← Quay lại trang sách

Chương XXVIII Bầy chó cổ độc
1

Đó là một gian phòng nhỏ có nền bằng đất. Trong phòng có bếp lò, bàn và ghế. Một chiếc chum lớn hình như có nước bên trong. Trên tường có chạn để nồi niêu, bát đĩa.

Không Hải và Dật Thế ngồi đối diện Liễu Tông Nguyên qua chiếc bàn.

Trong phòng ngoài Liễu Tông Nguyên còn có Hàn Dũ cùng hai người nữa khoảng tầm hai nhăm tuổi. Hàn Dũ ngồi kế bên Liễu Tông Nguyên, còn hai người kia đứng cạnh cửa sổ và cửa ra vào, lặng lẽ nhìn về phía bốn người vây quanh chiếc bàn.

Không Hải và Dật Thế cũng vừa mới vào phòng. Trước đó một lúc, họ được Hàn Dũ gọi lại và đưa đến đây.

Thoạt tiên, Hàn Dũ không dẫn họ tới đây ngay, mà đi loanh quanh trong chợ một hồi, hết xuống Nam rồi sang Đông. Đi được một chốc thì có người đàn ông tiến về phía họ từ trong đám đông và nói với Hàn Dũ: “Không có ai bám theo.”

Người đàn ông lại lẩn vào đám đông nhanh như khi anh ta tiến đến. Sau đó Hàn Dũ bắt đầu đi về hướng Tây. Ngôi nhà này nằm ở gần với rìa Tây của chợ Tây.

Đó là một ngôi nhà nhỏ có tường đất bao quanh.

Hàn Dũ dẫn họ qua cổng, rồi tới gian phòng này. Khi bước vào phòng đã thấy Liễu Tông Nguyên ở đó.

Lúc này Không Hải và Dật Thế vừa mới ngồi xuống đối diện Liễu Tông Nguyên sau màn chào hỏi qua loa.

“Thành thật xin lỗi vì bắt hai vị phải quá bộ tới đây.” Liễu Tông Nguyên nói.

“Không hề gì, xin tiên sinh chớ bận tâm…” Không Hải đáp.

“Đây là nhà một người quen của tôi, cũng giống như những lần trước. Tôi đã cho mọi người lui đi cả nên sẽ không có ai tới đây trong khoảng thời gian này. Chúng ta có thể nói bất cứ chuyện gì.”

Liễu Tông Nguyên vừa dứt lời, Không Hải liền cất tiếng.

“Trước khi nghe chuyện của Liễu tiên sinh, tôi có một việc cần phải thông báo ngay với tiên sinh.”

“Việc gì vậy?”

“Tình hình của hoàng đế sao rồi thưa tiên sinh?”

“Tình hình?”

“Là bệnh tình. Trong mấy ngày vừa rồi hẳn là đã có chuyển biến gì đó phải không?”

Ngay sau câu nói của Không Hải, nét mặt Liễu Tông Nguyên liền cứng lại như thể đang đặt câu hỏi với Không Hải.

Sau một hồi im lặng khá lâu, Liễu Tông Nguyên mới nói: “Tôi thật lấy làm kinh ngạc.”

“Đúng như thầy Không Hải nói, bệnh tình của hoàng đế đã có chuyển biến.”

“Khoảng hai hoặc ba hôm truớc, đã có những lúc ngọc thể tốt hơn, tinh thần phấn chấn lên, phải vậy không?”

“Vâng, đúng vậy.”

“Nhưng, bắt đầu từ đêm qua hoặc trong ngày hôm nay, bệnh tình của hoàng đế lại trở xấu, phải vậy không?”

“Đúng vậy. Đúng như thầy nói. Nhưng bằng cách nào mà thầy biết được chuyện này?” Liễu Tông Nguyên hỏi.

Cách đây hai hôm, từ tình trạng nằm bệt trên giường, sức khỏe của Thuận Tông hoàng đế đã khá hơn, tuy hầu như không chuyện trò gì với xung quanh, nhưng nghe nói: “Buổi sáng, ngài kêu đói bụng, rồi sau đó ngự ít thức bổ là vài chén cháo, cá và hoa quả.”

Tưởng rằng đó là do tu pháp của Huệ Quả A-xà-lê đã phát huy tác dụng, nào ngờ…

“Bắt đầu từ sáng nay, bệnh tình của hoàng đế lại xấu đi và trở về như cũ.”

Liễu Tông Nguyên vừa lau những giọt mồ hôi chợt túa ra trên trán vừa kể.

“Nhưng tại sao thầy Không Hải lại biết chuyện này? Đây là chuyện tối mật, chỉ có rất ít người được biết mà thôi.”

“Không Hải, chẳng phải đó chính là…”

Điều cậu vừa nói ra hay sao? Dật Thế định thốt ra vậy nhưng lại nuốt vào trong bụng.

Chính Dật Thế cũng cảm thấy hết sức kinh ngạc với những lời Không Hải nói ra.

Những lúc như thế, Không Hải thường để lộ một điệu cười có thể nói là chẳng lấy gì làm ý nhị. Một vẻ biểu cảm đầy mãn nguyện, tựa như đứa trẻ tỏ ra đắc ý vì khiến cho người lớn ngỡ ngàng trước khả năng của mình.

Và lúc này cũng vậy.

Nhưng Không Hải đã kịp kìm lại nét biểu cảm vừa bật ra rất nhanh nơi khóe miệng ấy.

“Thật ra thì…”

Không Hải kể lại câu chuyện vừa nghe được ở chỗ Mohammed cho Liễu Tông Nguyên.

Nghe xong, Liễu Tông Nguyên nói: “Vậy theo ý thầy Không Hải, kẻ được gọi là tông sư Druj đó chính là kẻ đang hành hạ hoàng đế bằng bùa chú…”

“Đúng vậy.”

