng bùa chú cũng tự bào mòn đi sức sống của mình. Tương tự như vậy, kẻ dùng bùa chú để đáp trả cũng tự bào mòn đi sức sống của mình. Xét trên một khía cạnh nào đó, cuộc chiến giết người và cứu người bằng bùa chú chính là một cuộc đua sinh lực.
Huệ Quả còn bao nhiêu sinh lực cho cuộc đấu này?
Tự khi nào, hai người đã đi vào giữa bầu không khí huyên náo của chợ Tây.
Người ta bán những chiếc giỏ đan bằng tre.
Vải
Lụa
Thịt, rau và quả khô
Nguôi ta bán cả cá, cả bình vại, nồi niêu.
Có thể nói, không thứ gì mua được ở Đường mà ở đây không bán.
Bút lông, nghiên, mực
Giấy
Gà còn sống
Ngựa
Cừu
Bò
Tất cả mọi thứ trên đời đều được mua và bán ở đây.
Chén, bát lưu li được mang tới từ Tây Vực.
Đồ trang trí.
Có cả thảm và giày cao cổ.
Tiếng rao của người bán, tiếng ngã giá của kẻ mua náo nhiệt.
“Chợ có vẻ như sôi động hơn hẳn trước đây thì phải.” Dật Thế nói.
Quả đúng như lời Dật Thế.
Sau khi hoàng đế mới lên ngôi, thực quyền chính trị về tay Vương Thúc Văn, chợ đã hồi sinh. Bởi lẽ bọn ngũ phường tiểu nhi thao túng mọi lợi ích ở chợ trước đây đã bị tống khứ bởi tay Vương Thúc Văn.
Ở quảng trường có một đám đông.
“Cái gì thế nhỉ?”
Dật Thế rẽ đám đông, nhòm vào bên trong thì thấy một người diễn trò phun lửa đang được xung quanh tán thưởng. Người này ngậm dầu trong miệng, vừa phun phì phì vừa cầm mồi lửa châm vào. Thế là ngọn lửa nom như đang phun mạnh từ trong miệng ra.
“Này Dật Thế.” Không Hải gọi Dật Thế từ đằng sau.
“Gì vậy, Không Hải?”
“Cậu nhìn kìa.”
Dật Thế nhìn theo hướng Không Hải chỉ tay thì thấy một đám đông khác.
Có tiếng vỗ tay và giọng con gái yêu kiều vang lên từ giữa đám đông ấy, có cả âm thanh của đàn dây Tây vực.
“Là Hồ tuyền vũ.” Không Hải nói.
Ở giữa vòng vây của đám đông có ba cô gái đang nhảy theo điệu múa Hồ. Đúng như tên gọi, Hồ tuyền vũ là điệu múa xoay tít chẳng hề ngừng lấy một chốc. Đó là điệu múa Ba Tư.
Cả ba cô gái đang nhảy cũng là người Hồ với đôi mắt xanh.
“Đó chẳng phải là mấy cô con gái của Mohammed sao?” Dật Thế nói.
“Ừ, đúng rồi.” Không Hải đáp.
Đó là ba cô con gái của Mohammed, bán vò và bình đựng nước Ba Tư ở chợ Tây này.
Trisnai
Tursungri
Griteken
Họ đều đã biết Không Hải và Dật Thế.
Không Hải và Dật Thế nhập vào đám đông, cùng ngắm điệu múa của ba cô gái.
Các cô gái mặc áo màu đỏ, xanh, vàng, vạt áo phất lên phất xuống theo động tác múa.
Những ai đã quen với các động tác múa của Nhật Bản sẽ không khỏi bị chóng mặt. Điệu múa kết thúc, tiền được đám đông ném về phía các cô gái. Một người Hồ nãy giờ vẫn đang chơi đàn cúi xuống nhặt tiền.
Griteken đang ban phát cho đám đông những nụ cười rạng rỡ thì nhận ra sự xuất hiện của bọn Không Hải.
“Ô kìa, thầy Không Hải.”
Griteken nhảy tưng tưng như một quả bóng và chạy về phía Không Hải.
“Thầy Không Hải.”
Griteken nắm lấy cánh tay Không Hải.
Tuy nhận ra sau nhưng Trisnai và Tursungri cũng kịp chạy đến trước mặt hai người.
“Thầy đến từ lúc nào thế?”
“Thầy thật là, lần nào cũng đường đột.”
Tursungri và Trisnai nói.
“Tôi đến chợ Tây có việc, nhưng vì vẫn còn sớm nên muốn ghé thăm cha các cô.”
“Vậy là thầy sẽ tới cửa hàng của cha bây giờ?” Trisnai hỏi.
“Phải rồi.”
“Bọn tôi cũng vừa mới xong một màn múa. Bọn tôi sẽ đi cùng thầy.” Griteken kéo tay áo Không Hải.
Nói là đi cùng chứ cửa hàng của Mohammed cách đó cũng chẳng bao xa.
“À mà nhắc đến mới nhớ, cha đang mong gặp thầy Không Hải lắm.” Trisnai nói.
“Cha các cô muốn gặp tôi?”
“Vâng ạ.”
“Có việc gì thế?”
“Cha không nói là việc gì, nhưng có lẽ là việc ấy.” Trisnai đáp.
Việc ấy, tức là…
“Karapan phải không?” Không Hải hỏi.
“Tôi nghĩ có lẽ là thế.”
Vừa trò chuyện, năm người vừa bước về phía cửa hàng của Mohammed.
Mohammed đứng ngay trước cửa.
Griteken chạy về phía đó.
“Cha!” Cô cất tiếng gọi. “Thầy Không Hải đến đây này.”
Mohammed nhận ra Không Hải và Dật Thế.
“Ồ, xem ai đến thế này…” Anh ta dang rộng hai tay và tiến lại. “Mừng các cậu đến chơi.”
“Chúng tôi đến thăm anh đây.”
Nghe Không Hải nói vậy, Mohammed liền nói tiếp: “Thật là vừa khéo. Đúng lúc tôi đang mong gặp cậu Không Hải.”
❖ 2 ❖Không Hải và Dật Thế đang ngồi đối diện Mohammed. Họ ngồi trong góc chiếc lều được dựng lên làm cửa hàng. Dưới sàn trải thảm. Họ ngồi trên thảm.
Trước mặt ba người là ba chiếc chén đã rót đầy trà và đang bốc khói. Xung quanh họ là vô số những chiếc vò và bình đựng nước. Phần lớn là những chiếc vò và bình xanh bóng tuyệt đẹp.
