← Quay lại trang sách

MỘT

Thời gian bấy giờ là một buổi sáng đầu tháng hai năm 1954. Trên bầu trời xám xịt mây đen la đà trên những dãy núi lượn khúc, dầy đặc cây rừng của miền Thượng du Bắc phần, Chiếc Dakota của Không Lực Pháp đang bay về hướng Điện Biên Phủ. Không trình từ Hà Nội đến cái vùng đèo heo hút gió, nằm ở một góc hướng Tây Bắc, Bắc phần và sát với biên giới Lào-Việt này phải mất một tiếng rưỡi mới tới nơi. Chính trong khoảng thời gian này, Joseph phải co ro trên chiếc ghế sắt giữa các kiện hàng nào là gỗ ghép hòm, các thùng nước vị thanh để tiếp máu, các bành lương thực và hàng chục thùng bia Pháp, có lẽ không có trong danh sách liệt kê hàng hóa.

Nhìn vào tấm bản đồ trên gối mình, Joseph thấy lòng chảo Điện Biên Phủ không khác gì một hoang đảo nhỏ được bao chung quanh bởi những dãy núi đá vôi bất tận, xanh thẫm cây rừng với diện tích dài độ mười dặm và ngang độ bốn dặm. Tiêu điểm của lòng chảo này là một ngôi làng nhỏ của người thượng du mà Pháp đã chiếm hồi tháng mười một năm vừa qua rồi biến thành một căn cứ địa cho mình. Chu vi phòng thủ căn cứ này rộng đến ba mươi dặm. Kể từ đó, Pháp cho tăng cường quân số tại nơi này lên đến mười ba ngàn người. Họ cũng cho thả dù xuống đây nhiều đại bác hạng nặng, quân xa và cả chiến xa nữa. Từ trên buồng lái, viên phi công bỗng quay người ra sau phi cơ, cất tiếng nói bằng một giọng đầy chua chát.

- Xin Monsieur hãy vịn vào ghế cho thật chặt đi. Muốn đáp xuống cái bồn tiểu này, chúng tôi phải bay thật cao để tránh đạn phòng không của Việt Minh, rồi từ trên cao theo vô tuyến điều khiển bên dưới, chúng tôi chúi đầu qua các đám mây để đáp xuống.

Joseph thắt chặt dây lưng an toàn, nhoẻn miệng cười trước lời khôi hài đen của viên phi công. Y đã dùng chữ “bồn tiểu” thô tục để chỉ nơi mà các phi công người Pháp đã từng đáp hoặc cất cánh và thả dù trung bình tám chục tấn tiếp liệu mỗi ngày dưới bầu trời dầy đặc sương mù và mưa phùn này để tiếp tế cho lòng chảo Điện Biên Phủ. Đã có nhiều phi công bất mãn các kế hoạch chiến lược này do Bộ chỉ huy cao cấp của họ đề ra, cho nên ngay khi chiếc Dakota chui xuyên qua làn mây sau cùng, viên phi công vụt cười lên khằng khạc diễu cợt.

- Monsieur ơi! Hãy nhìn xuống dưới đó mà xem, đây là nơi mà các quan lớn của chúng tôi, với sự tin tưởng khôn ngoan của họ, họ cho rằng đây là một căn cứ công kích để tấn công tập hậu địch quân đó.

Viên phi công tiếp tục chế nhạo, bằng cách hất đầu mình chỉ cho Joseph nhìn về phía trước kiếng chắn gió của phi cơ.

- Có thể trên bản đồ của Tướng Navarre tại Sài Gòn, thì chỗ này ngon lành lắm, nhưng nếu cứ từ trên cao nhìn xuống thì ai cũng biết nó như thế nào rồi - một cái khám để tự mình nhốt mình vào đó.

Joseph đưa mắt nhìn xuống từng khoảng ô vuông vàng óng đất sét của các thửa ruộng bên dưới, nơi mà các ụ đại liên có bao cát vây chung quanh được đặt khắp đó đây giữa các giao thông hào chằng chịt. Một nhánh sông nhỏ chạy dọc theo khu vực lòng chảo mà hai bên bờ được kéo đầy kẽm gai đến bất tận. Joseph cũng thấy nhiều toán binh sĩ đang lom khom đào các giao thông hào chung quanh các ngọn đồi thiên nhiên, rất tốt cho các cứ điểm phòng thủ, để bảo vệ căn cứ này. Đưa mắt nhìn các mỏm núi đá chung quanh đây, Joseph khẽ thở dài.

