← Quay lại trang sách

- 4 - KHÁM TỔNG QUÁT

HỎI: Tôi năm nay 45 tuổi, không có bệnh hoạn gì nhưng tôi lo ngại vì trong gia đình thấy nhiều người bị bệnh: cha tôi mất vì bị stroke, mẹ tôi bị tiểu đường. Gần đây tôi được tin ông anh cả bị ung thư phổi vì hút thuốc quá nhiều. Tôi muốn đi khám tổng quát nhưng xin bác sĩ cho biết khám tổng quát cần phải làm những gì và có cần thiết hay không? Trương Văn H. ĐÁP: Câu hỏi của ông rất xác đáng về vấn đề sức khỏe và bệnh tật. Sức khỏe của mỗi cá nhân là một trạng thái cân bằng của tất cả cơ chế sinh học và sự hoạt động điều hòa của các cơ quan với những liên hệ mật thiết và hỗ tương. Bất kỳ một trạng thái mất cân bằng nào cũng đều có thể gây ra bệnh tật với những hậu quả nặng, nhẹ hoặc nguy hiểm khác nhau. Điều quan trọng phải để ý là những xáo trộn và mất cân bằng của cơ thể thường xảy ra trước với một thời gian tiềm ẩn lâu dài trước khi có triệu chứng của bệnh phát hiện. Vấn đề giữ gìn sức khoẻ là nhận biết các xáo trộn và trạng thái mất cân bằng này trước khi thành bệnh để thay đổi hay chữa trị một cách có hiệu quả. Thí dụ giản dị và quan trọng là vấn đề áp huyết cao. Áp huyết có thể cao hằng hai ba chục năm với hòan toàn không có triệu chứng gì và người bệnh không hề để ý cho đến khi bị biến chứng nguy hiểm xảy ra như đứt mạch máu đầu, chảy máu trong óc gây chết hoạc bán thân bất toại v..v. . . Hoặc một thí dụ khác như ung thư cổ tử cung ở người phụ nữ. Những tế bào cổ tử cung thay đổi thành ung thư rất chậm, kéo dài hàng chục năm. Nếu đi làm Pap Smear để tìm những thay đổi của tế bào này sớm và giải phẫu ngay sẽ chữa khỏi và ngừa hẳn về ung thư tử cung. Nếu không biết, để ung thư thành hình và chạy khắp cơ thể, thường sẽ không chữa được và bệnh nhân chết. Vấn đề phòng bệnh như vậy hiệu quả và lợi ích hơn nhiều so với việc chữa bệnh. Khám tổng quát là một phương pháp để tìm ra bệnh sớm khi chưa có triệu chứng gì và nếu có bệnh sẻ giúp cho việc chữa trị thành dễ dàng nhất. Để trả lời câu hỏi của ông, việc có nên đi khám tổng quát hay không sẽ tùy thuộc vào tuổi và có ở trong tình trạng dễ bị các bệnh nguy hiểm hay không (high risk). Thông thường với những người không có triệu chứng gì, từ tuổi 40 đến 64 nên đi khám tổng quát từ 1 đến 3 năm một lần. Từ 65 tuổi trở lên nên đi khám tổng quát một năm một lần. Dĩ nhiên nếu có triệu chứng sẽ tùy theo bệnh và cần khám thường hơn. Khám tổng quát trước hết là phần hỏi và kê khai bệnh lý. Rất nhiều người thực sự đã có triệu chứng bệnh nhưng không để ý đến và khi được hỏi cặn kẽ mới chú ý và kể ra triệu chứng bệnh. Phần này là phần quan trọng hơn cả vì phần lớn việc định bệnh chính xác là nhờ vào hỏi bệnh lý cặn kẽ. Thí dụ như mặc dù ăn nhiều, ngon miệng nhưng vẫn bị sụt ký, có thể người bệnh không để ý đến nhưng đây có thể là hiện tượng đầu của những người bị bệnh bướu cổ hay tiểu đường. Thí dụ khác như người đi khám tổng quát khai không có triệu chứng gì, chỉ thấy hơi nặng bụng. Khám và làm thử nghiệm mới thấy đã có bướu lớn ở trong bụng. Như thế khi đi khám tổng quát, bất kỳ điều gì thấy khác thường, mặc dù nhỏ nhặt đến đâu cũng nên kễ ra để việc định bệnh của người bác sĩ được dễ dàng và chính xác hơn. Kế tiếp là phần khám. Đầu tiên là việc đo áp huyết và các dấu hiệu khác như đo mạch, nhiệt độ v.v. . . Khám nghiệm (physical examination) sẽ theo từng cơ quan. Ở phần đầu và cổ, khám mắt, tai, mũi, họng có thể cho biết nhiều bệnh quan trọng. Thí dụ như nhìn vào đáy mắt để xem các mạch máu trong mắt có thể cho biết về tình trạng nặng nhẹ của bệnh áp huyết, tiểu đường hoặc có bướu trong óc. Khám họng có thể cho biết về ung thư miệng, nhiễm trùng họng v.v. . . Ở người Việt gốc Tàu như dân Quảng Đông, nhiều người hay bị ung thư phần họng trong gọi là nasopharynx, đôi khi phải hỏi gốc gác giống dân nào để định bệnh dễ dàng hơn. Phần khám cổ, quan trọng nhất là khám về hạch cổ và khám về bướu cổ. Hạch cổ có thể do nhiễm trùng thường nhưng cũng có thể do lao hạch hay ung thư hạch. Bướu cổ thường chạy lên chạy xuống khi người bệnh nuốt nước miếng, có thể do bệnh về kích thích tố giáp trạng tiết ra quá nhiều gọi là Graves’ disease, đôi khi có thể do bướu nước (cyst) hay ung thư. Kế tiếp là khám về tim và mạch. Khám tim sẽ cho biết nhịp tim có bình thường hay không, có bệnh gì về các van tim hay bệnh tim bẩm sinh hay không? Khám tim thường cần làm thử nghiệm đo tim gọi là điện tâm kế (EKG) để biết rõ hơn và tùy trường hợp các thử nghiệm khác đặc biệt hơn nếu có triệu chứng nhiều về tim như siêu âm, đo tim lúc chạy trên thang cuốn Treadmill, chụp tim với chất phóng xạ Thallium v.v.. Khám về phổi sẽ cho biết có thể bị suyễn hay không, hoặc nếu bị lao phổi, sưng phổi hoặc phổi bị teo sợi (fibrosis), sẽ có thể nghe thấy được bằng ống nghe. Phần lớn nếu nghi bệnh phổi cần phải chụp quang tuyến mới định bệnh chính xác được như ung thư phổi, lao phổi ..v.v. . . Trường hợp bị suyễn hoặc hút thuốc quá nhiều gây đường hô hấp bị nghẹt, có thể cần phải đo hô hấp gọi là Spirometry. Ở người phụ nữ, khám ngực tìm ung thư vú là điều quan trọng. Thường để định bệnh sớm cần phải chụp hình vú gọi là Mammogram. Sau tuổi 50, nên chụp mammogram một hoặc hai năm một lần. Khám đường tiêu hoá cần phải xem gan có lớn hay không, thường nếu bị bệnh gan nặng có thể đi chung với mật bị vàng, bụng trướng. Nếu ấn vào phần bụng phía trên bên phải, dưới gan, gây ra đau có thể phải tìm về bệnh sạn túi mật. Thông thường khám về đường tiêu hoá như bao tử, ruột non, ruột già, có thể phải làm những thử nghiệm như chụp quang tuyến hoặc soi bao tử, soi ruột gọi là Endoscopy. Ở người trên 50 tuổi, khám hậu môn là điều quan trọng vì phần lớn ung thư ruột già và ung thư tuyến đường tiêu prostate có thể tìm ra được nhờ khám hậu môn. Thử phân để xem có máu lẫn trong phân hay không và soi phần ruột già trực tràng gọi là Sigmoidoscopy có thể cần thiết