Tiếng xe hàng và tiếng chân người qua lại.
Thậm chí cả những tiếng nói chuyện và tiếng gia súc ở bên ngoài cũng vang vào tận trong lều.
Mohammed có gương mặt điển hình của người Hồ. Sống mũi cao và thẳng. Bộ râu cằm đã điểm bạc. Đôi con ngươi ẩn dưới hốc mắt sâu pha màu xanh biếc.
“Náo nhiệt thật đấy.” Không Hải nói.
“Chỉ cần cái bọn nhiễu nhương ấy không xuất hiện là chúng tôi đã cảm thấy may mắn lắm rồi.” Mohammed đáp.
Bọn nhiễu nhương mà anh ta nói đến tất nhiên là để chỉ bọn ngũ phường tiểu nhi.
“Chẳng biết người Đường nghĩ thế nào chứ bọn chúng tôi thấy hoàng đế mới thật là tốt.” Mohammed nói thẳng ra suy nghĩ của mình.
“Vâng.” Không Hải gật đầu.
Rồi Mohammed quay sang Không Hải, nói với vẻ mặt nghiêm túc: “Như lúc đầu đã trao đổi, tôi muốn nói với cậu một chuyện.”
“Chuyện gì vậy anh?”
“Chuyện về karapan.”
“Tôi cũng đoán là như vậy. Anh đã phát hiện được thêm điều gì rồi à?”
“Phải.” Mohammed gật đầu, rồi tiếp: “Cũng không có gì to tát để gọi là phát hiện, nhưng dường như có điều gì đó rất lạ đang diễn ra.”
“Điều gì đó rất lạ?”
“Phải. Tôi nghe nói karapan đang thu mua những thứ khác thường.”
“Những thứ khác thường ấy là gì?” Không Hải hỏi.
“Các con vật.”
“Các con vật?”
“Sâu bọ, rắn, ếch…”
“…”
“Rồi cả chó, mèo, chuột…”
Vừa nói, Mohammed vừa nhăn mặt như thể những từ ngữ mà mình phát ra khiến miệng mình vấy bẩn.
❖ 3 ❖“Chuyện này diễn ra đã được nửa tháng nay…”
Mohammed mở đầu như thế rồi đi vào câu chuyện.
Karapan là từ để chỉ các pháp sư phù thủy ở Ba Tư. Nhiều tín ngưỡng bản địa hay tà giáo tồn tại trong dân gian từ trước khi Bái Hỏa giáo trở nên phổ biến đều có nguồn gốc từ đây.
Người Ba Tư, hay nói cho dễ hiểu hơn là người Iran khi di cư sang kinh đô nhà Đường đã mang theo Hiên giáo, tức Bái Hỏa giáo, tới đây. Cùng với đó còn có cả các pháp sư theo tín ngưỡng bản địa.
Không Hải đã được An Tát Bảo kể cho nghe về việc, có người vẫn thường xuyên tới Hiên từ, tức nhà thờ Hiên giáo, nhưng cũng đồng thời đến nhờ cậy các karapan dùng bùa chú, mà không cho An Tát Bảo biết, để thỏa mãn những dục vọng tăm tối của mình.
Lúc quật mộ Dương quý phi ở Mã Ngôi Dịch, bọn Không Hải đã đào lên được một cái sọ chó. Trên đó có viết dòng chữ:
Kẻ nào làm ô uế đất này sẽ bị nguyền rủa. Kẻ nào phá phách đất này sẽ gặp tai ương. Nhân danh mọi tinh linh của đất mẹ, hãy khiến những kẻ đó khiếp sợ…
Đó là chữ Ba Tư.
Arun Rashid, người quen của Mohammed, cũng là một trong số những kẻ thường xuyên nhờ cậy tông sư Druj, một karapan sống ở Đường, nhưng chính ông ta đã mất mạng vì karapan.
Một đạo sĩ có tên Chu Minh Đức mặc dù là đầu mối liên lạc với tông sư Druj, nhưng vì định cùng Arun Rashid lừa dối karapan này mà phải hứng chịu cái chết kỳ quái.
Arun Rashid chết vì bị nanh thú xé toác họng vào ban đêm; Chu Minh Đức vào một buổi tối đã cưỡng bức Lý Lan Hương, người tình của Vương Thúc Văn mà chính Chu Minh Đức đang tá túc trong nhà cô ta, rồi tự nấu chín mình cho đến chết trong vạc nước sôi.
Có thể nói, đằng sau vụ việc mà Không Hải và Dật Thế bị cuốn vào lần này luôn thấp thoáng bóng dáng của karapan.
Không còn cách nào để liên lạc với tông sư Druj kể từ sau khi Arun Rashid và Chu Minh Đức chết, nhưng bỗng đến một ngày, các bức thư có nội dung kỳ lạ được ném vào nhà những kẻ đã từng nhờ cậy bùa phép của tông sư Druj trước đây.
Bức thư viết, hãy đem các con vật tới chỗ này chỗ kia, ta sẽ mua với giá cao.
Rắn
Ếch
Chuột
Mèo
Chó
Các loài côn trùng như nhện và rết
Lợn
Bò
Gà và quạ
Thằn lằn
Các người có thể mang bất cứ thứ gì đến cũng được.
Tuy nhiên, cấm được để lộ chuyện này ra với kẻ khác. Nếu để lộ ra, ta sẽ nói cho mọi người biết về việc các ngươi đã nhờ karapan dùng bùa chú như thế nào.
Đó là nội dung bức thư.
“Chuyện là như vậy cậu Không Hải ạ.” Mohammed nói.
“Nhưng bức thư viết rằng cấm tiết lộ với người khác đúng không ạ?” Không Hải hỏi lại.
“Đúng.”
“Vậy bằng cách nào mà anh Mohammed biết được?”
“Một người đàn ông nhận được bức thư tên là Mimar Alli đã đến hỏi ý kiến tôi.”
“Hỏi ý kiến?”
“Alli bảo rằng, tuy nhận được bức thư, nhưng anh ta đang phân vân không biết có nên làm theo những gì viết trong đó hay không, vì đã từng xảy ra cái chết của Chu Minh Đức và Arun Rashid.”
“Và anh ta đã không làm theo?”
“Không, sau một hồi phân vân thì rốt cuộc Alli vẫn làm theo.”
“Đã làm theo?”
