Chương XXXIII Người diễn trò ở Đôn Hoàng
1
Câu chuyện của Bất Không Tam Tạng.
Tôi sinh ra ở miền đất phía Bắc Thiên Trúc, có cha là Người Bà La Môn, mẹ là Người Khang Cư*.
(*) Khang Cư là một quốc gia du mục, được cho là nằm ở phía Nam Kazakhstan hiện nay.
Tôi theo mẹ sang Đại Đường từ khi còn nhỏ. Chúng tôi vượt qua một vài quốc gia sa mạc, nhiều con sông và đến được đất nước này năm tôi lên mười tuổi.
Tôi và mẹ ở lại Đôn Hoàng chừng ba tháng, lần đầu tiên tôi gặp Hoàng Hạc chính là ở Đôn Hoàng.
Như ngài cũng biết, Đôn Hoàng là nơi giáp ranh giữa Đại Đường và nước Hồ, bóng dáng Người Hồ ở đây còn nhiều hơn cả Trường An.
Ra chợ sẽ thấy bán rất nhiều món hàng của Hồ như thảm, bình lọ, quần áo. Bản thân là Người Thiên Trúc nên tôi cảm thấy tò mò với Người Đường và cảnh vật của nước Đường hơn là những món đồ mà Người Hồ buôn sang, nhưng tôi sẽ không nói kỹ về chuyện này.
Ở chợ, ngoài hàng hóa còn có rất nhiều người diễn trò đường phố để kiếm tiền.
Người nuốt lửa.
Người nuốt kiếm.
Người diễn trò ảo thuật.
Người nhảy múa.
Người bắt khỉ diễn trò để xin tiền.
Người gảy nguyệt cầm năm dây và hát.
Người Hồ có, người Đường có, chợ ở Đôn Hoàng là nơi kiếm tiền của những kẻ diễn trò đường phố ấy.
Trong những kẻ diễn trò đường phố ấy có hai người: một chàng trai suýt soát ba mươi tuổi và một cô gái vừa qua tuổi hai mươi.
Tôi ra chợ một mình và bắt gặp hai người ấy. Ban đầu tôi thấy có một đám đông hơn những chỗ khác, tò mò, tôi lách qua chân mọi người để lên phía trước thì thấy họ.
Hai người đứng xây lưng về phía một cây hòe và quay mặt về phía đám đông.
Có thể nhận ngay ra họ là người Hồ, nhờ màu mắt, màu da và sống mũi cao.
Đó đều là những đặc trưng của người Hồ. Y phục trên mình, đôi giày cao cổ họ mang cũng là của người Hồ.
Tôi nhớ rõ đến vậy là vì họ đang diễn một trò đáng sợ.
Đầu tiên, chàng trai chào khán giả, cùng lúc đó cô gái đứng tựa lưng vào cây hòe. Thế rồi chàng trai lấy trong bọc áo ra mấy con dao găm.
Tất cả là ba con.
Chàng trai vừa mỉm cười vừa ném con dao găm đi bằng một động tác dứt khoát.
Có nhiều tiếng thét lên từ đám đông đứng xem.
Con dao găm rời khỏi tay chàng trai, cắm phập vào gốc cây ngay sát má trái của cô gái.
Con dao găm tiếp theo cắm phập vào gốc cây ngay sát má phải của cô gái.
Nếu chỉ trượt tay một li thôi thì con dao có thể sẽ cắm thẳng vào mặt cô gái.
Khi diễn những trò như vậy, đa phần người diễn đều biểu lộ một nụ cười trên gương mặt, nhưng những nụ cười ấy thường chỉ là vẻ bề ngoài nên hầu hết đều gượng gạo.
Tuy nhiên, nụ cười của chàng trai và cô gái này, thật không thể miêu tả nổi, như thể tỏ ra cực kỳ thích thú với việc họ đang làm.
Trong tư thế bị kẹp bởi hai con dao găm bên hai má, cô gái cử động tay phải, lấy từ bọc áo ra một trái lê.
Chắc hẳn lúc ấy ai cũng nghĩ rằng cô sẽ đặt nó lên đỉnh đầu. Phi con dao găm cho xuyên qua trái lê trên đỉnh đầu cô gái là một màn cao trào.
Nhưng cô gái không đặt nó lên đỉnh đầu, mà xem kìa, cô ngậm nó ở trong miệng. Sau đó chàng trai cầm lấy lưỡi dao, chuẩn bị tư thế. Nghĩa là, anh ta sẽ phi con dao găm về phía quả lê trong miệng cô gái.
Thật không thể tin được.
Cứ cho là chệch sang hai bên thì không sao, nhưng nếu chệch lên trên hoặc xuống dưới, con dao sẽ găm vào mặt hoặc họng cô.
Tay nghề của chàng trai thì như đã thể hiện, dẫu có lệch cũng chỉ lệch đi chút ít, chứ chắc chắn không thể chệch hẳn lên phần nửa trên mặt cô gái được.
Vì vậy, trường hợp đáng sợ nhất là, mặc dù con dao trúng vào trái lê, nhưng nó lại xuyên qua trái lê vào thẳng cổ họng cô gái.
Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ rõ những tiếng rú to từ trong đám đông đứng xem lúc chàng trai ném con dao đi. Chàng trai ra tay nhanh tới nỗi có thể nghe thấy tiếng xé gió, nhưng con dao lại không bay nhanh như động tác của cánh tay. Nó không bay thẳng, mà vẽ thành một đường cầu vồng trong không trung, lao chéo từ trên xuống và cắm phập vào quả lê trong miệng cô gái.
Đám người đứng xem nhốn nháo hết cả lên. Kẻ thì hú hét, kẻ thì vỗ tay, kẻ thì tung tiền.
Chứng kiến cảnh tượng ấy, tôi cũng thấy bội phần kinh ngạc.
Hơn nữa, khi cô gái cầm lấy trái lê và đưa cho mọi người xem thì mũi dao chỉ thò mớm ra khỏi trái lê chút đỉnh, không đủ để gây thương tích cho vòm miệng cô. Cô gái rút con dao ra và ném trả chàng trai. Chàng trai bắt lấy con dao trong không trung, rồi lại đứng vào tư thế.
Đám đông đứng xem đổ dồn ánh mắt về phía họ: tiếp theo là trò gì đây? Hành động của cô gái sau đó còn đáng kinh ngạc hơn nữa. Cô áp trái lê lên trán mình.
Thật không thể tin nổi.
Ở vị trí này, dù mũi dao trúng vào trái lê với một lực vừa phải như ban nãy thì cô gái cũng sẽ không tránh khỏi bị thương. Mũi dao dẫu chỉ xuyên qua chút đỉnh, song lần này không phải là trong khoang miệng rỗng, nên phần xuyên qua ấy có thể găm vào trán khiến cô bị thương, thậm chí còn giết chết cô.
Sự nhốn nháo của đám đông lắng xuống một cách nhanh chóng.
Như chỉ chờ có vậy, chàng trai liền ném con dao đi. Nhưng anh ta không làm động tác ra tay nhanh như ban nãy nữa, mà chỉ chu môi bật khẽ một tiếng gió lúc ném dao.
Con dao lại găm trúng trái lê một cách hoàn hảo.
Tuy nhiên, với sự điêu luyện vượt bậc của chàng trai này, đám đông đứng xem đều biết con dao sẽ găm trúng trái lê. Họ không có gì phải lo lắng về điều đó. Điều mà họ lo lắng, hoặc giả mong đợi le lói là liệu mũi dao có xuyên qua phía bên kia trái lê hay không.
Trong một vài tích tắc, cô gái không cử động. Cô không thở, nét mặt cũng không thay đổi.
Nhưng rồi đôi môi cô nhoẻn một nụ cười.
Lúc cô lấy trái lê xuống khỏi trán và đưa cho đám đông xem thì tất cả đều ồ lên.
Mũi dao dừng lại một cách hoàn hảo bên trong trái lê.
Khỏi phải nói, lần này thì những tiếng tán thưởng nhiều hơn hẳn lúc trước, tiền cũng được ném ra nhiều hơn hẳn lúc trước.
Nhưng tôi thì để ý thấy một việc.
Mọi người có vẻ không nhận ra, nhưng tôi nhận ra. Ấy là khi hứng lấy con dao găm bay trong không trung tới trái lê, cô gái đã có những chuyển động rất nhỏ.
Chẳng hạn, đúng vào khoảnh khắc đón lấy con dao rơi theo đường cầu vồng xuống trái lê đang ngậm trong miệng, cô đã hơi ngửa mặt lên. Bằng cách ấy, cô khiến cho người ta tưởng như con dao vốn bay theo đường cầu vồng đã cắm vào trái lê theo hướng vuông góc.
Hay như lúc hứng mũi dao với trái lê đặt trên trán, cô đã hơi giật đầu về phía sau để làm giảm xung lực của mũi dao.
Nhưng đó đều là những động tác rất khẽ.
Tất nhiên phải nói rằng, cô gái không thể làm được điều đó nếu không có sự điêu luyện vượt bậc của chàng trai.
Sau hôm ấy, tôi còn gặp đôi trai gái người Hồ này đôi ba lần nữa, nhưng đến một ngày thì đột nhiên không còn thấy họ đâu. Tôi đoán họ đã chuyển đến một vùng đất khác. Dù được ưa thích đến mấy, nhưng nếu ở lâu một chỗ và diễn mãi một trò, thì rốt cuộc người ta cũng sẽ chán.
Nhưng thực tế không phải vậy. Sau này tôi mới biết họ vẫn ở Đôn Hoàng, nhưng thời điểm ấy tôi còn đang bận tâm đến một sự kiện khác đã được thông báo từ lâu. Ấy là chuyến tuần du của vị thiên tử trẻ nhà Đường là Huyền Tông hoàng đế đến Đôn Hoàng.
❖ 2 ❖Đó là năm Khai Nguyên thứ hai, hai năm sau khi ngài Huyền Tông lên ngôi hoàng đế Đại Đường ở cái tuổi hai mươi chín trẻ trung.
Loạt bích họa mà ngài Huyền Tông sai các họa sư vẽ ở một trong các hang động Thiên Phật nhân dịp ngài lên ngôi nay đã hoàn thành. Huyền Tông hoàng đế tới Đôn Hoàng để thưởng lãm những bức họa đó.
Những bức họa được đánh giá là vô cùng xuất sắc nên tôi, dù là một đứa trẻ thơ, cũng ấp ủ mong muốn được chiêm ngưỡng chúng từ lâu, nhưng người ta không cho dân chúng xem chừng nào Huyền Tông hoàng đế chưa ngự lãm xong. Huyền Tông hoàng đế ngự giá tới đây thì có nghĩa là chúng tôi sẽ được xem chúng.
Quả là sau đó tôi đã được chiêm ngưỡng những bức họa, và đúng như lời đồn, những bức họa ấy thật xuất sắc.
Các bức họa được vẽ theo đề tài trong Pháp hoa kinh, Quán vô lượng thọ kinh và một số kinh khác. Bức về phẩm Hóa Thành Dụ trong Pháp hoa kinh, chà chà, mới thật hoàn hảo làm sao, cả một mặt tường là màu xanh biếc lộng lẫy.
Bức họa kể về câu chuyện người dẫn đường đã dùng phương tiện* để truyền hy vọng và sức mạnh cho đoàn lái buôn khi các thành viên trong thương đoàn kiệt sức bởi chặng đường dài đi tìm những món đồ quý giữa sa mạc. “Ngay phía kia của sa mạc đã là một kinh đô tráng lệ như mơ rồi!” Thế là đoàn lái buôn lại có được sức lực để tiếp tục tiến bước. Những rặng núi trùng điệp đằng xa có hoa nở bạt ngàn. Một kinh đô được bao quanh bởi bức tường thành có cây cối đẹp tươi.
(*) Phương tiện trong Phật giáo có nghĩa là phương pháp thuận tiện (tạm thời) dùng để dẫn dắt chúng sinh đến với những giáo lý chân chính.
Đây có lẽ chính là tham vọng muốn giành lấy Đại Đường về tay mình của ngài Huyền Tông.
Ngồi ở chính giữa trong bức họa về Quán vô lượng thọ kinh là A Di Đà Như Lai.
Cung điện ở cõi Tịnh độ vô cùng trang nghiêm, thanh khiết, xung quanh là vườn tịnh độ có bài trí Quan Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát, Phi Thiên*, Vũ Nhạc Thiên*, Ca Lăng Tần Gia* cùng chư thần.
(*) Là những thiên nhân bay quanh và tán tụng chư Phật.
(*) Tiên nữ múa hát.
(*) Phiêm âm tiếng Phạn là karavinka, một sinh vật nửa người nửa chim, có tiếng hót rất hay, thường được ví với giọng nói của Phật.
Bên cạnh đó còn có hình Đại Thế Chí Bồ tát lớn bằng người thật.
Trong kinh có chép: “Bồ tát dùng ánh sáng trí tuệ, soi sáng khắp cùng tận, giúp chúng sinh lánh xa ba đường ác, để đạt được sức mạnh vô thượng. Vì thế gọi là Bồ tát, lấy tên là Đại Thế Chí.”
Trong bức họa, Bồ tát đội một chiếc mũ báu có dây tua dài rủ xuống, mình mặc tăng kỳ chi*, áo vạt dài, khoác một tấm thiên y từ cánh tay xuống đến đầu gối, ngực đeo chuỗi anh lạc*. Dung mạo của ngài sao mà thanh tú, phúc hậu đến vậy.
(*) Chuỗi hạt quý.
(*) Loại áo lót, phủ hai vai và nách cho tì khưu.
Đây chắc chắn là những bức họa hiếm có trong vô vàn các bích họa Phật giáo ở động Thiên Phật.
Ngay cả bây giờ nghĩ lại, tôi cũng không nghi ngờ gì về việc ngài Huyền Tông vẫn thường so sánh A Di Đà Như Lai ở cõi Tịnh độ với bản thân mình.
Thế rồi lần tiếp theo tôi trông thấy đôi trai gái ấy là khi Huyền Tông hoàng đế vẫn còn ở Đôn Hoàng.
Tôi đang trên đường về nhà sau khi đi đến khu chợ nằm ngoài rìa thị trấn để mua đề hồ. Dưới gốc cây hòe lớn mà đôi trai gái ấy từng diễn trò có mấy người đàn ông đang tránh nắng cùng với chiếc xe bò kéo chất đầy dưa.
Có bốn người đàn ông.
Họ đang bổ dưa và ăn say sưa. Phải ít lâu nữa mới vào vụ dưa, nhưng dưa của họ quả quả nào nấy đều căng mọng, mùi thơm ngọt đưa tới tận chỗ tôi.
Có một chàng trai đang đứng trước mặt mấy người đàn ông ăn dưa và nói gì đó với họ. Tôi vẫn nhớ gương mặt ấy. Đó là chàng trai diễn trò ném dao về phía cô gái. Nhưng chàng trai chỉ có một mình mà không thấy bóng dáng cô gái ở gần đó.
Tôi hơi lấy làm lạ nên dừng lại. Bởi vì gương mặt của chàng trai ném dao nom mệt mỏi và gầy guộc.
“Tôi xin các anh. Các anh hãy để lại cho tôi một quả dưa.”
Người đàn ông ném dao cúi đầu lia lịa, khẩn thiết van nài mấy người đàn ông đang ăn dưa.
“Không có tiền thì không được.” Họ nói.
“Tiền thì đây ạ…” Chàng trai ném dao lấy một ít tiền từ trong bọc áo đưa cho họ xem.
“Không đủ đâu.”
“Bằng ấy tiền thì không bán được đâu.”
“Dưa này là để cung tiến hoàng đế cơ mà.”
“Thôi quên đi.”
Những người đàn ông trả lời cụt lủn.
“Vợ tôi bị bệnh, chỉ ngủ li bì. Suốt thời gian ấy tôi đã tiêu cạn chỗ tiền tích lũy được, hai ngày nay cô ấy chưa có gì vào bụng.”
Tôi đoán rằng vợ anh ta chính là cô gái ngậm lê trong miệng.
“Sáng nay cô ấy bảo có thể ăn được dưa, nên tôi mới ra chợ tìm dưa, nhưng vì chưa đến vụ nên chẳng có tiệm nào bán dưa cả. Tôi sắp phải bỏ cuộc thì nhìn thấy các anh.”