“Hừm.”

“Bị hai người đàn ông kia phát hiện, chắc chắn là tông sư Druj đã vội vã di chuyển địa điểm làm chú.”

“…”

“Chú lực chỉ bị yếu đi đúng vào lúc hắn ta di chuyển địa điểm.”

“Trời ạ…” Liễu Tông Nguyên thốt lên một tiếng đầy cảm thán. “Tôi không biết phải tả sao về thầy. Chỉ bằng ấy chi tiết mà thầy có thể luận ra được việc này.”

“Ta hãy tạm gác chuyện đó lại, bây giờ thì tiên sinh phải gấp lên mới được.” Không Hải nói.

“Gấp việc gì?”

“Tôi thiết nghĩ thầy nên sai người đến Sùng Đức Phường để lục soát ngôi nhà đó ngay. Nếu tông sư Druj vẫn còn ở đấy, không chừng vụ việc sẽ được giải quyết trong nháy mắt. Việc này dù có báo với nha môn thì các chức dịch cũng không thể hiểu ngay được, nên tôi nghĩ tốt nhất là hãy báo cho tiên sinh trước tiên. Tôi đã định bụng là phải nói ngay chuyện này khi nào gặp được tiên sinh.”

Không Hải vừa dứt lời thì Liễu Tông Nguyên liền đứng dậy.

“Tử Anh!”

Liễu Tông Nguyên gọi người thanh niên đang đứng cạnh cửa ra vào.

“Dạ.” Người thanh niên tên Tử Anh cúi đầu.

“Ngươi đã nghe rồi đấy. Giờ thì biết phải làm gì rồi chứ?”

“Dạ.”

“Mau chóng chuẩn bị đi…”

“Rõ!”

Tử Anh cúi đầu đáp, rồi hướng ánh mắt sang Không Hải và Dật Thế: “Xin cáo lui.”

Sau đó, Tử Anh vội vã rời khỏi phòng.

❖ 2 ❖

“Giờ ta sẽ sang chuyện chính…”

Liễu Tông Nguyên quay lại tư thế đối diện với Không Hải và Dật Thế.

“Tôi có một vài chuyện muốn kể, nhưng xin đi từ việc bức văn của ngài Triều Hành trước.”

“Tiên sinh nói rằng bức văn đó không phải do ngài Triều Hành, mà là của ngài Cao Lực Sĩ viết?”

“Khi tôi hỏi lại mẹ tôi thì cụ nói đã nhớ nhầm là của ngài Triều Hành, chứ thật ra bức văn đó là do ngài Cao Lực Sĩ viết. Có vẻ mẹ tôi đã lầm lẫn vì hai bức văn được để cùng nhau. Thế rồi cụ còn nhớ ra thêm một việc nữa.”

“Việc gì vậy?”

“Cụ nói hình như bà Bạch Linh đã đọc qua bức văn của ngài Cao Lực Sĩ.”

“Ồ.”

“Bà ấy không đọc được chữ Oa quốc, nhưng bức văn của ngài Cao Lực Sĩ viết bằng chữ Đường nên bà ấy đã đọc được.”

“Vậy trong đó viết những gì?”

“Mẹ tôi cũng hỏi như thế, nhưng bà Bạch Linh bảo rằng không thể tiết lộ nội dung bức thư đó cho ai được.”

“Hừ…”

“Và sau khi bà Bạch Linh mất thì cả hai bức văn đó đều được trao vào tay thân mẫu Liễu tiên sinh phải không?”

“Đúng vậy.”

“Nhưng chỉ còn lại bức văn ngài Triều Hành viết cho ngài Lý Bạch mà chúng ta đã đọc hôm trước?”

“Đúng.”

“Về bức văn của ngài Cao Lực Sĩ, như tiên sinh nói, Huệ Quả A-xà-lê của Thanh Long Tự đã mua lại nó…”

“Đó chính là việc mà tôi muốn nói đến…”

“Việc đó xảy ra khi nào?”

“Nghe nói là không lâu sau khi bà Bạch Linh mất, như vậy tức là khoảng hai mươi năm trước.”

“Nó diễn ra trong hoàn cảnh như thế nào tiên sinh có biết không?”

“Về việc đó…”

Liễu Tông Nguyên liếm môi rồi bắt đầu kể.

Sau khi Bạch Linh mất chừng một tháng, có một người tự xưng là nhà sư của Thanh Long Tự tìm đến.

Sinh thời, bần tăng cũng có chút duyên mọn với bà Bạch Linh, nhà sư đó nói.

“Bần tăng đã định tới đây sớm hơn, nhưng ba hôm trước mới biết bà ấy đã mất.”

Nhà sư xưng tên là Huệ Quả.

Ông ta tụng kinh trước mộ Bạch Linh.

“Chẳng hay, những món đồ tùy thân của bà Bạch Linh nay ở đâu?”

Huệ Quả hỏi như vậy sau khi tụng kinh xong.

Những món đồ mang theo người lúc còn sống của Bạch Linh chẳng nhiều nhặn gì, bà ấy lại cũng không có thân thích, thành thử mẹ Liễu Tông Nguyên đều giữ cả.

“Tất cả đều do tôi giữ.”

“Trong đó có bức văn nào không ạ?”

“Bức văn?”

“Có một bức văn do ngài Cao Lực Sĩ quá cố gửi cho ngài Triều Hành mà tôi hứa với bà Bạch Linh là sẽ giữ nó…”

Hỏi ra mới biết, Bạch Linh đã nói với Huệ Quả về việc mình đang cầm một bức văn như thế. Bạch Linh đã cho Huệ Quả xem bức văn sau khi bộc bạch rằng, đó là một bức văn liên quan đến bí mật của nhà Đường nhưng bản thân lại không biết phải làm gì với nó.