“Và Alli đã bắt gặp một chuyện khủng khiếp.” Mohammed nói.
❖ 4 ❖Mimar Alli phân vân suốt hơn mười ngày kể từ khi nhận được bức thư.
Trước đây anh ta từng có lần nhờ đến karapan. Anh ta làm nghề buôn đồ lụa, mua vải và quần áo lụa ở đây rồi mang sang phương Tây để bán. Ban đầu thì anh ta chỉ làm như vậy. Công việc ngày một phát đạt, chẳng mấy chốc anh ta bắt đầu buôn thêm cả những món khác nữa, tỉ như bình, đĩa gốm của Đường chẳng hạn. Bình, đĩa gốm được xếp vào trong hòm gỗ và vận chuyển bằng lạc đà hoặc ngựa.
Nhưng việc này rất khó.
Hằng ngày, cứ đến chiều là phải dỡ hàng hóa xuống khỏi lưng lạc đà, rồi đến sáng lại chất lên. Chất lên dỡ xuống nhiều lần như vậy sẽ khiến cho bình, đĩa trong hòm bị vỡ. Có những khi phải bỏ đi đến quá nửa.
Anh ta chợt nảy ra một ý hay có thể khắc phục được vấn đề này, ấy là lèn cát vào trong hòm cùng với bình và đĩa. Bằng cách này, các đồ gốm trong hòm khó vỡ hơn rất nhiều. Tuy nhiên, nhược điểm là nặng quá. Cát lại dễ làm xước các món hàng, đồng thời vẫn bị vỡ ở một tỉ lệ nhất định.
Mimar Alli lại nghĩ ra một cách mới. Đó là dùng gỗ vụn và rơm rạ. Cuối vụ thu hoạch lúa mì, anh ta mua lại số rơm rạ vốn chẳng dùng được vào việc gì với giá rẻ, phơi khô, sau đó trộn cùng với phoi bào, mùn cưa lèn vào trong hòm đựng bình, đĩa.
Cách này đem lại kết quả bất ngờ. Nhưng đã bắt đầu xuất hiện những kẻ bắt chước.
Mimar Alli đã cố gắng giữ bí mật, nhưng không thể giấu kín được lâu. Có một gã người Đường họ Triệu thường qua lại chỗ Alli biết được cách làm này, mới thu mua gỗ vụn và gỗ ván bỏ đi từ khắp nơi trong Trường An, bào nhỏ ra rồi bán dưới dạng vật liệu chống va đập cho hàng hóa.
Hàng hóa tất nhiên không chỉ được vận chuyển giữa Tây vực và Đường. Khối lượng lưu thông nội trong Đại Đường cũng rất lớn. Tuy không thể kiếm bộn nhờ công việc này, nhưng ở một nơi mà hàng hóa và vật tư luân chuyển tấp nập như Trường An thì nó cũng đem lại một số tiền không nhỏ.
Gã họ Triệu phao tin rằng, đây là cách làm do gã nghĩ ra, Mimar Alli chỉ là kẻ bắt chước. Tất nhiên, việc làm này của họ Triệu không gây ra tổn thất gì quá lớn, nhưng Alli cảm thấy ấm ức. Vả lại, chẳng bao lâu sau thì việc mua gỗ vụn không còn dễ dàng như trước nữa. Rốt cuộc, Alli đành phải mua mùn cưa và phoi bào từ họ Triệu.
Thực tình mà nói, nếu tự làm với một lượng chỉ vừa đủ cho mình dùng thì khá mất công, nên tuy tốn chút tiền bạc, song mua của họ Triệu sẽ tiện hơn nhiều. Nhưng Alli không thể nào gạt bỏ được cái cảm giác ấm ức ấy, mới thông qua Chu Minh Đức nhờ karapan dùng đến bùa chú. Alli không muốn giết chết họ Triệu, chỉ định bụng khiến gã gặp phải xui xẻo như tai nạn hoặc bệnh tật mà thôi.
Sau khi nhờ karapan, chỉ trong vòng chưa đến mười ngày thì nhà họ Triệu gặp hỏa hoạn.
Một đêm nọ, đống phoi bào để trong nhà họ Triệu bốc cháy, lửa thiêu rụi hết nửa căn nhà, họ Triệu vì cố gắng dập lửa mà bị một vết bỏng lớn ở cánh tay trái.
Phép thuật hiệu nghiệm, hay chỉ là ngẫu nhiên, hay chính tay karapan đã châm lửa? Nhưng kể từ sau khi sự việc xảy ra, Alli bắt đầu thấy chờn nên đã cố gắng tránh không tiếp xúc với karapan nữa. Ấy vậy mà lại nhận được bức thư nọ.
Việc này có liên quan đến karapan khiến Alli thấy không thoải mái trong lòng. Nhưng nếu phớt lờ bức thư thì tai ương gì sẽ giáng xuống? Chuyện nhờ cậy bùa phép trước đây bị lộ ra thì cũng rầy rà. Alli đem chuyện đến hỏi ý kiến một người thạo tin mới hay người này cũng nhận được một bức thư tương tự. Anh ta bảo rằng đã mang đến cho karapan tám con chó, năm con chim, ba mươi lăm con ếch, sáu mươi con rắn đúng như yêu cầu trong thư.
Địa điểm là một ngôi nhà hoang ở phường nọ. Khi đến nơi, anh ta thấy có hai người đàn ông đứng chờ dưới gốc cây long não lớn. Những chiếc chum lớn, lồng chim và hòm gỗ bày la liệt dưới gốc cây. Thế rồi có mấy chục con chó đang bị cột vào cọc.
Khi hỏi hai người đàn ông thì được hướng dẫn thả rắn vào cái chum này, đổ ếch vào cái chum kia.
Lúc mở nắp chum ra, anh ta thấy bên trong nhung nhúc những rắn là rắn với lớp da bóng nhẫy đang quấn lấy nhau. Mùi tanh của rắn xộc thẳng lên mũi. Anh ta liền đổ lũ rắn mang đến vào trong đó.
Cái chum đựng ếch cũng vậy. Mở nắp ra thấy bên trong cơ man nào là ếch. Vừa nhòm vào trong liền có một mùi khó chịu xộc thẳng vào mặt.
Hai người đàn ông đếm từng con rắn, ếch, sâu bọ và chó.
Sau khi đếm xong, bọn họ nói: “Của anh được ngần này”, rồi rút tiền từ trong bọc áo ra và đưa cho.