“Bị bệnh thì đáng thương thật, nhưng chúng tớ có làm cho bà xã cậu bị bệnh đâu.”
“Xin các anh để lại cho tôi một quả thôi…”
“Không được. Nghe nói dưa này là món khoái khẩu của hoàng đế, nên chúng tớ mới bằng mọi cách để dưa chín kịp vào dịp này. Mất bao công sức, hơn nữa số lượng đã được kiểm đếm cả rồi.”
“Thế chỗ dưa các anh đang ăn thì sao?”
Câu hỏi ấy khiến những người đàn ông chưng hửng.
“Đây là chỗ dưa chúng tớ được phép ăn từ đầu rồi, nên không còn thừa ra cho cậu nữa đâu.”
Nói rồi, họ nhổ hạt xuống đất.
Chàng trai ném dao đứng im lặng hồi lâu, cuối cùng anh ta cất tiếng.
“Vậy cho tôi xin những cái hạt các anh vừa nhổ ra được chứ?”
“Ồ, hạt thì cậu muốn lấy bao nhiêu cũng được.”
“Không, tôi không cần nhiều, chỉ cần một hai hạt thôi…”
Chàng trai ném dao nhặt mấy hạt dưa rơi trên mặt đất lên, cầm lấy cây gậy gần đó, ngoáy đầu cây gậy xuống đất để tạo thành một cái lỗ. Anh ta thả những cái hạt vừa nhặt lên vào trong lỗ, rồi lấp đất lại.
Những người đàn ông nhìn chàng trai ném dao vẻ tò mò: không hiểu anh ta đang định làm gì?
Một vài người qua đường cũng dừng chân bởi ánh mắt tò mò của mấy người đàn ông kia. Rồi người đến xem mỗi lúc một đông.
Chàng trai ném dao lấy chiếc túi da đeo bên hông, mở miệng túi, và hơi nghiêng sang một bên. Nước rỏ ra từ trong túi, rơi xuống chỗ đất vừa lấp lên bên trên những cái hạt.
“Nào, hãy nảy mầm, hãy nảy mầm…”
Chàng trai ném dao lẩm bẩm khe khẽ.
Thế là lập tức…
Từ bên trong lớp đất ướt sẫm, một màu xanh non tơ, bé xíu chui ra.
“Xem kìa, nó trồi lên rồi, mầm trồi lên rồi.”
Quả nhiên đó là một cái mầm.
Chắc chắn những người đứng xem cũng nhận thấy điều ấy.
“Ồ!”
“Lên rồi.”
“Một cái mầm.”
Có những tiếng hưởng ứng như vậy từ trong đám đông.
Những người đàn ông vừa ăn dưa vừa quan sát chàng trai ném dao cũng ồ lên.
“Đúng thật!”
“Nảy mầm rồi kìa.”
“Lớn lên, lớn lên…”
Chàng trai nói vọng xuống cái mầm, thế là cái mầm lớn lên trông thấy.
“Thế, thế, lớn lên, lớn lên…”
Cùng với giọng nói của chàng trai, cái mầm vươn dài ra thành thân dây leo bò trên mặt đất, lá trổ tốt um.
“Xem kìa, hoa nở rồi.”
Đúng như lời chàng trai, hoa bắt đầu nở ra giữa những kẽ lá.
“Chà!”
“Ồ!”
Những tiếng xuýt xoa, tấm tắc vẳng lại từ đám đông đứng xem.
Thế rồi hoa rụng xuống…
“Nào, trái sẽ đơm ra, đơm ra, đơm ra…”
Chàng trai vừa cất giọng thì chỗ hoa nở ban nãy bắt đầu ra trái.
“To ra nào, to ra nào…”
Trái càng lúc càng lớn theo giọng nói của chàng trai.
“Đó, trái đã chín rồi này.”
Thật không thể tin được, giữa đám lá lúc lỉu bao nhiêu là dưa.
“Ồ!”
“Dưa to quá kìa!”
Những người đứng xem kêu lên.
“Để xem nào…” Chàng trai rút con dao găm đeo bên hông ra, cắt lấy một quả dưa. “Phần của tôi chỉ một quả này là đủ…”
Nói đoạn, anh ta nhìn những người đứng xem.
“Nếu không ngại, xin mời các vị mỗi người nhận lấy một quả.”
“Nhận lấy, tức là mua sao?”
“Khỏi cần tiền. Tôi tặng các vị.”
Vậy là những người đứng xem liền đổ xô đến chỗ chàng trai.
“Các vị không cần phải vội. Số lượng có đủ cho các vị.”
Chàng trai cắt dưa khỏi cành bằng dao găm, lần lượt đưa cho những người đứng xem.
Sau khi đã đưa đến trái cuối cùng, anh ta mới nhặt quả dưa dưới chân mình lên.
“Đa tạ các anh!”
Anh ta kính cẩn cúi đầu chào mấy người đàn ông chở dưa.
Họ ớ người ra, không một ai kịp chào lại chàng trai ném dao găm.
Chàng trai ném dao cúi chào họ một lần nữa.
“Xin cáo lỗi.”
Rồi anh ta xoay lưng bước đi.
Tôi không lấy quả dưa nào, từ đầu chí cuối chỉ đứng quan sát quang cảnh ấy. Thế rồi sự việc rầm rĩ đã xảy ra ngay sau đó.
“Dưa đâu rồi!”
Một người đàn ông trong đám kêu toáng lên.
“Gì cơ!?”
“Sao!?”
Đám đàn ông đang nghỉ ngơi trong bóng râm lần lượt ngẩng lên.
“Nhìn đi, dưa đã biến đâu mất cả.”
Người đàn ông đầu tiên cất tiếng chỉ vào chiếc xe kéo.
Nhìn ra thì số dưa chất đầy trên chiếc xe kéo trước đó đã biến mất không còn một quả.
“Có chuyện gì vậy?”
“Làm sao mà dưa lại biến mất được?”
“Trời ơi, dưa cung tiến hoàng đế đó!”
Thế rồi một người trong đám nhốn nháo ấy liền hét lên như nhận ra điều gì.
“Chính là thằng đó.”
“Thằng đó là thằng nào?”
“Cái thằng xin dưa lúc nãy. Thằng đó đã làm chúng ta u mê, hoặc dùng huyễn thuật và chia dưa của chúng ta cho đám đông đứng xem.”
Người đàn ông đó nói đúng.
Thật ra, đến giữa chừng thì tôi đã nhìn thấy toàn bộ những gì mà chàng trai ném dao đó đang làm.
Điều khiến tôi lấy làm lạ là, khi anh ta nói: “Xem kìa, hoa nở rồi,” thì trông ra đúng là có hoa nở.
Lúc ấy tôi đã nghĩ bụng: chuyện này thật là lạ, không thể nào như vậy được.
Thế rồi tôi để ý đến một chi tiết. Ấy là hễ khi nào tôi trông thấy hạt nảy mầm hay thân dây leo dài ra, thì tức là ngay trước đó, chàng trai ném dao vừa nói ra câu ấy.
Anh ta nói: nảy mầm, thế là tôi trông thấy hạt nảy mầm; anh ta nói: lớn lên, thế là tôi trông thấy dây leo dài ra; anh ta nói: nở rồi, thế là tôi trông thấy bông hoa nở ra.
Tôi đoán chàng trai ném dao đã dùng lời nói để khiến cho những người đứng xem mắc vào một thứ thuật nào đó.
Thế rồi tôi nhắm mắt, hít thở vài lần cho tâm khí lắng dịu, sau đó lại mở mắt ra thì không thấy thân dây leo đâu nữa, chỉ thấy một nhúm cỏ xanh anh ta nhổ về từ đâu đó vương vãi trên mặt đất ướt dưới chân anh ta.
Khi chàng trai bắt đầu chia dưa cho những người đứng xem, tôi nhìn thấy anh ta với tay nhặt lấy từng quả dưa trên xe rồi đưa cho họ. Nhưng trong con mắt của những người đứng xem thì anh ta đang cắt dưa từ dây leo.