Đọc xong bức văn, Huệ Quả bèn nói: “Đây là một bức văn rất quan trọng. Bà nhất định không được để người khác thấy.”

“Tôi có thể làm được việc đó chừng nào còn sống, nhưng tôi không biết sẽ ra sao sau khi mình chết đi. Đốt nó đi cũng là một cách, nhưng tôi lại muốn giữ nó bên mình như một chỗ nương tựa để tưởng nhớ tới ngài Triều Hành đã khuất.

“Khi chết đi, tôi sẽ tìm cách để bức văn này tới được tay thầy Huệ Quả, lúc đó thầy muốn đốt hay xử trí với nó như thế nào thì tùy ở thầy…”

Bạch Linh đã nói với Huệ Quả như vậy.

“Bà có nghe bà Bạch Linh nói đến bức văn ấy không?”

Mẹ Liễu Tông Nguyên nghe vậy mới chợt nhớ ra bức văn mà Bạch Linh sinh thời có nhắc đến.

“Tôi có nghe nói đến bức văn ấy.”

“Ồ.”

“Bà ấy không dặn tôi phải trao bức văn đó cho thầy Huệ Quả, nhưng có nói rằng nó rất quan trọng.”

“Bà đã đọc nó chưa?”

“Chưa. Tôi chỉ nghe được rằng có một bức văn như thế, chứ nội dung của nó thì tôi không hề biết gì…”

“Vậy bức văn đó hiện giờ ở đâu?”

Nghe Huệ Quả hỏi vậy, mẹ Liễu Tông Nguyên bèn dẫn Huệ Quả vào phòng riêng của Bạch Linh, lấy ra một vài bức văn từ trong ngăn tủ, rồi chìa ra một bức nói.

“Tôi nghĩ chắc là cái này.”

Mở tráp ra thì thấy bên trong là một quyển trục, ở mặt sau nắp tráp có mấy dòng thủ bút của Bạch Linh, đại ý rằng sau khi mình chết thì hãy trao lại cái này cho hòa thượng Huệ Quả ở Thanh Long Tự.

“Phải cái này không thưa thầy?”

Mẹ Liễu Tông Nguyên hơi mở quyển trục ra và liếc nhanh vào đó trong lúc đưa cho Huệ Quả.

“Đúng là nó rồi.”

Huệ Quả cúi xuống đỡ lấy quyển trục.

❖ 3 ❖

“Và thế là Huệ Quả A-xà-lê đã mang cả chiếc tráp có bức văn trong đó đi.” Liễu Tông Nguyên nói.

Trước khi ra về, Huệ Quả rút ra một bọc tiền gói bằng giấy định để lại.

“Tôi không dám lấy tiền của thầy đâu. Vì nó vốn là món đồ mà bà Bạch Linh muốn trao lại cho thầy Huệ Quả.”

Mẹ Liễu Tông Nguyên toan từ chối, nhưng Huệ Quả nói: “Kể thì cũng ngược đời khi một nhà sư như tôi lại nói ra câu này, nhưng xin hãy coi đây là số tiền cúng dường cho bà Bạch Linh…”

Huệ Quả để tiền lại rồi cáo từ.

“Ra là vậy. Thế có nghĩa là bức văn đang ở chỗ Huệ Quả A-xà-lê.” Không Hải cất tiếng.

“Tôi đoán là như vậy. Nếu ngài Huệ Quả chưa đốt nó đi…”

“Và tiên sinh nói, bức văn đó có khả năng liên quan tới vụ việc lần này…”

“Tôi tin rằng có.”

“Tiên sinh đã nói chuyện này với Huệ Quả A-xà-lê chưa?”

Liễu Tông Nguyên buồn bã lắc đầu khi nghe Không Hải hỏi vậy.

“Tôi chưa. Tôi chẳng biết có nên nói ra một chuyện như thế trong hoàn cảnh này hay không. Hay chính lúc này là lúc nên nói ra…”

Liễu Tông Nguyên đột ngột dừng lời, đưa ánh mắt xuống như có điều gì khó nói.

“Tuy nhiên…” Rồi Liễu Tông Nguyên lại lẩm bẩm trong khi mắt vẫn nhìn xuống.

“Vì việc của Vương tiên sinh phải không ạ?” Không Hải đỡ lời.

“Đúng là vậy đó, thầy Không Hải. Ây dà, đúng là vấn đề đó. Tôi đang đau đầu vì nó đây.” Liễu Tông Nguyên ngẩng mặt lên. “Một khi đã kể ra bức văn của ngài Cao Lực Sĩ, thì về mặt logic, sẽ phải kể ra cả bức văn viết bằng tiếng Oa quốc của ngài Triều Hành nữa. Mà nếu vậy thì…”

“Sẽ động chạm tới chuyện rất có thể chính Vương Thúc Văn tiên sinh là người đã đánh cắp bức văn kia.”

“Đúng. Đúng là như vậy.”

“…”

“Tôi không thể đưa ra được quyết định là nên làm thế nào vào lúc này.”

“…”

“Nên bí mật kể hết với Huệ Quả A-xà-lê, hay nên bộc bạch toàn bộ với Vương tiên sinh…”

“Tình trạng của Vương tiên sinh hiện giờ ra sao?”

“Xấu lắm.” Liễu Tông Nguyên trả lời không chút ngần ngại. “Có thể nói là vô cùng xấu. Ông ấy không ăn gì, người gầy xọp. Ban đêm tuy có nằm nghỉ trên giường nhưng chắc là chẳng ngủ được mấy.”

Và hẳn là cũng vì thế mà áp lực đang ngày một đè nặng lên vai Liễu Tông Nguyên.

Bản thân Liễu Tông Nguyên cũng không có vẻ gì là ngủ được mấy. Bọng mắt thâm quầng.

“Tôi phải làm thế nào bây giờ?”

“Tôi cũng không biết Liễu tiên sinh phải làm thế nào bây giờ.” Không Hải trả lời một cách thành thật.