Bọn họ bảo đã gom được kha khá rồi nên độ hai ngày nữa sẽ dừng việc thu mua này lại.
Hỏi han sơ qua thì họ nói: Người muốn mua những con vật này không phải bọn tôi, bọn tôi chỉ được thuê để làm công việc này mà thôi. Hằng ngày thu mua ở đây xong, nếu đem đến một nơi hẹn trước, là đâu thì không nói được, bọn tôi sẽ nhận được tiền.
Nếu anh muốn bán thì chỉ còn ngày mai nữa thôi, người thạo tin nọ nói với Alli.
Vậy là Alli đã quyết. Mặc họ dùng vào việc gì, cứ giao cho họ rồi coi như không biết.
Alli nghĩ, mình cứ gom các con vật rồi đem đi một lần là xong, hơn nữa còn được nhận tiền thì tội gì mà không đi.
Nghe nói anh ta mang đi vào buổi tối hai hôm trước.
Tuy quyết định như thế, nhưng không dễ gì mà thu gom chó và các con vật ngay được. Phải nhờ người đôn đáo đi tìm mới kiếm được hai con chó, ba con rắn, bốn con gà. Alli cho chúng lên xe ngựa, dong đến ngôi nhà bỏ hoang nọ, tới nơi thì đã xế chiều.
Tiếng mộ cổ đã dứt, nên Alli không thể quay lại phường của mình. Anh ta quyết định sẽ ngủ tạm dưới mái hiên một ngôi chùa nào đó sau khi xong việc. Chẳng biết hai người đàn ông có còn ở đó không, nhưng anh ta cứ bước đi trong màu chiều sẩm tối và rồi cũng tới được ngôi nhà hoang ghi trong bức thư.
Một ngôi nhà lớn vừa phải, bao quanh bởi một bờ tường đất. Trong khuôn viên có những cây hòe và long não cổ thụ. Alli bước qua cánh cổng đã bung mất một bên. Mái nhà sập mất một nửa, ở khu đất có lẽ là sân trước mọc lên một cây long não cổ thụ to lừng lững.
Chà, đây rồi.
Alli nghĩ bụng rồi bước tiếp nhưng chẳng thấy bóng dáng ai. Không có người đã đành, ngay cả ngựa, rồi rất nhiều con chó bị buộc vào cọc cũng không thấy đâu.
Khi nhìn thấy một vài chiếc cọc gỗ cắm dưới gốc cây long não, Alli hiểu rằng mình đã đến đúng chỗ. Nhưng chẳng nom thấy một người nào. Chum cũng không mà chó cũng không.
Vậy là họ đã về mất rồi ư?
Nếu đúng như lời họ nói, hôm nay là ngày cuối, thì có nghĩa đã xong xuôi cả rồi.
Alli thở phào nhẹ nhõm, nhưng ngay lập tức một mối bất an khác lại trỗi dậy: liệu rằng thế này đã xong thật chưa?
Trời mỗi lúc một tối. Alli định tìm xem có ai trong khu vườn um tùm cỏ dại này không thì chợt nghe thấy tiếng rên khẽ.
Đó là tiếng người rên.
Alli có cảm giác như đó là tiếng gầm gừ của loài vật, rồi lập tức một cơn sợ hãi chạy dọc sống lưng. Đưa mắt về phía âm thanh phát ra, Alli thấy có vật gì màu đen ở giữa bụi cỏ lúc này đã trở nên nổi bật hơn.
Trông như một hòn đá trang trí vườn.
Có đến hai cái bóng đen, nhưng Alli nhanh chóng nhận ra ít nhất thì một trong hai cái bóng không phải là đá trang trí vườn. Vì nó đang chuyển động.
Tiến lại gần hơn, mũi Alli ngửi thấy mùi tanh của máu.
Cái này là!?
Alli đứng sựng lại quan sát, có hai người đang nằm vật ở đó. Cả hai đều là đàn ông.
Một người nằm im bất động, còn người kia thì vẫn hơi ngọ nguậy.
Biết có người đến, người đàn ông đang rên rỉ cất tiếng kêu yếu ớt: “Cư… cứu… tôi… với…”
Cổ họng anh ta kêu lên rin rít.
Lúc bước qua cái xác bất động ở phía gần hơn, Alli nhìn thấy khuôn mặt đang ngửa lên trời ấy. Người đàn ông đó chết trong tư thế mắt mở trừng trừng, miệng há hốc. Cổ họng bị xé toang bởi một vật giống như là lưỡi dao. Từ cổ họng, máu chảy ra lênh láng.
Người đàn ông còn lại vẫn thở, nhưng cũng ở trong tình trạng tương tự. Cổ họng bị xé toang. Song xem ra anh ta vẫn còn sống, từ miệng phát ra giọng nói khản đặc, phải khó khăn lắm mới nghe được. Cứ mỗi lần nói, không khí lại đi qua vết thương ở cổ, phát ra tiếng kêu rin rít. Miệng vết thương sùi lên những bọt máu.
Alli định hét lên rồi bỏ chạy, nhưng rồi lại rón rén ngồi xuống.
“Anh làm sao vậy?” Alli hỏi.
“Tôi bị hãm hại. Tôi bị giết. Cổ… cổ họng…” Phải mất một lúc anh ta mới thốt lên được câu ấy. Giọng thều thào.
“Kẻ nào hãm hại anh?”
“Là há… hắn.”
“Hắn?”
“Phải. Vì tôi đã nhìn thấy…”
“Nhìn thấy? Nhìn thấy cái gì?”
“Cái đó.”
“Cái đó?”
“Lũ chó.”
“Lũ chó?”
“Lũ chó bị chôn rất nhiều.”
“Ở đâu?”
“Dưới đất, ở chỗ của hắn.”
“Hắn là ai?”
Nghe câu hỏi của Alli, người đàn ông bỗng rú lên một tiếng.
“Lũ chó bị chôn dưới đất. Chỉ để hở cái đầu. Bọn tôi đã nhìn thấy cảnh ấy…”
“Sao!?”
“Thế nên bọn tôi mới bị hắn…”
❖ 5 ❖Người đàn ông ấy kể cho Alli nghe trong lúc máu từ miệng vết thương ở cổ vẫn đang sủi bọt.
Giọng thều thào, tiếng được tiếng chăng, thậm chí có những đoạn không thể nghe thấy hoặc chẳng hiểu nghĩa là gì. Hơn nữa, anh ta cũng không nói được lâu. Trước khi kể hết toàn bộ sự việc thì đã chết mất rồi.