Đó là lần đầu tiên tôi biết trên đời có người làm được chuyện ấy bằng cách lợi dụng sự lơ là trong tâm trí của kẻ khác.
❖ 3 ❖Thế rồi…
Lần tiếp theo tôi nhìn thấy chàng trai ném dao ấy là bốn hôm sau.
Tôi cùng với mẹ đi tới động Thiên Phật để xem những bức họa mới. Ngài Huyền Tông đã ngự lãm xong nên giờ đây chúng tôi được phép xem chúng.
Chúng tôi khởi hành từ sớm và đến động Thiên Phật vào buổi trưa.
Phía trước động Thiên Phật có một dòng sông vắt ngang. Đứng bên này sông có thể nhìn được toàn cảnh động Thiên Phật. Người ta đào những hang động xuyên vào vách đá, làm những con đường nối liền các hang và bắc thang lên đó. Nếu muốn, người ta có thể lên tới bất cứ hang đá nào, nhưng số lượng hang quá nhiều, nên hồi ấy tôi chẳng thể phân biệt được hang nào với hang nào.
Tôi mải miết ngắm nhìn khung cảnh tuyệt diệu đó trong lúc đi qua sông, thế rồi tôi nhận thấy một đám đông ở quảng trường trước mặt động Thiên Phật. Trong đó có cả những người đi hành lễ và những tăng già sống ở động Thiên Phật này, nhưng nổi bật hơn cả là những binh sĩ mặc giáp trụ uy nghi và những người ăn vận lộng lẫy. Hóa ra những người sống trong cung đình ở kinh sư mà tôi chưa từng nhìn thấy lại có bộ dạng như thế này. Nhưng tôi chỉ nhìn thấy đám đông, từ bên ngoài tôi không trông thấy người ta đang làm gì trong cái vòng người ấy.
Tôi tận dụng lợi thế là một đứa trẻ, để mẹ mình lại đó, lách người qua giữa đám đông. Mặc dù bị đạp, bị mắng không thương tiếc, nhưng điều đó cũng không thắng nổi lòng hiếu kỳ của tôi.
Rốt tôi cũng vào được đến vòng trong cùng.
Ở đó, tôi được chứng kiến một cảnh tượng. Một chàng trai và một cô gái đang đứng giữa vòng vây của quân lính. Tôi biết mặt hai con người ấy.
Đó là chàng trai ném dao găm và vợ anh ta.
Huyền Tông hoàng đế đang ngồi trước mặt họ, trên chiếc ghế thếp vàng xa hoa.
Sau lưng, tả hữu hoàng đế có nhiều người quyền quý vây quanh, đang cùng với hoàng đế nhìn chằm chằm vào đôi trai gái ấy.
Người mặc bộ áo giáp và đeo món binh khí đẹp nhất trong đám quân lính hỏi chàng trai ném dao găm.
“Vậy là chính ngươi đã ăn cướp số dưa cung tiến lên hoàng đế phải không?”
“Vợ tôi bị bệnh và muốn ăn dưa.”
Chàng trai ném dao trả lời.
“Tôi chỉ lấy có một quả trong số đó, còn lại tất cả là…”
Anh ta vừa nói đến đó thì…
“Tóm lại là ngươi đã ăn cướp chứ gì!”
Người đàn ông mặc bộ giáp trụ đẹp đẽ nhấn mạnh.
“Nhưng tôi…”
“Đã ăn cướp hay là không!?”
“Tôi đã lấy.”
“Tại ngươi mà ngài Huyền Tông không được ăn dưa. Đây là tội khi quân phạm thượng.”
“…”
“Ta nghe kể ngươi đã dùng một phép huyễn thuật lạ.”
“…”
“Nghe nói ngươi có thể làm cho dưa đơm ra vô số trái sau khi gieo hạt xuống dưới đất, ngươi có thể làm tại đây không?”
“Tôi không thể.”
“Sao?”
“Để làm việc đó cần phải có hạt. Nếu không có hạt dưa thì tôi không thể.”
“Có hạt hay không thì cũng là yêu thuật. Ngươi có thể làm được mà không cần hạt đúng không?”
“Không ạ. Dù là yêu thuật hay huyễn thuật thì cũng không thể làm được nếu không có hạt.”
“…”
Lần này, người mặc giáp trụ im lặng.
Đúng lúc đó có một vị quyền quý nói xen vào.
“Này người Hồ kia.”
Vị quyền quý đó gọi chàng trai ném dao là người Hồ.
“Nghe đây, ta được biết ngươi không chỉ giỏi huyễn thuật, mà còn giỏi ném dao.”
“…”
“Chẳng phải ngươi thường diễn trò ném dao xuyên qua trái lê đặt trên đầu cô gái kia sao?”
“Đúng.”
“Sao ngươi không diễn thử trò đó ở đây?”
Vị quyền quý ấy nói.
“…”
“Nếu làm được, có thể hoàng đế sẽ miễn tội cho ngươi…”
“…”
Chàng trai ném dao không đáp. Chỉ nhìn về phía hoàng đế.
“Đã đến mức này thì buộc phải lấy đầu nhà ngươi thôi. Nhưng lần này ngài Huyền Tông tới đây vì một việc mừng ấy là những bức bích họa ở động Thiên Phật đã được vẽ xong. Ngài Huyền Tông nói rằng ngài không muốn chuyện đổ máu vô ích. Ngươi cũng ở trong hoàn cảnh có vợ bị bệnh. Nhưng dù vậy thì cũng không thể để cho ngươi ra về vô sự được.”
“…”
“Sao nào, ngươi hãy diễn trò ném dao đi chứ.”
Người mặc giáp trụ nói.
Chàng trai ném dao nhìn về phía ngài Huyền Tông như muốn hỏi có thật vậy không.
Cuối cùng…
Ngài Huyền Tông không nói, chỉ gật đầu ra dấu cho anh ta.
Và thế là sự việc ấy đã xảy ra.
❖ 4 ❖Giống như lần đầu tiên tôi được xem, chàng trai liên tiếp ném trúng những trái lê được đưa cho.
Đầu tiên là trái lê cầm trên tay.
Tiếp đến là trái lê đặt trên đầu.
Tiếp đến là trái lê ngậm trong miệng.
Tiếp đến là trái lê áp lên trán.
Tất cả đều diễn ra giống như lần ấy.
Nhưng chỉ khác là lần tiếp theo.
Sau khi chàng trai ném trúng bốn trái lê, âm thanh đầu tiên phát ra từ đám đông xung quanh là những tiếng xôn xao khe khẽ nghe tựa như tiếng thở dài. Đó là sự pha trộn giữa cảm giác thất vọng vì sự cố mà họ mong đợi đã không xảy ra cùng với cảm giác nhẹ nhõm vì, ngược lại, may mà nó không xảy ra. Và rồi sau đó mới là những tiếng tán thưởng thật sự.
Khi những tiếng tán thưởng lắng xuống…
Tôi nhìn thấy Huyền Tông hoàng đế nói gì đó với vị quyền quý đứng bên cạnh.
Một lát sau, có vẻ câu chuyện đã kết thúc, ngài Huyền Tông lại ngồi tựa vào chiếc ghế như lúc ban đầu.
Chỉ chờ có thế, vị quyền quý vừa nói chuyện với ngài Huyền Tông tiến lên phía trước một bước.
“Hoàng đế khen trò của ngươi khá lắm, nhưng đó là trò mà các ngươi thường diễn hằng ngày…”
“Diễn một trò quen thuộc ở đây thì chưa thể tha tội được. Vì vậy, hoàng đế có chỉ dụ như sau…”
Đám đông đứng xem dỏng tai lên nghe để không bỏ sót lời mà vị quyền quý sẽ nói ra ngay sau đó.
“Hoàng đế ra lệnh cho ngươi ném dao vào trái lê một lần nữa… Tuy nhiên, cách ném sẽ không giống với cách vừa rồi.”
Vị quyền quý bắt đầu giảng giải về “cách ném không giống với cách vừa rồi”.
Đầu tiên, vị này chỉ vào gốc một cây liễu gần đó.