“Nếu Huệ Quả A-xà-lê chưa đốt bức văn của ngài Cao Lực Sĩ thì có lẽ nó vẫn đang ở Thanh Long Tự. Không chừng ta sẽ biết thêm điều gì đó mới mẻ nếu đọc được nó.”

“Huệ Quả A-xà-lê có biết bức văn còn lại không?”

“Nếu là bức văn bằng tiếng nước Oa của ngài Triều Hành thì chưa chắc ngài Huệ Quả đã biết…”

“Nếu vậy thì ta có cơ hội để đọc được bức văn đang trong tay Huệ Quả A-xà-lê.”

“Thầy nói thế nghĩa là sao?”

“Trước nhất, tiên sinh hãy bạch với Huệ Quả A-xà-lê rằng mình đang giữ một bức văn như thế này, rồi đưa cho ngài coi. Tiên sinh cứ thuật lại những gì viết trong bức văn theo lối kể của tiên sinh, sau đó mới dạm hỏi Huệ Quả A-xà-lê rằng nếu thầy còn giữ bức văn của ngài Cao Lực Sĩ thì xin cho tôi xem qua được không.”

“Thầy nói phải. Nhưng có một vài vấn đề.”

“Vấn đề lúc nãy phải không?”

“Thứ nhất là có nói với Huệ Quả A-xà-lê về chuyện rất có thể Vương tiên sinh chính là người đã đánh cắp bức văn ấy hay không.”

“Vâng.”

“Thứ nữa là có nên nói ra giữa lúc Huệ Quả A-xà-lê đang chuyên tâm vào việc cầu đảo hiện giờ hay không.”

“Việc quyết định thế nào không phải do tôi, mà do tiên sinh, người trực tiếp can dự trong chuyện này.”

“Thầy Không Hải nói đúng. Tôi sẽ là người phải ra quyết định.” Liễu Tông Nguyên vừa cắn môi vừa đáp.

“À mà tiên sinh có biết Huệ Quả A-xà-lê đang làm phép gì không?” Không Hải hỏi.

“Chúng tôi không được biết phép đó.” Liễu Tông Nguyên đáp.

“Ngẫm ra thì cũng phải, nếu tiết lộ với người khác, rồi để cho đối phương biết được, thì có thể sẽ bị đối phương chống trả. Mà như thế thì nghiệm lực của tu pháp sẽ suy giảm đi nhiều phần.”

“Hóa ra là vì lý do đó sao?”

“Vâng.”

“Hẳn là có rất nhiều thứ cơ vi trong các phép bùa chú kiểu như thế mà chúng ta không biết được.”

“Đúng vậy. Chẳng hạn như nếu người bị ếm chú, trong vụ việc lần này chính là hoàng đế, biết được rằng mình đang bị ếm chú, thì càng dễ bị dính.”

“Hoàng đế biết mình đang bị ếm chú.”

“Nếu hoàng đế đã biết thì ngài không thể quên chuyện đó đi được, vì vậy điều cần thiết lúc này là phải có một tinh thần mạnh mẽ và tin rằng mình không đầu hàng bùa phép.”

“Huệ Quả A-xà-lê cũng nói như vậy.”

“Vâng.”

“Tôi không biết tên của tu pháp đó, nhưng thấy Huệ Quả A-xà-lê lập một đàn thờ trước phòng hoàng đế, ở chính diện của đàn thờ là một bức tượng với vẻ mặt dữ dằn, còn Huệ Quả A-xà-lê thì ngồi đằng trước làm lễ.”

“À há…” Không Hải gật gù. “Ở trung tâm đàn thờ có dựng một thứ giống như cái ống lớn bằng ngần này phải không?”

Không Hải chắp hai tay vào nhau, rồi mở rộng ra bằng đúng khoảng cách giữa hai đầu vú mình.

“Sao thầy biết rõ vậy?”

“Tu pháp mà Huệ Quả A-xà-lê đang thi triển có lẽ là…”

“Thầy Không Hải, xin hãy chờ một chút. Nếu thầy định nói ra tên của tu pháp ấy thì chúng tôi không cần nghe đâu. Vì công lực của tu pháp sẽ suy giảm nếu chẳng may trong đám chúng tôi có kẻ lộ ra, đúng vậy không?”

“Đúng.”

“Nếu vậy thì chúng tôi không cần nghe đâu.”

“Tôi hiểu rồi.” Không Hải gật đầu. “Tuy nhiên, tôi vẫn phải nói ra điều này. Nếu tu pháp mà Huệ Quả A-xà-lê đang thi triển đúng là thứ mà tôi nghĩ đến, thì đây là thứ tu pháp vô cùng thâm hậu, chỉ có thể vận đến một lần duy nhất cho một đời hoàng đế mà thôi.”

“Lời thầy khiến tôi thấy thật vững dạ.” Liễu Tông Nguyên gật đầu rồi nói tiếp. “À, còn điều mà ban nãy thầy nói đến…”

“Điều gì?”

“Nếu biết được phép bùa chú mà đối phương đang dùng thì ta sẽ có cách để làm giảm nửa phần công lực của nó?”

“Đúng là tôi có nói vậy.”

“Giả sử kẻ địch của chúng ta là tông sư Druj trong câu chuyện ban nãy, thì chúng ta có biết được phép chú của hắn không?”

“Ta đã có được manh mối.”

“Đó là vô số các con vật như chó hay rắn rết… Như vậy thì có thể nghĩ đến phép chú gì?”

“Nếu tu pháp của Huệ Quả A-xà-lê có nguồn gốc từ Thiên Trúc thì, ngược lại, phép chú mà tông sư Druj đang thi triển là của Đường thổ này.”

“Là của nước chúng tôi?”