Mặc dầu vậy, nếu kết nối các chi tiết lại với nhau để thành một câu chuyện có thể hiểu được thì đại ý như sau.
Người đàn ông và bạn mình đã cảm thấy thắc mắc từ trước đó.
Ngày nào cũng thu mua ngần ấy chó, rắn và các con vật rốt cuộc là để làm gì?
Kẻ thuê họ rốt cuộc đang mưu tính gì?
Nghĩ cứ rờn rợn.
Kẻ thuê họ là một cô gái.
Hai người bọn họ là những kẻ phiêu bạt từ huyện Phụng Thiên tới. Không còn đường sống ở Phụng Thiên, bọn họ nghĩ nếu lên kinh thành thì thế nào chẳng kiếm được việc làm, mà biết đâu còn gặp may nữa.
Trường An vừa có thiên tử mới, trong lúc giao thời ấy hẳn là sẽ nhiều nơi cần đến sức người. Song le lên kinh đã lâu mà chẳng kiếm được việc. Chưa đầy mười hôm mà số bạc lẻ mang theo đã cạn ráo. Giữa lúc bọn họ đang ngồi chầu hẫu trên nền đất chợ Đông thì cô gái ấy đến và bắt chuyện với họ.
“Các anh đói bụng rồi phải không?”
Bọn họ ngẩng mặt lên thì thấy một cô gái tuổi chừng chưa đến ba mươi.
Cô ta ăn mặc theo lối Đường nhưng đôi mắt lại màu xanh. Vẻ như có pha dòng máu nước ngoài.
“Tôi có công việc tốt cho các anh đây. Nhưng các anh có kín mồm kín miệng không đấy?”
“Tất nhiên rồi.” Sợ để tuột mất cơ hội, người đàn ông vội đáp.
“Tôi cũng đoán vậy. Các anh mới lên kinh thành và không có người quen?”
Người đàn ông gật đầu trước câu hỏi của cô gái.
“Sao cô biết?”
“Nhìn bộ dạng các anh là tôi biết. Không có người quen thì các anh không thể ba hoa với người này người nọ được.”
“Đúng thế.”
“Vậy các anh sẽ thử làm công việc này chứ?”
“Việc gì chúng tôi cũng làm, nhưng mà là việc gì thế?”
“Tôi cần các anh đưa chó, bò, rắn và mấy loài vật khác đến một nơi. Các anh nhận chúng ở một chỗ rồi đưa chúng đến một chỗ khác.”
“Chỗ khác là chỗ nào?”
“Các anh đồng ý thì tôi sẽ chỉ cho. Thế nào?”
Cô gái nói ra một số tiền không nhỏ.
“Chỉ có điều, các anh tuyệt đối không được kể chuyện này với người khác, về việc các anh vận chuyển cái gì, đến chỗ nào. Ngoài ra, cũng không được hỏi các anh phải làm thế vì mục đích gì. Các anh có hỏi tôi cũng không nói được. Các anh sẽ không nhận được tiền nếu không giữ đúng cam kết này.”
“Chúng tôi sẽ làm, nếu nhận được đúng số tiền đó.” Người đàn ông nói.
“Tôi nói thêm, nếu các anh phá vỡ giao ước, các anh sẽ gặp phải tai họa khôn lường đó.”
Đang cần việc và cần tiền nên hai người chấp nhận giao ước.
Địa điểm là Sùng Đức Phường.
Chỉ cần chuẩn bị sẵn chum vại và xe chở hàng đợi trong khuôn viên một ngôi nhà bỏ hoang vô chủ ở Sùng Đức Phường thì sẽ có người mang chó, rắn và các con vật khác đến để lại đó. Sau khi nhận hàng, trả tiền xong, họ phải chở chúng đến một ngôi nhà khác cũng ở Sùng Đức Phường vào khoảng buổi tối. Khi cô gái kia xuất hiện, bọn họ chỉ việc đặt những thứ vừa chở đến ở lại, rồi kéo xe cùng những chiếc chum rỗng quay về ngôi nhà hoang và ngủ tại đó. Qua buổi trưa, lại lác đác có người mang các con vật đến.
Những người đến đây có cả người Hán lẫn người Hồ mắt xanh.
Nhưng dần dà bọn họ bắt đầu thấy thắc mắc.
Thế rồi họ đã làm việc ấy vào đêm qua, tức là buổi tối trước hôm Alli tìm thấy người đàn ông và nghe anh ta kể lại.
Suy nghĩ mãi cuối cùng hai người bọn họ cũng quyết định sẽ nhòm vào bên trong xem sao.
Lần nào hai nguời cũng đi vào bằng cổng chính, nhưng thường nghe thấy tiếng chó sủa ở sau nhà nên đoán là nếu cô ta có làm điều gì thì chắc cũng làm ở sân sau. Sau khi bàn giao các con vật xong, bọn họ liền men theo bờ tường bao, kín đáo vòng ra đằng sau.
Quả đúng là càng đi về phía ấy càng nghe tiếng chó sủa lớn hơn. Có rất nhiều tiếng chó kêu: con thì gầm gừ, con thì ăng ẳng, con thì rên rỉ. Vừa hay bên ngoài tường rào lại có mấy cây hòe lớn. Họ quyết định trèo lên để nhòm vào bên trong.
Hai người bám vào thân cây, leo lên cành đầu tiên, ngồi trên đó thì vừa đủ cao để nhìn được vào trong. Bọn họ chỉ thò bằng đúng một cái đầu lên khỏi bờ tường, rón rén nhòm vào, thì thấy một cảnh tượng kỳ quái ở khoảnh sân sau bức tường.
Có một chiếc lồng sắt lớn dựng ở sân, bên cạnh là đống củi đang cháy, ngọn lửa bốc lên đỏ rực.
Thứ được soi sáng bởi ngọn lửa ấy là…
Những cái đầu chó.
Trên mặt đất cơ man là đầu chó. Rất nhiều chó bị chôn, chỉ còn phần đầu thò lên khỏi mặt đất.
Dễ chừng phải đến ba mươi, bốn mươi con.
Chúng không chết.
Chúng vẫn còn sống.
Chúng sủa, nhe nanh, gầm gừ.
“Ố… ối…”
Người đàn ông suýt nữa thì kêu lên, nhưng kịp nín lại.
Cô gái thuê bọn họ đang đứng cạnh đống lửa. Và nhìn xuống lũ chó.