để tìm ung thư ruột già chính xác hơn. Ở người đàn ông trẻ, khám dịch hoàn quan trọng vì phần lớn ung thư dịch hoàn xảy ra ở người trẻ. Ở người phụ nữ, làm Pap Smear để tìm ung thư cổ tử cung là điều quan trọng như đã nói ở phần đầu. Thường nên làm mỗi năm một lần Pap smear. Nếu làm hai lần đầu tốt, có thể làm ít hơn, từ một đến ba năm một lần vì ung thư này mọc rất chậm. Về việc làm thử nghiệm, ngoài các thử nghiệm như đã nói ở trên như đo tim EKG, chụp quang tuyến phổi, thử máu tổng quát và thử nước tiểu cũng giúp ích nhiều. Thử máu thường gồm đo lượng máu gọi là CBC (complete blood count) cho biết lượng hồng huyết cầu, bạch cầu, tiểu cầu. Thử CBC sẽ cho biết có thiếu máu hay không, hoặc hiếm hơn, dư máu hay ung thư máu. Hoặc bệnh hay chảy máu, hay bị bầm dưới da do thiếu tiểu cầu (platelets). Thử hoá học máu gọi là Blood chemistry sẽ cho biết rất nhiều thứ: lượng đường trong máu cho biết về bệnh tiểu đường, lượng Cholesterol, chất béo triglycerides và phân loại cholesterol ra loại tốt HDL hay loại xấu LDL và đo tỷ lệ để biết nguy hiểm về bệnh tim. Cũng trong phần thử hoá học máu sẽ biết về bệnh gan nhờ đo các phân hoá tố của gan gọi là SGOT, SGPT, GGT và chất Bilirubin để biết ống mật có bị nghẹt hay hồng huyết cầu bị bể làm chất này cao ..v..v... Bệnh về thận cũng sẽ được biết nhờ đo chất Urea và chất Creatinine trong máu, nếu cao là bị suy thận. Ngoài ra, thử nghiệm hoá học máu còn đo chất Calcium, Phosphorus trong máu để tìm bệnh về tuyến phó giáp trạng (parathyroid), đo lượng Uric acid trong máu để tìm bệnh sưng khớp xương loại gout, đo lượng chất đạm Protein, Albumin trong máu, đo các chất điện giải Sodium, Potassium, Chloride v.v... Thường các thử nghiệm hoá học máu gồm 23 hay 24 thử nghiệm khác nhau thử chung một lần và cho biết rất nhiều dữ kiện để tìm bệnh. Một số phòng thí nghiệm còn thử thêm về bệnh bướu cổ gọi là Thyroid test và thử về bệnh giang mai (syphilis) đi chung với các thử nghiệm hoá học trên rất tiện lợi. Thử nước tiểu thường đi chung với thử máu tổng quát khi đi khám tổng quát, tương đối không quan trọng bằng nhưng cũng cho biết thêm về bệnh thận như có chất đạm, có máu trong nước tiểu. Thử nước tiểu cũng cho biết có bạch cầu hay chất Nitrite trong nước tiểu giúp cho định bệnh về nhiểm trùng đường tiểu. Muốn kỹ lưỡng hơn, đôi khi phải cáy nước tiểu để xem loại vi trùng nào.

Tóm lại, khám tổng quát và làm một số thử nghiệm như thử máu tổng quát, nước tiểu, chụp hình quang tuyến phổi, đo tim ..v.v... có thể giúp ích cho việc định bệnh sớm và ngừa được những bệnh quan trọng trở thành khó trị hay không thể chữa được. Khi đi khám tổng quát, sự cộng tác của người bệnh nhân trong việc kê khai triệu chứng là điều hết sức quan trọng. Tìm ra bệnh sớm sủa và điều trị hiệu quả, nhanh chóng và kịp thời là mục đích chính yếu cho việc bảo trì sức khoẻ và trong chiều hướng đó, khám tổng quát và định kỳ đóng góp một phần quan trọng.