“Bùa phép của Đạo giáo có hai loại là cổ độc và yểm mị, phép chú lần này dường như là sự kết hợp của cả hai món ấy.”

Cổ độc tức là loại bùa chú mượn sức mạnh ghê rợn của loài vật để nguyền rủa đối phương. Thí dụ, nếu dùng rắn, người ta sẽ chỉ thu thập rắn, hoặc nếu dùng chuột, người ta sẽ chỉ thu thập chuột, sao cho thật nhiều rồi đem bỏ chung vào một cái chum. Sau đó cứ bỏ mặc chúng. Chẳng mấy chốc, lũ rắn và chuột đói bụng bắt đầu ăn đồng loại của mình. Cho đến khi chỉ còn lại một con, người ta sẽ dùng con đó làm bùa chú.

Không Hải giải thích về phép cổ độc.

“Phép này ở Oa quốc chúng tôi gọi là đả thức. ” Không Hải nói.

“Thế còn yểm mị là gì?”

“Đây là phép bùa chú sử dụng hình nhân, người ta nhét tóc hoặc móng tay của kẻ muốn yểm vào trong hình nhân và coi đấy chính là kẻ mà họ muốn yểm, rồi cho vào lửa hoặc đóng đinh lên.”

“Và thầy nói rằng tông sư Druj đang dùng cả hai phép đó?”

“Đúng.” Không Hải gật đầu. “Hơn thế nữa, số lượng của những hình nhân ấy không chỉ là một vài. Cộng với cả lũ chó kia nữa.”

“Lũ chó?”

“Bọn họ chôn lũ chó xuống đất chỉ để thò cái đầu lên, bỏ đói rồi chém đứt đầu chúng. Hẳn là bọn họ mượn oán niệm của lũ chó để tạo thành công lực cho phép chú. Ban nãy tôi có nói rằng đó là phép bùa chú của quý quốc, nhưng nếu nhìn vào cách sử dụng lũ chó như thế, thì xem ra đã có sự kết hợp với phép bùa chú của nước khác nữa rồi.”

“Thầy nói vậy nghĩa là?”

“Đó có thể là phép bùa chú của người Hồ, hay nói cách khác là Ba Tư chăng?”

Khi Không Hải nói đến đó, Liễu Tông Nguyên liền mím chặt môi, khoanh tay: “Hừm…”

“Tôi có cảm giác như đối phương đang dùng đến cả những cách thức mà chính tôi cũng không ngờ tới.”

“Vậy thì nguy to rồi.”

“Tôi biết tiên sinh đang rất mệt mỏi, nhưng mong tiên sinh hãy cố gắng. Còn một điều này nữa, nói ra thì sợ bất kính…”

“Điều gì vậy.”

“Không, nói ra điều này tôi e là quá ngạo mạn…”

“Xin thầy cứ nói ra. Đối với tôi lúc này chẳng có gì là bất kính nữa, tôi đang mong được càng nhiều lời chỉ giáo càng tốt.”

“Ồ không, ý tôi nói là bất kính với Huệ Quả A-xà-lê chứ không phải với Liễu tiên sinh.”

“Thầy cứ nói ra xem nào.”

“Nghe chuyện của tiên sinh lúc nãy, tôi đồ rằng Huệ Quả A-xà-lê cũng đã làm việc đó rồi, tuy nhiên…”

“Việc gì vậy?”

“Chuẩn bị một lượng thịt sống bằng đúng cân nặng của hoàng đế, sau đó lấy của hoàng đế một sợi tóc và nhét vào giữa đống thịt.”

“Ồ.”

“Tiếp đến, bày đồ ăn của hoàng đế lên trên đống thịt và đặt ở cạnh phòng ngủ của ngài…”

“Làm thế để đánh lạc hướng oán niệm của những hồn chó đói?”

“Phải, đúng là như vậy.”

“Hay là tôi sẽ rào trước rằng đây là kế do tôi nghĩ ra, rồi thưa lên với Huệ Quả A-xà-lê?”

Liễu Tông Nguyên nói thế là bởi nghĩ cho Không Hải, vì đằng nào Không Hải cũng sẽ về làm đệ tử của Huệ Quả A-xà-lê.

“Có lẽ cũng không cần phải lo lắng quá. Huệ Quả A-xà-lê hẳn sẽ nghĩ ra cách nào đó hay hơn.”

“Tôi hiểu rồi. Tôi sẽ không làm điều gì khinh suất.” Liễu Tông Nguyên nói, đoạn nhìn sang Không Hải. “Thầy Không Hải này, thật ra hôm nay tôi còn có một việc nữa muốn nói với thầy.” Liễu Tông Nguyên hạ thấp giọng.

❖ 4 ❖

“Việc này có liên quan tới điều thầy Không Hải nói hồi nãy.”

Liễu Tông Nguyên nói đoạn thì ngập ngừng, tuồng như có điều gì khó nói.

“Việc gì vậy thưa tiên sinh?”

“Thầy Không Hải. Cho tới lúc này thầy đã giúp đỡ tôi quá nhiều rồi, giờ lại mở miệng nhờ thầy thêm việc này nữa thật khiến tôi khổ tâm…”

“Có chuyện gì tiên sinh cứ nói ra.”

“Như những gì chúng ta trao đổi, thì việc này xem chừng sẽ rất nguy hiểm cho thầy.”

“Việc tiên sinh muốn nhờ tôi là gì?”

“Ban nãy thầy có nói nếu ta biết được phép bùa chú của đối phương thì có thể làm suy giảm nửa phần công lực của nó.”

“Đúng, tôi đã nói như vậy.”

“Chính là việc ấy.”

“…”

“Tôi muốn nhờ thầy điều tra xem rốt cuộc thì đối phương đang dùng phép bùa chú gì.”

“…”

“Chúng tôi đã nghe thầy giải thích về phép bùa chú sử dụng đầu chó, rắn và các con vật, nhưng như thầy cũng đã nói, có thể đối phương còn toan tính những chiêu thức khác nữa.”