- Anh nói đúng đó, một trong các binh thư xưa nhất của chiến tranh có nói là ta không bao giờ nên để cho địch giữ vị trí cao hơn mình. Ở đây thì các mỏm núi cao đã để dành hết cho Việt Minh rồi.

Người phi công gật đầu:

- Bây giờ thì Monsieur đã thấy rõ tại sao chúng tôi gọi đây là cái bồn tiểu rồi phải không? Từ trên các chóp núi cao đó, tụi da vàng họ có thể vạch quần mà tè xuống đầu chúng tôi bên dưới này. Tướng Navarre và ban tham mưu của ông ấy chắc hẳn thảy thảy đều mê muội hết rồi. Họ tính chắc rồi đây địch cũng ngu như họ để từ trên các đồi cao đó ồ ạt nhảy xuống và chui đầu vào các hàng rào và bãi mìn của chúng tôi, để chúng tôi dùng Không Lực và hỏa lực pháo binh mà đập họ như kỳ ở Na Sản nữa chắc. Nhưng Tướng Giáp, y đâu có khùng để mắc mưu lần thứ hai như vậy nữa đâu.

Joseph đáp trong nghi ngờ:

- Làm gì lại có người ngu dại tới mức đó được.

Viên phi công lại cất tiếng cười tồ tồ:

- Tất cả đều chỉ theo mớ lý thuyết ở quân trường mà thôi. Người ta đã nghiên cứu các sa bàn tại Bộ Chỉ Huy ở Sài Gòn rồi, nhưng không mấy ai chịu tin rằng đám da vàng có thể đưa vũ khí và tiếp liệu của họ qua suốt ba trăm dặm đường núi rừng để có đủ lương thực, vũ khí và nhân lực mà bao vây nơi này hết cả.

Nói tới đây, viên phi công nhún vai bất cần, đưa mắt nhìn xuống các vùng đồi núi bên dưới thân phi cơ đang chúi đầu xuống, anh nói tiếp.

- Nhưng nếu thiệt tình là người ta đã lầm lẫn, thì tuyến cuối cùng của Custer sẽ như cái chợ là cái chắc.

Joseph tiếp tục quan sát hàng trú phòng của căn cứ bằng cặp mắt nghề nghiệp, trong khi đó chiếc Dakota vụt mất đà, anh nhíu mày một thoáng rồi lên tiếng.

- Xem chừng người ta tin tưởng vào các ngọn đồi chung quanh vòng đai lắm, nhưng nếu Việt Minh đã vào tới nơi đó thì chắc chắn sẽ có một trận đánh cận chiến mù trời.

Viên phi công gật đầu đồng ý rồi lại lúc lắc dầu, chỉ ra ngoài kiếng phi cơ.

- Ba ngọn đồi ở phía Bắc kia được đặt tên là Gabrielle, Beatrice, và Anne Marie. Cái đồi ở phía Nam là Isabelle, còn một chùm thấp ở gần Bộ Chỉ Huy Trung Ương là Doninique, Elaine, Françoise, Claudine và Hugette.

Vièn phi công lại nhìn qua Joseph, nét mặt anh dửng dưng.

- Trường hợp như Monsieur chưa biết thì tôi cũng xin nói cho Monsieur rõ là ông Chỉ Huy Trưởng ở đây, Đại Tá De Castrie của chúng tôi rất nổi tiếng là đào hoa, và binh sĩ thuộc quyền ai cũng tin rằng ông ta đã dùng tên các cô bồ của ông ta để đặt tên cho những ngọn đồi đó, nhưng mà đâu có ai mê được cái ý này của Chef đâu!

Bên ngoài khung kiếng phi cơ, Joseph thấy từng cuộn khói trắng bay lên dọc theo các vách núi của lòng chảo, nơi gần nhứt với phi đạo, và ngoài tiếng gầm gừ của chiếc Dakota, anh còn nghe được tiếng nổ của súng 75 ly sơn pháo. Joseph chồm người đến gần viên phi công.

- Xem chừng chúng ta được Quân Đội Nhân Dân Việt Nam đón tiếp khá nồng hậu đó.

Viên phi công gật đầu hững hờ.

- Tụi nó sẽ pháo vô phi đạo khi chúng ta đáp xuống dưới đó nữa cơ. Chuyện này xảy ra như cơm bữa rồi. Ngay khi chúng tôi vừa ngừng lại thì Monsieur nhớ phải nhảy ngay xuống và chạy cho mau tới xe của Bộ Chỉ Huy gửi tới đón Monsieur mới được nghe.