Cô gái cầm một cây đao cong, to bản đã tuốt khỏi bao.
“Nhìn kìa…” Người đàn ông khẽ thì thầm với bạn mình. “Ở phía trước lũ chó…”
Phía trước mỗi con chó có thứ gì đó. Một cục màu đỏ sẫm ngay trước mũi chúng.
“Thịt?”
Nhìn kỹ ra thì hình như là thịt sống.
Hơn nữa, chúng không phải những miếng thịt bình thường, mà giống một hình thù nào đó.
Là chữ?
Nó tựa như chữ đại *.
(*) Chữ “đại” Hán tự viết là: 大.
Nhưng quan sát kỹ hơn, anh ta nhận ra đó không phải chữ, mà mô phỏng một hình thù nào đó khác.
“Là người sao?”
Đó là hình người.
Nhưng không phải chữ nhân * mà là hình người đang dang rộng tay, chân. Thế rồi bên trên miếng thịt hình người lại có một mảnh giấy hay tấm thẻ bài hình chữ nhật có viết mấy chữ trên mặt. Nhưng vì xa quá nên tuy biết đó là chữ mà không đọc được chữ gì.
(*) Chữ “nhân” Hán tự viết là: 人, nghĩa là “người”.
Dầu vậy có thể đoán được đó là tên người.
Còn lũ chó thì đang sủa về phía miếng thịt để ngay trước mũi chúng.
Tại sao chúng lại sủa?
Vì chúng đói.
Bụng đói, muốn đớp lấy miếng thịt đỏ, chúng biến nỗi thèm khát ấy thành tiếng sủa.
Người đàn ông hiểu ra rằng lũ chó hầu như không được cho ăn. Chúng sủa sùi bọt mép. Chẳng cần biết trời đất gì hết, điều duy nhất chúng muốn là đớp lấy miếng thịt ngay trước mũi. Chúng bắt đầu phát điên, gầm gừ và sủa.
Chúng quắc mắt, nhe nanh.
Thật là một việc làm tàn nhẫn và ác độc!
Nhìn bộ dạng lũ chó, có thể đoán chúng chưa được cho ăn không chỉ một, hai hôm, mà đã ba, bốn, thậm chí là năm hôm rồi. Chắc chắn trong đầu óc chúng chẳng có gì khác ngoài ý nghĩ muốn đớp lấy miếng thịt.
Thế rồi…
Cái tình tiết khiến bọn họ dựng tóc gáy diễn ra không lâu sau khi nhìn thấy cảnh tượng vừa rồi.
Cô gái bước lại gần một con chó, cầm cây đao bằng hai tay, rồi vung lên thật mạnh.
Sau đó cô ta phạt chéo cổ con chó từ trên xuống trong tắp lự.
Phựt! Lưỡi đao cắm ngập cổ con chó, cắt nó làm đôi.
Roạt! Máu phun lên thành tia rồi rơi xuống mặt đất như một cơn mưa rào bất chợt.
Đầu con chó bay ra đằng trước, răng cắm phập vào miếng thịt như thể chấp niệm của nó vẫn ám theo. Hàm răng đớp đớp, con chó chỉ còn là cái đầu nhai miếng thịt vài lần rồi bất động.
Rồi cô ta bước đến bên cạnh đầu con chó kế tiếp và đứng lại.
Lưỡi đao lại bổ xuống, chém đứt đầu con chó.
Con chó chỉ còn là cái đầu đớp lấy miếng thịt hình người trước mặt.
Loáng một cái đã có bốn cái đầu chó bị chém đứt lìa.
Bất chợt…
Từ trong bóng tối của ngôi nhà sau lưng cô gái xuất hiện một bóng người.
Một người đàn ông hoàn toàn trần truồng.
Nói là người đàn ông, chứ thật ra là một ông già.
Ông già đó bước về phía cô gái.
Cô gái nhận thấy ông ta liền ngưng tay, đặt cây đao xuống. Ông già dừng lại trước mặt cô gái, ghé miệng vào tai cô và thì thầm điều gì đó.
Thôi chết!
Một linh cảm không lành lóe lên trong đầu người đàn ông.
Mình đã bị phát hiện.
Anh ta nghĩ thế.
Ngay khi đầu cô gái vừa nhúc nhích, người đàn ông liền nói nhỏ với bạn mình bằng một giọng đanh gọn.
“Chúi xuống!”
Chắc chắn cô ta chuẩn bị ngoảnh lại phía này.
Nhưng cả hai người đàn ông đều đã kịp chúi xuống trước khi đầu cô gái kết thúc vòng quay.
Mình đã bị lộ chưa?
Bọn họ tụt vội xuống khỏi cây.
Rồi chạy.
Chạy một thôi một hồi thì về tới căn nhà hoang đó. Đến nơi rồi mà trống ngực vẫn đập thình thịch.
Những kẻ đó đã phát hiện ra mình chưa? Liệu chúng có nhận ra kẻ dòm trộm chính là bọn ta? Nếu vậy thì phải chạy trốn khỏi đây càng sớm càng tốt. Bởi cả lão già lẫn đứa con gái đều biết chỗ này. Nếu hai kẻ đó muốn làm hại bọn ta thì tất trong đêm nay chúng sẽ tới.
Phải trốn đi thôi, anh ta nhiều lần tự nhủ.
Nhưng nếu trốn đi thì làm sao lấy được tiền công? Có khi chúng chỉ biết có kẻ dòm trộm, mà không biết kẻ đó là bọn ta. Có khi động tác ngoảnh đầu lại của đứa con gái chỉ là tình cờ, chứ không phải để xem có kẻ nào ở trên cành cây. Có khi cô ta chỉ định quay cái đầu đang nghiêng về tư thế cũ sau khi đã nghe xong lão già nói. Có khi chỉ vì bọn ta quá hồi hộp nên lầm tưởng rằng mình bị lộ.
Chắc chắn là vậy rồi.
Chứ với khoảng cách như thế, dù có phát hiện ra thì cũng không thể nhận biết được ai là kẻ dòm trộm.
Vừa xa, lại vừa tối.
Rất khó để nhận ra mặt người trong điều kiện ấy. Không may có bị nhìn thấy thì chúng cũng không thể biết bọn ta là ai.
Nghĩ như thế, hai người bọn họ không dám chớp mắt mà ngồi chờ ngày sáng.
Chẳng có gì xảy ra cả.