“Cô gái sẽ đứng dưới gốc liễu đằng kia, lưng và gáy phải áp chặt vào thân cây. Bọn ta sẽ buộc đầu cô gái vào gốc liễu bằng một đoạn vải sao cho không thể cử động được. Sau đó sẽ áp trái lê lên trán cô ta và cũng buộc lại bằng một đoạn vải để trái lê không thể rời khỏi trán…”
Vị quyền quý nói.
“Ngươi hãy ném dao xuyên qua trái lê theo cách này.”
Vị quyền quý vừa nói vừa nhìn chàng trai người Hồ.
Nghe đến đó, ngài Huyền Tông liền gật gù một cách hài lòng.
Cách thức mà vị quyền quý vừa giảng giải, không nghi ngờ gì nữa, chính là do ngài Huyền Tông nghĩ ra.
Nói cách khác, ngài Huyền Tông cũng giống như tôi, đã phát hiện ra tiểu xảo trong trò ném dao xuyên trái lê của người Hồ.
Bắt cô gái phải áp chặt gáy vào gốc cây là để cô không thể thực hiện được tiểu xảo kia.
Như tôi đã kể, trò ném dao của người Hồ là sự kết hợp giữa động tác ném dao của chàng trai và động tác dịch chuyển rất nhỏ của cô gái khi đón con dao bay tới. Nếu phong bế một trong hai yếu tố ấy thì mọi thứ liệu còn diễn ra suôn sẻ?
Tất nhiên, nếu chỉ cần ném trúng trái lê thì chẳng phải chuyện gì khó khăn với chàng trai người Hồ đó. Nhưng vấn đề không phải ở việc ném trúng hay không, mà ở cách ra lực trong lúc ném.
“Sao nào?”
Mặc dầu được hỏi vậy, song câu trả lời chỉ có một.
Chẳng còn cách nào khác là phải làm.
Khi chàng trai gật đầu, khỏi cần nói, đám đông lại rộ lên tiếng xôn xao.
Tuy nhiên, hẳn là đã có vài người hiểu được ẩn ý trong chỉ dụ của Huyền Tông hoàng đế, vì trong tiếng xôn xao ấy có lẫn cả sự lo lắng cùng với niềm mong đợi được chứng kiến một cảnh tượng hãi hùng.
Thế là…
Đầu tiên, cô gái bị trói vào gốc cây, đầu bị buộc chặt.
Tiếp theo, trái lê được áp trán cô và quấn lại bằng một đoạn vải cho khỏi rơi.
Công việc chuẩn bị đã xong, chàng trai người Hồ tiến đến phía trước cô gái.
Tôi nhận thấy một sự căng thẳng chưa từng có lộ ra trên toàn thân kẻ diễn trò người Hồ ấy. Gương mặt không còn một giọt máu, biểu cảm như đóng băng.
Chàng trai liếm đôi môi khô khốc mấy lần, đưa dao lên rồi lại hạ xuống, cố điều hòa lại hơi thở gấp gáp làm rung cả đôi vai.
Nhìn vào bộ dạng của chàng trai, có thể thấy cô gái giữ một phần quan trọng trong sự thành bại của trò diễn này. So với chàng trai, cô gái trông bình tĩnh hơn.
“Không sao đâu. Anh chắc chắn sẽ làm được thôi.”
Cô gái cất tiếng để khích lệ chàng trai, nhưng dầu vậy, chàng trai vẫn đắn đo.
Sự đắn đo và bất an của chàng trai dường như đã truyền sang cả cô gái. Chẳng mấy chốc, nét mặt cô gái cũng bắt đầu có những dao động rõ ràng.
Trong lúc quan sát, sự bất an và căng thẳng ấy như cũng truyền sang tôi khiến lòng bàn tay tôi dính nhớp mồ hôi.
Cuối cùng…
Như đã quyết chí, chàng trai thở mạnh ra rồi hít vào một hơi sâu trong lúc nắm lấy con dao, sau đó anh ta nín thở, lấy tư thế.
Đôi mắt chàng trai xếch ngược lên, trán đẫm mồ hôi, hình tướng nom như một con quỷ.
“A!”
Cùng với một tiếng thét sắc lạnh, con dao rời khỏi tay chàng trai.
Lúc đó, tôi bất giác nuốt vào bụng một tiếng kêu. Bởi lẽ, tốc độ mà chàng trai ném con dao đi nhanh hơn mọi lần một chút.
Tất cả những người đứng xem, ngay tích tắc sau đó, đều đồng thanh hét lên.
Ngay khi con dao vừa găm vào trái lê thì đầu cô gái liền đổ gục ra đằng trước, một dòng máu đỏ bò xuống từ khe giữa trán và trái lê, máu rỏ từ lỗ mũi cô xuống đất.
Con dao chàng trai ném đi đã xuyên qua trái lê và găm vào trán cô gái.
Cô gái chết, mắt vẫn mở.
Chàng trai không chạy đến bên cô gái mà đứng như trời trồng ngay tại chỗ.
Một lát sau, chàng trai mới lảo đảo bước tới chỗ cô gái, quỳ xuống, bế thi thể cô lên.
“Trời ơi…”
Chàng trai khẽ lẩm bẩm.
“Trời ơi, sao lại thế này…”
Chàng trai thút thít, rồi khóc rống lên như một con thú.
Vừa bế cô gái, chàng trai vừa ngước lên nhìn ngài Huyền Tông.
“Chỉ vì một quả dưa, mà ra nông nỗi này…”
Đó là một giọng nói đáng sợ, khiến người nghe bất giác ớn lạnh.
“Nước Cao Xương* của bọn ta xưa đã từng bị nhà Đường diệt…”
(*) Tên tiếng Duy Ngô Nhĩ là Qara-hoja, nay nằm ở khu vực Tân Cương, Trung Quốc.
Chàng trai lẩm bẩm.
Một giọng nói lục bục như tiếng bùn sôi.
“Và nay thì ngươi giết chết cả vợ ta…”
Chàng trai đưa ánh mắt vượt lên khỏi ngài Huyền Tông, ngửa mặt lên trời. Anh ta khẽ nở một nụ cười với vẻ mặt ngập tràn đau đớn, và khóc.
Sợi dây thừng trói cô gái vào cây liễu đang nằm bên cạnh chàng trai. Anh ta đặt thi thể cô gái nằm ngửa trên mặt đất, nhặt lấy sợi dây thừng, rồi lại nhìn sang ngài Huyền Tông.
“Vừa rồi ta đã diễn trò xuyên lê. Việc lỡ tay giết chết vợ mình là do sự bất cẩn…”
Chàng trai vừa khóc vừa giảng giải.
“Vì vậy, bây giờ ta sẽ bay lên trời, xin thiên đế được đem mạng vợ mình về lại với cõi trần này.”
Anh ta vừa nói vừa cuộn sợi dây thừng lại rồi đặt xuống trước hai đầu gối mình.
Chàng trai khẽ niệm chú, đầu sợi dây liền ngóc lên như một con rắn.
Anh ta tiếp tục niệm, sợi dây cứ thế ngoi lên trời.
“Ồ…”
Đám đông đứng xem thốt lên kinh ngạc, không hiểu chuyện gì đang xảy ra.
Sợi dây tiếp tục ngoi lên trời. Phần hướng lên trên đã dài hơn chiều dài ban đầu, nhưng cuộn dây nằm ở dưới đất không có vẻ gì là bị ngắn đi.
Cuối cùng thì không còn thấy đầu sợi dây ở trên trời đâu nữa.
“Ta đi đây.”
Chàng trai đứng dậy, không buồn gạt nước mắt, bám tay vào sợi dây thừng. Anh ta nắm bằng hai tay và ngoắc chân vào sợi dây rồi bắt đầu leo. Chẳng mấy chốc, anh ta đã leo cao hơn tầm tay với, rồi cao hơn mái nhà, cuối cùng là cao hơn cả vách đá của động Thiên Phật.
Nhưng sợi dây thừng vẫn tiếp tục dài ra, chàng trai cũng không có ý định dừng lại. Bóng anh ta dần bé bằng hạt đậu, rồi cuối cùng cả bóng anh ta lẫn đầu sợi dây đều mất hút vào trong đám mây bay qua bầu trời.
Mãi một lúc sau đám binh sĩ và những người quyền quý mới nhận ra có điều gì đó bất thường đang diễn ra.