“Vâng.”

“Tôi muốn thầy dò la giúp việc này.”

“…”

“Hơn nữa, cũng mong thầy làm cách nào để không lộ ra với người ngoài về việc hoàng đế đang bị ếm chú. Và như tôi đã nói lúc đầu, việc này sẽ nguy hiểm đến tính mạng của thầy.”

Liễu Tông Nguyên nói liền một mạch.

Không Hải im lặng.

Thế rồi sau khi nhắm mắt lại trong chừng đôi nhịp thở, Không Hải liền mở mắt ra và nhìn sang Dật Thế.

“Không Hải…” Dật Thế nhìn sang Không Hải như muốn hỏi: làm thế nào bây giờ?

Nhưng Không Hải đã mở miệng hỏi trước: “Làm thế nào bây giờ?”

“Cậu hỏi tớ phải… phải làm thế nào… á?” Dật Thế ấp úng.

Nếu Không Hải đồng ý can dự vào chuyện này thì đương nhiên Dật Thế cũng sẽ bị cuốn theo. Thật ra, Không Hải và Dật Thế đã bước nửa chân vào vụ việc, nên theo logic mà nói, thì coi như đã có phần dính dáng.

Nhưng cái gật đầu của Không Hải lúc này mới chính thức là hành động đưa chân. Và khi ấy, đúng như lời Liễu Tông Nguyên nói, Không Hải sẽ bị đe dọa về tính mạng.

Dật Thế cũng vậy.

Đây không phải một việc Không Hải có thể tùy tiện quyết định mà chưa hỏi qua ý kiến Dật Thế. Nếu Không Hải đồng ý can dự trong khi Dật Thế phản đối, thì hai người sẽ không thể gặp nhau thường xuyên như trước nữa.

Vì vậy, lẽ tất nhiên là Không Hải cần phải hỏi ý kiến Dật Thế.

“Cũ… cũng được chứ sao, Không Hải.” Dật Thế đáp.

“Cậu bảo được?”

“Chắc chắn là được.”

“Thật chứ?”

“Thì đương nhiên là thế rồi còn gì.” Giọng Dật Thế đang run khe khẽ.

“Đời nhà Tùy có ngài Tiểu Dã Muội Tử* đi sứ sang Trung Hoa, giúp mở mang mối bang giao giữa hai nước, ấy là năm Thôi Cổ* thứ mười lăm. Phải hai trăm năm sau, Oa quốc mới lại có người can dự sâu vào chuyện quốc gia đại sự của Trung Hoa này, trừ ngài A Bội Trọng Ma Lữ ra, thì chỉ có chúng ta mà thôi.” Dật Thế nói, má đỏ ửng.

(*) Âm Nhật đọc là Ono-no-Imoko.

(*) Niên hiệu của Thiên hoàng thứ 33 (593-628), nữ đế đầu tiên của Nhật Bản.

“Không những thế, đây lại còn là việc bảo vệ tính mạng của hoàng đế. Đối với nho sĩ, vì vua phục vụ chẳng phải là lẽ đương nhiên đấy sao?”

Không Hải nhìn chằm chằm vào Dật Thế, như thể nhìn một thứ gì đó kỳ lạ.

“Như tớ đây, vốn dĩ là một kẻ chẳng mấy hữu dụng, nhưng dẫu có phải để lại nắm xương tàn nơi đất khách vì việc này, thì cũng coi như đã thỏa được chí nam nhi rồi.”

Má Dật Thế đỏ hây hây.

“Hơn nữa…” Dật Thế nhìn sang Không Hải, rồi nói không chút lưỡng lự. “Đằng nào thì chúng ta cũng đã can dự vào rồi còn đâu.”

“Quả đúng như vậy, Dật Thế.” Chờ cho Dật Thế nói xong, Không Hải mới cất lời.

“Mọi chuyện như tiên sinh đã nghe thấy.” Không Hải nhìn sang phía Liễu Tông Nguyên. “Tôi không biết mình có thể làm được đến đâu, nhưng đúng như những gì chúng tôi vừa trao đổi với nhau, chúng tôi sẽ gắng hết sức mình.”

“Khôn xiết cảm tạ thầy, thầy Không Hải.” Liễu Tông Nguyên hạ thấp đầu.

“Xích!” Liễu Tông Nguyên gọi cậu thanh niên đứng cạnh cửa ra vào.

“Dạ.”

Cậu thanh niên tên Xích đáp lời rồi tiến đến trước Không Hải và Dật Thế. Cậu ta có đôi mắt mảnh như một vệt dao bén rạch ngang qua da. Đằng sau đó là hai tròng mắt sắc nhọn như chiếc kim đang chĩa mũi về phía họ.

“Tôi xin giao chàng trai này và Tử Anh, kẻ đã đi ra ngoài từ lúc nãy cho thầy Không Hải. Cả hai đều có chút võ nghệ, giữ bọn chúng bên mình thầy sẽ yên tâm hơn. Trong trường hợp có chuyện cần trao đổi, thầy cứ lệnh cho một trong hai đứa, chúng sẽ lập tức liên lạc với tôi ngay.” Liễu Tông Nguyên nói.

“Có gì xin thầy cứ ra lệnh, thầy Không Hải.” Xích cất tiếng.

Không Hải nhìn Xích, nói: “Được rồi. Có thể ta sẽ có một vài việc nhờ cậu trong chuyện này. Tầm quá ngọ ngày mai cậu và Tử Anh đến chỗ ta ở Tây Minh Tự được chứ?”

“Vâng ạ.” Xích chắp hai lòng bàn tay vào nhau, gật đầu.

❖ 5 ❖

Không Hải và Dật Thế đang thả bộ trên đường về Tây Minh Tự.