Đúng thật là chưa bị phát hiện.
Trời sáng, họ thấy bạo dạn hơn.
Nốt đêm nay nữa là đêm cuối cùng. Nhận được tiền rồi cuốn gói là xong. Nếu bị tra hỏi thì cứ tỉnh bơ bảo rằng không biết. Kể cả khi chúng không tin lời bọn ta, thì ít ra cũng hiểu rằng bọn ta sẽ không kể với ai những gì mình trông thấy.
Người đàn ông suy tính như vậy.
Và thế là bọn họ quyết định đợi đến chiều, làm nốt phần việc cuối cùng. Nhưng ngày hôm đó chẳng có ai mang các con vật đến. Lúc mặt trời sắp lặn, có một người xuất hiện.
Bọn họ nhận ngay ra đó là ai.
Là ông già hôm qua.
Thân hình ông ta còm nhom.
Không lẫn vào đâu được.
Hai người bọn họ đã giao ước với nhau là dù bị tra hỏi thế nào cũng phải một mực chối rằng, không biết, không thấy.
Nhưng mình mẩy họ bắt đầu run cầm cập.
Ông già thủng thẳng bước và dừng lại trước mặt họ. Không nói gì. Chỉ nhìn chằm chằm vào họ với đôi mắt màu vàng, đáng sợ.
“Gì… gì…”
Bọn họ không thốt nên lời. Cổ họng tắc ứ trong khi người run lên bần bật.
Thế rồi, ông ta chỉ lẩm bẩm một câu ngắn gọn: “Nhìn thấy rồi hả…”
Đúng vào khoảnh khắc ấy, bàn tay phải của ông già lóe lên một tia sáng.
Có cái gì đó loang loáng vụt qua trước mắt người bạn kia.
Một ánh thép sắc bén.
Đúng vào khoảnh khắc ấy, từ yết hầu của người bạn, máu phè phè phun ra, bắn vào mặt ông già.
Cổ họng bị cắt đứt. Không kịp kêu lên, người bạn đổ sập xuống, tắt thở.
Tiếp theo là đến lượt người đàn ông.
Anh ta không thể nhúc nhích nổi ngay cả khi ông già đã tiến đến trước mặt mình. Vừa đứng im, anh ta vừa cười hềnh hệch đầy vô nghĩa.
Bàn tay phải của ông già lại lóe lên.
Cổ họng bị cắt đứt cái roạc.
Ngay khi máu phun ra từ yết hầu và bắn vào mặt ông già thì ý thức đã rời khỏi thân xác người đàn ông.
Anh ta ngất đi và khi tỉnh dậy thì thấy Alli đang gọi ở bên tai: “Anh làm sao thế?”
Rồi anh ta kể lại sự việc cho Alli nghe bằng chút hơi tàn. Thật ra nó giống như những lời mê sảng của một người đã dần mất ý thức thì đúng hơn là câu chuyện có chủ ý rõ ràng nhắm tới Alli. Anh ta gần như chỉ độc thoại cho tới khi dừng kể, sau đó thì tắt thở trong vòng tay của Alli.
Giờ không phải là lúc để bán lũ vật này nữa. Vả lại, nếu cứ nấn ná mãi ở đây mà nhỡ có người trông thấy thì rầy rà to.
Alli bỏ lại hai cái xác ở đó, chạy như bay về nhà.
Alli không kể gì với ai. Mấy ngày trôi qua, anh ta xọp hẳn đi, hầu như không ăn được gì. Nhưng không thể không kể với ai điều mình đã trông thấy. Vậy là cuối cùng anh ta đành tìm đến chỗ Mohammed để nói chuyện.
❖ 6 ❖Không Hải và Dật Thế đang len lỏi giữa những huyên náo của chợ Tây.
Đúng như lời Mohammed, chợ giờ đây đã giàu sức sống hơn xưa. Tiếng rao của người bán nghe có vẻ to hơn không chỉ là do cảm giác. Những tiếng cười trong đám đông cũng nhiều hơn.
Không Hải bước đi với vẻ mặt đăm chiêu giữa bầu không khí nhộn nhịp ấy.
“Dật Thế à. Thật sự to chuyện rồi.” Không Hải nói.
“Cậu đang nói đến câu chuyện vừa rồi của Mohammed hả?”
“Ừ. Thật là càng lúc càng thú vị.”
“Này này Không Hải.”
“Sao hả Dật Thế?”
“Sự việc như thế mà nói là thú vị được à!”
“À, ý cậu là vậy hả?”
“Ngộ nhỡ có kẻ xấu bụng nghe được thì ai mà biết chúng sẽ nói gì.”
“Chuyện này chỉ là giữa tớ và cậu thôi. Không cần lo lắng.”
“Nếu vậy thì thôi…”
Dật Thế nói, giọng vẫn còn vẻ không bằng lòng.
“Nhưng Không Hải này, cái đó có ổn thật không?”
“Cái đó là cái gì?”
“Chẳng phải lúc nãy cậu nói với anh Mohammed rằng không cần phải lo lắng còn gì?”
“À, đúng rồi.”
“Tớ muốn hỏi về việc ấy đấy.”
“Theo cậu, thay vì nói đừng lo lắng, tớ còn có thể nói theo cách nào khác được nữa?”
Không Hải hỏi ngược lại Dật Thế.
“Cách nói khác ấy à…”
“Chỉ có duy nhất cách nói đó thôi, phải không?”
Cái đó mà Dật Thế nhắc tới chính là câu nói của Không Hải với Mohammed ban nãy.
Kể xong chuyện của Mimar Alli, Mohammed quay sang hỏi Không Hải: “Alli đang lo muốn chết vì việc này, theo cậu thì phải làm sao…”
Đáp lại câu hỏi của Mohammed, Không Hải nói: “Anh hãy bảo với Alli rằng, cách tốt nhất là cứ tiếp tục sống như bình thường, không biết gì, không thấy gì, không nghe gì…”
“Chỉ cần vậy thôi sao?”
“Phải.” Không Hải gật đầu không chút lưỡng lự.
Sau đó, cuộc trò chuyện còn có thêm sự góp mặt của ba cô con gái Mohammed, họ nói về không khí tấp nập của chợ hồi lâu, rồi Không Hải cùng Dật Thế rời khỏi ngôi lều của Mohammed.
“Nghe này Dật Thế, giờ không phải lúc vị karapan ấy ra tay. Nếu Alli chưa kể chuyện này với ai, tính mạng anh ta sẽ nguy ngập, nhưng Alli đã nói ra rồi. Vì vậy Alli sẽ an toàn.”