Không biết tự khi nào, những người đứng xem và cả tôi nữa, đã mắc vào huyễn thuật của thuật sư người Hồ ấy.
Đột nhiên có tiếng khóc lóc thảm thiết vọng xuống từ trên trời.
“Hỡi ôi, nếu chỉ có một mình thì ta chạy thoát lúc nào mà chẳng được. Nhưng ta đành chịu vì vợ mình bị giữ làm con tin…”
Đúng là giọng của người Hồ đó.
“Ta hận ngươi, Huyền Tông!”
Một giọng nói đáng sợ đến mức khiến máu trong người đông cứng lại vọng xuống từ trên trời.
“Chừng nào còn sống, ta còn nguyền rủa ngươi.”
Nghe đến đó, đám binh sĩ liền tuốt gươm, đứng vây quanh để bảo vệ ngài Huyền Tông.
Có vẻ đám binh sĩ cho rằng người Hồ kia thật ra không bay lên trời, mà đang nấp ở đâu đó để rình hại ngài Huyền Tông.
Nhưng rõ ràng sợi dây thừng vẫn đang dựng lên trời như một cái cột và giọng nói thì vẳng từ trên xuống.
“Huyền Tông, từ nay trở đi, hằng đêm ngươi hãy nhớ đến ta và ngủ trong run sợ. Ngươi đừng quên mối hận này của ta…”
Lúc giọng nói đó vẳng đến, một người lính hét lên, chém vào sợi dây, nhưng sợi dây chỉ chùng xuống mà không đứt.
Thế rồi khi toàn bộ sợi dây thừng rơi xuống đất thì xem ra nó không thể với được tới trời, vì nó vẫn chỉ là sợi dây có độ dài như ban đầu.
Tiếng khóc nhỏ thảm thiết vẳng lại từ bầu trời xanh không có gì ngoài những áng mây cuối cùng cũng chấm dứt, chỉ còn lại thi thể người vợ nằm ngửa trên mặt đất đang trừng mắt nhìn bầu trời xanh.
❖ 5 ❖Lần thứ ba gặp người đàn ông ném dao tôi đã không nhận ra ngay đó là anh ta.
Bởi vì đã gần ba mươi năm kể từ lần gặp thứ hai trong sự việc đau lòng ở động Thiên Phật.
Tôi nhớ rõ thế là bởi vì lần gặp thứ ba diễn ra ở bữa tiệc mùa xuân năm Thiên Bảo thứ hai.
Đó thật là một bữa tiệc tuyệt vời làm sao.
Bên cạnh ngài Huyền Tông luôn là vị Quý phi ấy.
Có cả ngài Cao Lực Sĩ, ngài Lý Bạch.
Tôi không thể nào quên được.
Khi ấy, ngài Lý Bạch đã ngẫu hứng làm một bài thơ, Huyền Tông hoàng đế viết điệu, Lý Quy Niên xướng ca, Dương quý phi hòa điệu múa.
Trong bữa tiệc ấy có cả ngài A Bội Trọng Ma Lữ.
Ngài Cao Lực Sĩ, mối hiềm khích giữa ngài và ngài Lý Bạch vì chuyện đôi giày cũng xảy ra trong bữa tiệc ấy.
Bữa tiệc diễn ra ngay trước chuyến đi của tôi sang Thiên Trúc.
Bình thường tôi sẽ từ chối những bữa tiệc vui vẻ như vậy, nhưng một khi đã sang Thiên Trúc thì chưa biết bao giờ mới trở lại Trường An. Không khéo còn có thể chết dọc đường đi.
Tôi quyết định tới góp mặt ở bữa tiệc vì nghĩ rằng sẽ được gặp các vị tri kỷ đã giúp đỡ mình rất nhiều trong thời gian qua.
Nhưng đó đúng là một bữa tiệc trong mơ.
Một bữa tiệc của tột cùng hoa mĩ, của tận cùng xa xỉ trong trần thế này mà vốn dĩ không thuộc về thế giới của một kẻ như tôi, nhưng bây giờ nghĩ lại, lòng tôi vẫn bất giác cảm thấy hào hứng.
Nhưng nếu coi đó là sự phát lộ sức mạnh có trong mỗi con người thì cũng không hẳn đã nằm ngoài giáo lý của Mật.
Tuy nhiên, đó không phải là chuyện chính mà tôi muốn nói. Điều tôi muốn nói đến ở đây là về người Hồ ném dao ấy.
Trong bữa tiệc, tôi đã đến chào hỏi những vị mà tôi quen biết, thế rồi tôi chợt phát hiện ra một nhân vật rất kỳ lạ. Tôi có cảm giác đã từng gặp người này, nhưng không thể nhớ ra là gặp ở đâu… Đó là một gương mặt kiểu như vậy: mới gặp lần đầu, nhưng như thể đã từng thấy ở đâu.
Tất nhiên, những chuyện như thế cũng thường xảy ra. Có những người ta mới chỉ nhìn thấy mặt, nhưng không biết là ai. Hoặc giả, đó là một người hoàn toàn khác, chỉ giống nhau ở gương mặt và nét biểu cảm.
Việc gặp những người như thế không phải là chuyện quá hiếm hoi. Nhưng nhân vật này khiến tôi có một cảm giác rất khác với những điều tôi kể trên.
Chắc chắn đó là người đã từng để lại trong lòng tôi một ấn tượng cực kỳ mãnh liệt trong quá khứ. Tôi cảm nhận được điều ấy, nhưng khi đặt câu hỏi: vậy đó là ai, thì tôi không thể nhớ ra ngay vì nó đã bị vùi lấp sâu trong những lớp trầm tích ký ức.
Mặc dầu vậy, ấn tượng dữ dội ấy vẫn còn đọng lại…
Tôi luôn nghĩ rằng mình có khả năng ghi nhớ khuôn mặt tốt hơn những người khác rất nhiều. Hiếm khi nào tôi quên những người mà tôi đã từng gặp và nói chuyện dẫu chỉ một lần. Kể cả số lượng ấy có thể lên đến một nghìn người, một vạn người thì tôi cũng không quên. Bởi vì tôi không chỉ nhìn vào khuôn mặt, mà còn nhìn vào diện tướng, nhân tướng của người đó nữa. Có thể nói, dung mạo, đường nét khuôn mặt chẳng qua chỉ là ô cửa sổ để xem tướng của một con người.
Nói cho rõ hơn thì những yếu tố như đường nét khuôn mặt, màu mắt, hàm răng chỉ mang tính nhất thời, chúng thường xuyên biến đổi. Nhưng tướng thì không.
Tôi không thể nhớ ra được một người đã từng gặp trong quá khứ, thì điều đó có nghĩa là quá khứ ấy đã rất xa xôi.
Nhân vật này vận đồ đạo sĩ. Bên cạnh còn có hai đạo sĩ trẻ đi cùng, tuy ngồi trong bàn tiệc, song ánh mắt, cử chỉ thì không hề bình thường.
Nếu mới nhìn qua, ông ta chẳng khác gì một lão đạo sĩ không đáng để tâm, có thể bắt gặp ở bất cứ đâu, nhưng trong mắt tôi, ông ta không chỉ là một lão đạo sĩ bình thường.
“Vị đó là ai thế?”
Tôi bèn hỏi ngài Triều Hành đang tình cờ đứng bên cạnh.
“Đó là ngài đạo sĩ Hoàng Hạc.”
Ngài Triều Hành bảo với tôi.
Ồ, ra là vậy…
Tôi gật gù.
Hóa ra đó là Hoàng Hạc.
Tuy mới thấy mặt lần đầu, nhưng chuyện về ngài Hoàng Hạc thì tôi đã biết tiếng từ lâu.
Tôi được nghe kể ông ta là đạo sĩ theo hầu Quý phi từ thời còn ở với ngài Thọ vương, cho tới tận khi Quý phi đã về bên ngài Huyền Tông. Công lực của một đạo sĩ thì chưa biết ra sao, nhưng vì hầu cận Quý phi nên ông ta cũng có mặt trong bữa tiệc này. Ông ta không có dã tâm gì lớn. Mặc dù ở cạnh Quý phi, có không ít cơ hội để tham gia chuyện triều chính, vậy mà ông ta chỉ cúc cung phục vụ Quý phi…
Tuy nhiên, khi quan sát Hoàng Hạc từ xa, tôi bắt đầu cảm thấy nhân vật này nhất quyết không phải hạng người như vậy.