Bước chân của những kẻ qua đường mỗi lúc một gấp gáp hơn để về kịp phường mình trước khi tiếng mộ cổ cất lên.

“Không Hải này, như thế liệu có ổn không nhỉ?” Dật Thế hỏi Không Hải.

“Về việc gì?” Không Hải hỏi lại.

“Thì việc ban nãy đó, mình nhận lời thế liệu có ổn không?” Giọng Dật Thế pha lẫn vẻ bất an.

“Ổn thôi.”

“Nhưng chẳng phải sẽ nguy hiểm đến tính mạng sao?”

“Có thể sẽ nguy hiểm.”

“Rất nhiều người đã bị giết dưới tay tông sư Druj rồi đúng không? Kẻ thì tự luộc mình trong vạc sôi, kẻ thì bị cào đứt cổ…”

“Thật là những cái chết thê thảm.”

“Này Không Hải. Không loại trừ khả năng chúng ta cũng có thể chết theo những cách như vậy phải không?”

“Ừ.”

“Lúc nãy tớ lỡ miệng nói ra như vậy, nhưng thật sự thì tớ thấy sợ. Cả lần ấy tớ cũng đã rất sợ…”

Dật Thế vừa nói đến đấy thì tiếng mộ cổ đầu tiên vang lên.

Mộ cổ sẽ kéo dài trong chừng một giờ đồng hồ kể từ lúc này. Tiếng mộ cổ dứt, các cổng phường sẽ đóng lại. Khi ấy, nếu vẫn còn ở ngoài các trục đường chính hay phố lớn thì sẽ bị kim ngô vệ khiển trách hoặc bắt phạt.

“Không Hải này, cậu không thấy sợ à?” Dật Thế nhìn sang Không Hải với ánh mắt trông đợi.

“Yên tâm đi Dật Thế.” Không Hải nhoẻn một nụ cười rồi nói. “Tớ cũng sợ.”

“Cậu nói thế làm tớ thấy yên lòng hơn chút đỉnh.”

“…”

“Nhưng mà Không Hải ạ, tớ không hối hận đâu đấy nhé…”

“Hối hận?”

“Nói gì thì nói, đây là chuyện có can hệ tới tính mạng của thiên tử Đại Đường đấy.”

“Ừ.”

“Như tớ đã nói, Oa quốc, mà không, ngay cả Đường quốc cũng mấy ai được can dự vào những chuyện như thế này?”

“…”

“Hơn thế nữa, bọn mình đang nắm trong tay bí mật về Huyền Tông hoàng đế và Dương quý phi đấy, cậu có hiểu không? Hồi còn ở Oa quốc, tớ chưa từng mơ rằng sẽ có những chuyện khó tin như thế xảy đến với mình.”

“Ừ.”

“Vậy mà nó đã xảy ra.”

“…”

“Giả sử vì can dự vào vụ việc này mà có mệnh hệ gì xảy ra khiến tớ không thể quay trở về cái đất nước nhỏ xíu ấy được nữa, thì đó có thể là chuyện gì?” Dật Thế nói rất to, rồi chợt nghiêm sắc mặt. “Không Hải này, hình như tớ đang hưng phấn quá thì phải.”

“Không Hải à, như tớ đã nói ban nãy, thật ra thì tớ thấy sợ. Bên trong tớ còn có một thằng Dật Thế cảm thấy hối hận vì đã bảo cậu hãy nhận lời. Nhưng niềm tự hào vì được can dự vào một việc quốc gia đại sự như thế còn lớn hơn cả sự hối tiếc. Bên trong tớ vừa có một kẻ khinh mạn cái đất nước nhỏ xíu ấy nhưng lại cũng có một kẻ luôn tưởng nhớ nó…” Giọng Dật Thế nhỏ dần.

“Không Hải ơi, liệu rằng ngày mai, Dật Thế này có còn giữ nguyên suy nghĩ của ngày hôm nay không?”

“Ừm, tớ biết nói sao bây giờ.”

“Sáng mai, khi thức dậy, biết đâu tớ sẽ ngàn lần hối tiếc hơn lúc này vì đã nói ra điều ấy.”

“…”

“Nhưng tớ hiểu rõ một điều, Không Hải ạ.”

“Điều gì?”

“Tuy miệng tớ nói rằng mình đang can dự vào chuyện quốc gia đại sự của đất nước này, nhưng kỳ thực, người can dự không phải là tớ, mà là cậu kìa.”

“Cậu để ý tới chuyện đó làm gì, Dật Thế.”

“Tớ chỉ là một kẻ tình cờ đi cùng cậu mà thôi. Nên tớ thừa hiểu rằng mình lớn tiếng huênh hoang như thế thật chẳng hay hớm gì.”

“Dật Thế à, cậu yên tâm đi.”

“Yên tâm cái gì?”

“Dù là Dật Thế lớn tiếng hay Dật Thế run sợ, dù là Dật Thế khinh mạn hay Dật Thế luôn tưởng nhớ cái đất nước nhỏ xíu ấy, và ngay cả cậu, kẻ đang đứng trước mặt tớ lúc này, thảy đều là một Dật Thế. Chẳng một Dật Thế nào trong số ấy không phải là cậu. Dật Thế nào cũng cần thiết cả.”

“…”

“Chẳng ai có thể giữ Dật Thế này, bỏ Dật Thế kia. Cả cậu lẫn tớ. Sự kết hợp một cách trọn vẹn tất cả mới chính là Quất Dật Thế.”

“…”

“Kể từ lúc tới đất nước này, tớ luôn cảm thấy mình thật may mắn khi có cậu ở bên. Tớ chưa từng nghĩ đến việc vào lúc nào thì mình cần Dật Thế này mà chẳng cần Dật Thế kia.”

“Cậu nói thật hả?”