“Ừm.” Vừa dứt lời, Dật Thế lại như sực nhớ ra điều gì. “Nhưng nếu karapan biết Alli đã kể chuyện này với người khác, chẳng phải karapan sẽ tức giận và tìm tới dạy cho anh ta một bài học hay sao?”
“Để làm gì?”
“Thì để…” Dật Thế nói đến đó thì ấp úng.
“Cho dù karapan biết được tin Alli để lộ chuyện này ra với người khác, thì hành động bịt miệng Alli cũng không còn ý nghĩa gì nữa, bởi Alli đã nói ra với người khác mất rồi. Vả lại, Alli không phá vỡ giao ước hay phản bội karapan.”
“Ừm.”
“Nếu tớ là karapan và biết được Alli đã kể chuyện đó với người khác, hoặc định kể với người khác, thì tớ sẽ…”
“Làm gì?”
“Bỏ trốn.”
“Bỏ trốn?”
“Rời khỏi ngôi nhà đó càng sớm càng tốt.”
“Ồ.” Dật Thế thốt lên.
“Hẳn là karapan đã bắt tay vào chuẩn bị ngay khi phát hiện ra hai người đàn ông kia trông thấy mình.”
“…”
“Việc quyết định giết hai người đàn ông ấy cũng là sau khi mọi sự chuẩn bị đã hoàn tất.”
“Như vậy có nghĩa là…”
“Nếu chúng ta đi tới ngôi nhà mà hai người đàn ông đã chứng kiến cảnh tượng ấy thì sẽ không còn ai ở đó nữa.”
“Cậu chắc chứ?”
“Chắc.” Không Hải gật đầu không chút lưỡng lự. “Dật Thế ạ, lúc nãy tớ bảo thú vị là vì đã vỡ ra rất nhiều điều.”
“Vỡ ra?”
“Ừ.”
“Vỡ ra cái gì?”
“Chẳng hạn như, vị karapan này có lẽ chính là tông sư Druj, kẻ giết chết Chu Minh Đức và Arun Rashid.”
“Điều đó thì rõ quá còn gì.”
“Thế nên, Dật Thế ạ, tông sư Druj có lẽ chính là nhân vật Bạch Long mà chúng ta đã nghe nhắc đến nhiều lần…”
“Gì cơ!?”
“Cậu biết cái tên Bạch Long chứ?”
“Tớ có nghe đến cái tên đó. Hình như qua câu chuyện cậu được Đan Ông kể.”
“Đúng vậy.”
“Nhưng mà…”
“Tớ đã nghi là như thế từ trước, và hóa ra đúng thế thật. Cậu không thấy vụ việc karapan và vụ việc Dương Ngọc Hoàn lần này có quan hệ với nhau ở rất nhiều tình tiết hay sao?”
“…”
“Nghe này, lúc đào mộ Quý phi, chúng ta thấy một cái sọ chó, trên đó viết gì? Những chữ cái Ba Tư!”
“Tớ biết rồi.”
“Can dự sâu vào sự kiện ngày ấy của Quý phi có ba người: Hoàng Hạc, Bạch Long và Đan Long.”
“Ừm.”
“Như vậy thì vụ việc con mèo đen ở nhà Lưu Vân Tiêu, vụ việc những hình nộm dõng biết cử động chui lên từ ruộng bông của Từ Văn Cường và vụ việc có kẻ khiến Đức Tông hoàng đế chết sớm, rồi muốn hại tiếp Thuận Tông hoàng đế đều có sự liên hệ với nhau.”
“Ý cậu nói, sự việc đương kim hoàng đế đang bị bùa chú hiện nay cũng có liên quan?”
“Phải.” Không Hải gật đầu, rồi nói tiếp: “Về sự việc tông sư Druj thu gom các con vật lần này…”
“Sự việc đó thì sao?”
“Mục đích là để làm phép cổ độc.”
“…”
“Tông sư Druj thu gom các con vật ấy là nhằm mục đích yểm bùa hoàng đế.”
“Nói cách khác, kẻ đang yểm bùa hoàng đế hiện nay chính là tông sư Druj?”
“Những diễn giải từ ban nãy của tớ là để nói điều đó.”
“Như vậy, hai người đàn ông kia bị giết hại vì đã chứng kiến cảnh tượng tông sư Druj, tức là Bạch Long đang làm phép yểm bùa hoàng đế?”
“Có lẽ là vậy.” Không Hải nói.
“Hừm…” Dật Thế thở phì ra, nghe tựa như một tiếng thở dài.
“Nếu nói vậy thì, Không Hải à, tớ cũng có cùng suy nghĩ khi nghe các lập luận của cậu. Nhưng mà tại sao Bạch Long lại phải làm chuyện ấy?”
“Chuyện ấy là chuyện gì?”
“Yểm bùa để cướp đi sinh mạng của hoàng đế.”
“Tớ cũng chưa hiểu được chuyện ấy. Tuy tớ đoán rằng nó có liên quan mật thiết tới Dương Ngọc Hoàn…”
“Và cả Vương tiên sinh nữa chứ?”
“Ừm.” Không Hải gật đầu. “Lại nhắc đến Vương tiên sinh, khu chợ này nhộn nhịp hẳn lên là nhờ công lớn của ông ta. Chỉ có điều…”
“Làm sao?”
“Tớ bắt đầu nghĩ rằng, Vương Thúc Văn tiên sinh dường như có mối liên hệ không được hay ho lắm với vụ việc lần này…”
“Tớ cũng nghĩ vậy.”
“Đáng lẽ tớ phải dẫn theo Đại Hầu.”
“Để làm gì?”
“Nếu anh ta ở đây, thì có phải tớ đã sai anh ta đi thám thính ở Sùng Đức Phường rồi không.”
“Ừ.”
“Trước tiên ta hãy nói việc này với Liễu tiên sinh cái đã.”
“Liễu tiên sinh cũng thật lắm nỗi lao tâm khổ tứ…” Dật Thế vừa dứt lời thì có tiếng gọi từ đằng sau.
“Thầy Không Hải.”
Không Hải và Dật Thế ngoảnh lại thì thấy Hàn Dũ đang đứng đó.
“Ồ, ngài Hàn Dũ.” Không Hải cất tiếng.
“Xin mời theo lối này.” Hàn Dũ cúi đầu.