Tôi có cảm giác, ẩn giấu bên dưới nụ cười hiền hòa ngoài mặt là một thứ gì đó ghê rợn đến sởn da gà.
Một con mãnh thú đầy cảnh giác.
Một con mãnh thú tiến đến con mồi với nụ cười trên môi.
Tuy vẫn cười nói, vẫn uống rượu, nhưng không một phút lơ là, luôn chờ chực thăm dò cảm xúc và điểm yếu của đối phương.
Tựa hồ như một con sói được thả vào giữa bầy thỏ.
Hơn nữa, con sói già này lại đội lốt thỏ, nên lũ thỏ xung quanh không hề nhận ra đó là một con sói.
Tôi có một ấn tượng rất mạnh như vậy.
Thế nhưng tôi vẫn chưa nhớ ra được mình đã gặp Hoàng Hạc ở đâu.
Giữa lúc ấy, ánh mắt tôi bất chợt bắt gặp ánh mắt Hoàng Hạc. Hoàng Hạc đã nhận ra việc tôi thỉnh thoảng lại nhìn về ông ta.
Hoàng Hạc ghé tai người bên cạnh thì thầm điều gì đó. Tiếp theo, người bên cạnh thì thầm lại vào tai Hoàng Hạc. Cuối cùng, Hoàng Hạc gật đầu, rồi đưa mắt về phía tôi. Một cái nhìn kèm theo ánh cười. Lúc ấy, tôi đã đoán ra được Hoàng Hạc vừa trao đổi gì với người bên cạnh.
Nhà sư đứng đằng kia là ai?
Hẳn là Hoàng Hạc đã hỏi người bên cạnh như vậy.
Đó là hòa thượng Bất Không ở Thanh Long Tự.
Người được hỏi chắc hẳn đã trả lời như vậy.
Hoàng Hạc đứng dậy khỏi chỗ, bước lại phía tôi đúng lúc điệu múa của Quý phi vừa kết thúc.
“Có phải là ngài Bất Không ở Thanh Long Tự đó không ạ?”
Hoàng Hạc kính cẩn cúi đầu và hỏi tôi như vậy.
“Vâng.”
Tôi gật đầu.
“Tôi là đạo sĩ Hoàng Hạc, đang theo hầu Quý phi.”
Hoàng Hạc nói.
“Vừa rồi tôi đã được nghe ngài Triều Hành kể.”
Tôi đáp.
Lạ lùng thay, khi đối mặt ở một khoảng cách gần thế này, chẳng hiểu sao vẻ nguy hiểm khi quan sát từ xa bỗng hoàn toàn biến mất khỏi con người Hoàng Hạc. Tới mức tôi tưởng như mọi cảm giác của mình trước đó đều là ảo giác.
“Phải chăng đây là lần đầu chúng ta gặp nhau?”
Hoàng Hạc hỏi.
“Vâng.”
Tôi gật đầu.
“Tôi cứ ngỡ chúng ta đã từng gặp nhau ở đâu đó…”
Hoàng Hạc nói.
“Vì sao ngài nghĩ vậy?”
“Vì ban nãy ngài nhìn tôi bằng ánh mắt như vậy.”
“Thật thất lễ với ngài. Tôi quan sát ngài vì ngài rất giống một người quen của tôi khi xưa, nhưng tất nhiên đó là một người khác. Đây là lần đầu tiên tôi gặp ngài.”
Tôi nói ra một nửa sự thật và một nửa không phải là sự thật.
“Tôi nghe nói ngài sắp sang Thiên Trúc?”
“Vâng. Tôi định sẽ khởi hành sau năm hôm nữa.”
Lúc trả lời đến đó, đột nhiên trong não tôi sống dậy một ký ức.
Phía Tây.
Đó là người đàn ông ném dao găm mà tôi đã thấy ở Đôn Hoàng…
Có lẽ do nhìn ở khoảng cách gần và chữ Thiên Trúc mà Hoàng Hạc nhắc tới đã trở thành mồi kích hoạt giúp cho ký ức của tôi sống dậy.
Con dao găm rời khỏi bàn tay, bay vào không trung.
Tiếng thét của đám đông đứng xem.
Con dao găm cắm vào trán cô gái.
Và sợi dây thừng từ từ ngoi lên bầu trời xanh.
Chàng trai leo lên sợi dây thừng ấy.
Những khung cảnh hai mươi chín năm trước lần lượt sống dậy trong não tôi.
“Chừng nào còn sống, ta còn nguyền rủa ngươi.”
“Huyền Tông, từ nay trở đi, hằng đêm ngươi hãy nhớ đến ta và ngủ trong run sợ. Ngươi đừng quên mối hận này của ta…”
Sợi dây thừng rơi xuống từ trên trời, cuộn tròn trên mặt đất.
Tôi đã nhớ ra tất cả.
Người đàn ông này.
Hoàng Hạc.
Chính là người Hồ diễn trò ném dao găm ngày ấy.
Chàng trai đã biến mất sau khi đâm thủng trán để rồi giết chết vợ mình bằng con dao găm do chính tay mình ném và thổ ra những lời nguyền rủa. Nhân vật ấy đang đứng và mỉm cười với tôi lúc này. Hơn thế nữa, nhân vật ấy lại thường xuyên ở bên cạnh ngài Huyền Tông dưới danh nghĩa một đạo sĩ theo hầu Quý phi.
Bằng cách nào mà người đàn ông ném dao ấy lại có mặt ở đây lúc này?
Khi ấy, tôi đã suýt nổi da gà. Bởi lẽ Hoàng Hạc tuy mỉm cười và nhìn tôi với ánh mắt hiền hậu, nhưng đó là ánh mắt quyết không để lọt bất cứ một gợn nhỏ cảm xúc nào trong lòng tôi.
❖ 6 ❖Mấy ngày sau thì tôi rời Trường An sang Thiên Trúc, nhưng trong chuyến đi tôi luôn canh cánh một chuyện.
Ấy là về Hoàng Hạc.
Vì sao Hoàng Hạc lại hầu cận bên ngài Huyền Tông? Tôi suy nghĩ mãi về lý do đó.
Theo như những lời vọng xuống từ trên trời ngày ấy, chắc chắn Hoàng Hạc đang mưu tính việc hãm hại ngài Huyền Tông. Nhưng rốt cuộc ông ta định làm gì?
Nếu muốn đoạt mạng ngài Huyền Tông, hẳn ông ta đã có không ít cơ hội. Trực tiếp đoạt mạng hay hạ độc đều trong tầm tay ông ta, thậm chí không thể biết là ai đã làm.
Từ khi theo Quý phi vào hoàng cung hầu bên ngài Huyền Tông, loáng một cái đã bốn năm trôi qua. Trong thời gian ấy, không thể nghĩ rằng Hoàng Hạc lại không có một cơ hội nào để đoạt mạng ngài Huyền Tông. Nhưng ông ta không ra tay, thì hoặc là, ông ta không còn ý định ấy nữa. Hoặc là, tôi đã lầm người vì giống nhau quá, chứ kỳ thực đó là một người hoàn toàn khác.
Tôi không nói ra chuyện về Hoàng Hạc với ngài Huyền Tông mà giữ kín trong lòng rồi rời Trường An cũng là vì tâm tư ấy.
Hoàng Hạc đã không còn ý định trả thù.
Hoặc đó là một người khác.
Điều này hoàn toàn có thể xảy ra.
Hoàng Hạc dẫu gì cũng là con người. Cho dù niềm oán hận đối với ngài Huyền Tông vẫn còn, và cho dù ông ta tiếp cận ngài Huyền Tông là vì niềm oán hận ấy, thì những vinh hoa, hiển đạt hay cuộc sống đủ đầy mà Hoàng Hạc đang có trong tay đều là nhờ ở ngài Huyền Tông. Đoạt mạng ngài Huyền Tông cũng đồng nghĩa với việc đánh mất tất cả những gì mình đang có.
Liệu ông ta có dám làm việc ấy không?