“Yêu Mật có nghĩa là yêu toàn bộ trời đất - vũ trụ này. Không hề có chuyện cái nào là thanh khiết cái nào không, cái nào là đúng đắn cái nào không.”

“Nghĩa là sao?”

“Chẳng hạn, cậu có thấy bông hoa đào nở đằng kia không?”

Không Hải chỉ tay về phía cây hoa đào nở muộn bên lề phố lớn trong buổi chiều tà.

“Có. Tớ có thấy, nhưng thế thì sao Không Hải?”

“Cậu nhìn này, dưới chân chúng ta có một hòn sỏi nhỏ.”

Không Hải dừng lại, trỏ tay xuống hòn sỏi nhỏ dưới chân Dật Thế.

“Sao nào?” Không Hải hỏi.

“Sao nào là sao hả Không Hải?” Dật Thế thấy vậy cũng đứng lại theo.

Những khách bộ hành vội vã phía sau đưa ánh mắt khó hiểu về phía hai người Oa quốc tới từ phương Đông trong lúc vượt lên trước họ.

“Hòn sỏi này và bông hoa đào đằng kia, bên nào đúng, bên nào sai?”

Có vẻ như Dật Thế nhất thời chưa hiểu ra chuyện gì khi bị Không Hải hỏi như thế.

“Cậu bảo sao?” Cậu ta hỏi lại.

“Tớ đang hỏi cậu, hòn sỏi này và bông hoa đào đằng kia, bên nào đúng, bên nào sai?” Không Hải vừa tủm tỉm cười thích thú vừa hỏi lại.

“Tớ không hiểu lắm câu hỏi của cậu, nhưng mà hỏi như thế chẳng phải vô lý lắm sao?”

“Ồ.”

“Làm sao tớ có thể trả lời được là hòn sỏi và bông hoa đào bên nào đúng bên nào sai?”

“Đúng vậy, Dật Thế.” Mặt Không Hải dãn ra. Cậu lại tiếp tục bước đi. “Mọi thứ tồn tại trong vũ trụ này không phân biệt trên dưới.”

“…?”

“Có thể nói, mọi thứ tồn tại trong trời đất này đều đúng.”

“Ừm…”

“Nếu sự tồn tại của bông hoa đào kia là đúng thì sự tồn tại của hòn sỏi nhỏ vừa rồi cũng đúng. Nếu sự tồn tại của hòn sỏi nhỏ ấy là đúng, thì sự tồn tại của bông hoa đào kia cũng đúng.”

“Ừm…”

“Khi ta nói cái này đúng cái kia sai, thì đó không phải nói theo lẽ của trời đất. Mà là nói theo lẽ của con người.”

“Ừm.”

“Phân biệt đúng sai, ấy là lý lẽ của con người.”

“Ừm.”

“Nói cách khác, nếu hòn sỏi nhỏ ấy là đúng thì ngay cả một con rắn độc cũng là đúng.”

“…”

“Nếu bông hoa đào kia là đúng thì ngay cả bãi cứt chó ven đường cũng là đúng.”

“…”

“Nói rằng vì hoa đào thơm nên đúng, cứt chó thối nên sai, ấy là lý lẽ của con người.

“Ư hừm.”

“Giáo lý của Mật dạy, hãy luôn thét lên với linh hồn ta rằng, mọi thứ trong trời đất này đều là đúng. Hãy ôm trọn tất thảy những gì tồn tại nơi vũ trụ này trong đôi tay ta…”

“…”

“Bằng cách đó, ta sẽ hiểu.”

“Hiểu cái gì?”

“Hiểu rằng khi ta ôm trọn vũ trụ trong vòng tay, thì chính ta cũng được vũ trụ này ôm trọn trong nó cùng với những thứ khác.”

Nói đến đó, Không Hải dừng lời và nhìn sang Dật Thế.

“Không Hải à,” Dật Thế cất tiếng. “Trong lúc nghe cậu nói, tớ tưởng mình đã lờ mờ hiểu ra một chút gì đó, nhưng hóa ra tớ lại chẳng hiểu gì hết…”

“Vậy à?”

“Hay là cậu muốn nói, đối với cậu thì tớ là một con rắn độc?”

“Tớ đâu có nói thế.”

“Tớ có cảm giác mình bị nói là bãi cứt chó.”

“Tớ không nói thế.”

“Hừm.”

“Tớ chỉ nói thật may mắn khi có cậu, một Dật Thế trọn vẹn và đầy đủ, ở đây.”

“Nhưng cách cậu nói mới rối óc làm sao.”

“Đâu có.”

“Đúng thế còn gì.”

“Đâu mà.”

Không Hải cười.

Dật Thế cũng bật cười theo.

“Ôi trời ơi…” Dật Thế bỗng thốt lên trong lúc bước đi.

“Sao vậy, Dật Thế?”

“Tớ lại có cảm giác bị cậu lừa phỉnh trong lúc chưa kịp hiểu gì.”

“Tớ đâu có lừa cậu.”

“Tớ chỉ nói là tớ có cảm giác ấy mà thôi. Nhưng cậu đúng là một gã kỳ lạ, Không Hải ạ.” Dật Thế buông một tiếng thở dài đầy suy tư.

“Sao nào?”

“Cậu lúc nào cũng là cậu.”

“Cậu chẳng phải lúc nào cũng là cậu hay sao?”

“Đừng lấy tớ ra làm trò đùa nữa. Tớ đang định cảm ơn cậu đây.”

“Cảm ơn?”

“Phải, chính vì cậu lúc nào cũng là cậu, nên tớ mới cảm thấy như trút được gánh nặng.”

“Ừm.”

“Nhưng đến lúc này, càng nghĩ thì lại càng thấy thật là…”

“Sao thế?”

“Tớ không khỏi có cảm giác như bọn mình đã sa chân vào một việc thật đáng sợ.”

Dật Thế nói, vẻ mặt như người vừa tỉnh cơn say.