Ngay khi chiếc phi cơ chùng thân lại để đáp, thì Joseph nghe hàng loạt đạn súng cối nổ vang, làm tung từng cột đất vàng lên dọc theo hai bên phi đạo lót bằng vỉ sắt mà Nhật Bản đã cho lót từ khi còn chiến tranh. Nhìn qua khung kính cửa sổ phi cơ, Joseph thấy bên lề phi đạo một chiếc xe Jeep đang chạy quanh qua, quanh lại theo hình chữ chi giữa các chùm đạn phá nổ tung tóe khắp nơi. Dù cách xa cả trăm thước nhưng Joseph vẫn thấy rõ vóc dáng cao lớn của người ngồi bên cạnh tài xế với quân phục ngụy trang của binh chủng Nhảy Dù.

Chiếc mũ đỏ thuộc Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù thuộc địa, hiên ngang nằm Irên đầu người đàn òng đó. Không như người tài xế với nó sắt trên đầu và cứ chỉ đầy lo sợ, người đàn ông ngồi cạnh uy nghi, dường như coi thường hết mọi diễn biến đang xảy ra chung quanh đây. Phân biệt được điều này, Joseph chợt nghe cái mặc cảm tội lỗi từng dày vò anh suốt hai ba năm gần đây giờ bỗng dưng bùng lên trước vẻ uy nghi, đầy can đảm của người sĩ quan ngồi trên chiếc xe Jeep đó.

Chiếc Dakota vừa ngưng bánh thì Joseph vội nhảy tung người ra khỏi phi cơ, anh cúi thấp người chạy vội về phía chiếc xe Jeep. Người tài xế cho xe chạy chậm lại với nhịp chạy của người dưới đường để Joseph có thể nhảy lên xe, sau đó chiếc xe lại chạy hết tốc lực trở lại pháo đài chỉ huy được xây cất sâu dưới mặt đất gần hai thước.

- Moa cứ tưởng lòng chảo này phải là một pháo lũy kiên cố lắm chứ?

Joseph vừa nói như hét, vừa siết chặt tay người Trung Tá Pháp.

- Vững chắc lắm ông bạn vàng ơi! Moa cam đoan mà.

Paul Devraux cười rạng rỡ, cất tiếng nói thật to cố lấn át tiếng nổ của đạn pháo.

- Đừng có lo, ông Mỹ đa tình sẽ không bị để chim lại nơi này đâu. Tụi nó không làm sao tạo được một màn hỏa lực hùng hậu và hiệu quả với mấy khẩu súng bắn cò 75 ly đó đâu.

Khi chiếc xe Jeep rít bánh, ngừng gấp trước miệng hầm dẫn xuống pháo đài của Paul, thì một chi đội thiết giáp M24 lù lù sau đám bụi dầy đặc, chạy ngang qua chỗ hai người. Paul đưa tay chỉ về hướng Đông Bắc nói.

- Mấy chiếc xe tank đó đi dẹp các khẩu sơn pháo tại các ngọn đồi đàng kia. Không bao lâu nữa thì tụi nó sẽ im họng ngay. Nếu cần thì mình có thể đứng đây mà xem.

Độ hai phút sau thì người ta bắt đầu nghe tiếng bắn đi của đại bác chiến xa vang vọng khắp khu vực lòng chảo, và sau đó thì Việt Minh cũng ngưng pháo kích vào phi trường. Paul mỉm cười thích thú, đưa tay quàng ngang vai Joseph đầy vẻ thân mật.

- Thấy chưa? Moa nói có sai đâu. Có phải đây là một nơi an toàn nhất Đông Dương này hay không?

Joseph nhoẻn miệng cười theo với bạn, nhưng anh vẫn không kềm được cái nhìn nghi ngờ về hướng các mỏm núi cao bên trên chung quanh lòng chảo.

- Nếu toa không tin moa. Moa sẽ dàn xếp để toa được nói chuyện với Đại Tá Piroth, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh ở đây. Ông ấy sẽ trấn an cho toa.

Paul cất tiếng cười thật to rồi làm một cử chỉ nhường cho Joseph bước vào bên trong hầm trước, rồi nói tiếp.

- Nhưng công việc đầu tiên và quan trọng hơn hết, là moa còn một chai cognac thượng hạng để uống mừng mình gặp lại nhau và để mừng toa tới Điện Biên Phủ nữa.

Paul đập nhẹ vào vai Joseph một lần nữa.

- Sau nhiều năm rồi, moa thật mừng được gặp lại toa, Joseph.