Dù là chuyện gì thì hai mươi chín năm cũng đã trôi qua rồi. Oán hận phai nhạt dần theo năm tháng là điều có thể hiểu được.
Hơn nữa, nếu tôi tâu chuyện này lên ngài Huyền Tông thì cũng không thể lấy gì làm bằng. Hoàng Hạc chỉ cần chối rằng không biết là xong.
Ngay cả tôi cũng phải mất một lúc lâu mới tìm ra mối liên hệ giữa Hoàng Hạc và người Hồ ấy. Vậy thì liệu rằng ngài Huyền Tông còn nhớ được khuôn mặt của kẻ mới chỉ gặp một lần vào hai mươi chín năm trước?
Bốn năm đã trôi qua, ngài Huyền Tông đang có một cuộc sống hạnh phúc cùng Quý phi, vậy thì tôi có thể làm gì hơn vào lúc ấy?
Thế rồi tôi còn nhận ra một điều rất kỳ lạ.
Đó là về hai đệ tử của Hoàng Hạc. Hai đệ tử đang giấu giếm Hoàng Hạc điều gì đó, ấy là ý nghĩ của tôi khi quan sát ba người bọn họ trong bữa tiệc. Bởi vì thỉnh thoảng, hai chàng trai lại nhìn trộm Quý phi mà không để cho Hoàng Hạc biết. Hơn nữa, theo một cách rất cảnh giác.
Khi nằm trong tầm mắt của Hoàng Hạc, họ sẽ vờ như không có gì, nhưng khi không bị để mắt tới, họ sẽ nhìn Quý phi bằng ánh mắt như muốn xuyên qua da thịt.
Thật là ba con người kỳ lạ.
Nhưng lúc này đây, khi tất cả đều đang ổn thỏa, vô sự, thì liệu tôi có nên nói ra câu chuyện của hai mươi chín năm về trước nữa không?
Vậy là cuối cùng tôi không kể câu chuyện này với ai, chỉ giữ kín riêng một mình tôi và lên đường sang Thiên Trúc.
Ba năm sau, tức năm Thiên Bảo thứ năm, tôi từ Thiên Trúc trở về, nhưng cũng không thấy có vấn đề gì đặc biệt xảy ra với ngài Huyền Tông mà có liên quan đến Hoàng Hạc.
Tôi lưu lại Trường An chừng ba năm, rồi một lần nữa sang Thiên Trúc. Lần ấy, tôi đã ở Thiên Trúc liền trong năm năm. Năm Thiên Bảo thứ mười hai, tức ba năm trước, tôi từ Thiên Trúc trở về, đến khi ấy tôi mới nhận ra kinh thành có điều gì rất lạ.
(Câu chuyện của Bất Không kết thúc)
❖ 7 ❖Sau khi nghe hết câu chuyện dài của ngài Bất Không, tôi mới nói.
“Hóa ra ngài đã chứng kiến việc tên người Hồ leo dây thừng trốn thoát lên trời ở Đôn Hoàng.”
“Khi đó, ngài Cao Lực Sĩ cũng ở Đôn Hoàng?”
“Không, khi đó tôi đã ở lại Trường An…”
“Ngài có nghe ngài Huyền Tông kể gì về chuyện ở Đôn Hoàng không?”
“Sau khi trở về, ngài Huyền Tông có kể cho tôi nghe về những bức họa ở động Thiên Phật, nhưng chưa kể gì về việc tên người Hồ diễn trò ném dao găm.”
“Như thế nghĩa là ngài được nghe kể vào một dịp khác?”
“Vâng. Đó là hôm chỉ có tôi và ngài Huyền Tông, tôi đã được nghe câu chuyện về tên người Hồ leo dây thừng.”
“Ngài Huyền Tông kể những gì?”
“Ngài Huyền Tông kể, có những đêm đang ngủ thì chợt thức giấc một mình, thấy sợ hãi…”
“Ồ.”
“Ngài nói còn thấy cả chiêm bao.”
“Chiêm bao?”
“Chiêm bao thấy một sợi dây thừng dòng xuống từ trần nhà tối om, rồi tên người Hồ leo xuống theo sợi dây thừng đó. Tên người Hồ ngậm dao găm, đứng lên người ngài Huyền Tông đang ngủ, cầm lấy con dao và đâm thẳng vào trán ngài Huyền Tông…”
“Ngài Huyền Tông cứ chiêm bao như vậy suốt?”
“Không, tôi nhớ là chỉ có đôi ba lần thôi, hình như khoảng hai hay ba năm sau chuyến đi Đôn Hoàng. Từ bấy thì tôi không nghe thấy nữa.”
“Vậy à.”
“Tất nhiên ngài Huyền Tông không nói ra miệng, nhưng có thể thảng hoặc lại nhớ ra ở trong lòng.”
“Vâng.”
“Vả chăng, đã có vô số kẻ phải chịu cảnh đầu lìa khỏi cổ hoặc được ban cho thuốc độc vì một lời của ngài Huyền Tông. Nếu tính cả những kẻ chết trận nữa thì…”
“Không đếm xuể phải không thưa ngài?”
“Phải.”
“Có lẽ đúng như ngài nói.”
“Câu chuyện về tên người Hồ khiến lòng ngài Huyền Tông vướng bận lâu đến vậy chắc hẳn là do cách mà hắn đã biến mất.”
“Leo dây thừng lên trời…”
“Vâng.”
“…”
“Tôi cũng cần nói thêm, không phải là ngài Huyền Tông sợ hãi gì cái tên người Hồ đó.”
“Ồ.”
“Mà có vẻ ngài ấy tò mò về việc hắn đã leo dây thừng đi đâu hơn…”
Có đúng thật là kẻ đó đã lên trời hay không?
Bầu trời xanh mà sợi dây ấy dẫn tới rốt cuộc là một thế giới như thế nào?
Cũng có khi ngài Huyền Tông nói về điều ấy với một vẻ ngậm ngùi.
Đó chỉ là một trò huyễn hoặc, hay ở nơi tận cùng của sợi dây ấy đúng là tiên giới, thế giới của tiên nhân và thiên nhân sinh sống?
Tôi đã kể với ngài Bất Không về những lời tơ tưởng ấy của ngài Huyền Tông.
“Ra là vậy.”
Ngài Bất Không gật gù.
“À mà vừa rồi ngài có nói rằng, trong lần trở về thứ hai, ngài đã nhận thấy kinh thành có điều gì rất lạ…”
Tôi đem việc thắc mắc này hỏi ngài Bất Không.
“Về chuyện đó, chẳng phải ngài Cao Lực Sĩ còn tường tận hơn tôi sao?”
“Nó là gì được nhỉ?”
“Là dấu hiệu.”
“Dấu hiệu?”
“Phải.”
“Nói như vậy thì?”
“Giờ đây, cái dấu hiệu ấy đã thành hiện thực. Tôi nói thế là ngài hiểu phải không?”
“Nghĩa là ngài đang muốn nói về tình thế của Trường An hiện tại?”
“Vâng.”
Ngài Bất Không gật đầu.
“Điều tôi cảm nhận được khi quay về ấy là sự thay đổi của hoàng đế.”
“Sự thay đổi của hoàng đế?”
“Tại sao ngài lại hỏi tôi? Ngài Cao Lực Sĩ, như tôi đã nói khi nãy, chuyện này thì ngài là người rõ nhất.”
Bị hỏi ngược lại, tôi đành nín lặng. Vì tôi thừa hiểu điều ngài Bất Không muốn nói.
“Vâng.”
Tôi chỉ còn cách gật đầu.
“Ngài Dương Quốc Trung đã nắm trọn quyền thế từ trước khi tôi lên đường sang Thiên Trúc. Điều đó vốn cũng không hại gì. Sẽ luôn luôn có một nhân vật như vậy trong mọi nền triều chính. Vấn đề là, nhân vật ấy có phải một kẻ ngu tối hay không. Khi xưa, ngài Dương Quốc Trung đặt được chân vào triều đình vì là anh trai của Quý phi. Lúc ấy, ngài Dương Quốc Trung vẫn chưa phải là kẻ ngu tối…”
“Còn bây giờ…”
“Tôi không thể tự mình nói ra. Con người khi có quyền lực trong tay, sẽ gắng sức để bảo vệ nó. Họ sẽ không