← Quay lại trang sách

HAI

Cũng cùng trong thời gian này, bên trên triền núi dầy đặc cây rừng, cách pháo đài phòng thủ của Paul Devraux chừng ba dặm đường, Ngô Văn Đồng, người con trai lớn của Ngô Văn Lộc, tài xế giúp việc cho gia đình Devraux trong các cuộc đi săn ngày xưa, lúc này đang cố gắng hết sức mình vật lộn với sợi dây bện bằng các nhánh cây rừng chung lại với nhau. Sợi dây chằng mạnh xuống đôi vai trần của Ngô Văn Đồng, hằn lên một vết lún rướm máu. Mình mẩy ướt đẫm mồ hôi, Ngô Văn Đồng đang hợp sức cùng một trăm binh sĩ thuộc quyền, cố kéo khẩu đại bác 105 ly của Trung Cộng từ bên dưới một khe núi thẳng đứng để đem lên trên tầng chót núi cao.

Bên cạnh đám người này lúc bây giờ có Đào Văn Lạt, khắc khổ trong bộ đồ bằng vải kaki thẳng tắp, không thấy có đeo phù hiệu hay cấp bậc gì hết cả ngoài mái tóc hoa râm trước tuổi, cho thấy Đào Văn Lạt hiện là một chính ủy cao cấp trong Bộ Chỉ Huy của Tướng Võ Nguyên Giáp. Mỗi lần khẩu súng đại bác với nòng to và dài được kéo lên vài tấc, thì đám binh sĩ phải vội vàng dùng hết sức mình đẩy các miếng chêm vào bên dưới các niềng bánh xe để giữ cho khẩu súng khỏi tụt trở xuống. Mỗi lần như vậy, Đào Văn Lạt gục gặt đầu ra vẻ hài lòng, và khi toán quân được nghỉ mệt thì Đào Văn Lạt bước tới, bước lui, cất tiếng ngâm nga:

- Khe núi có sâu, nhưng không có khe nào sâu bằng lòng căm thù quân thù của chúng ta.

Đào Văn Lạt vừa ngâm dứt câu thì hàng trăm người có mặt tại nơi này, mình mẩy đầy mồ hôi nhuễ nhại cùng cất giọng khàn khàn, đầy mỏi mệt lập lại lời của Đào Văn Lạt. Sau đó thì mọi người cùng chung tay bắt đầu lại một nỗ lực mới.

- Nào kéo mạnh lên, hãy kéo mạnh lên.

Ngô Văn Đồng hô to hiệu lệnh, và sau mỗi lần như vậy thì mọi người trong đám cùng ra sức kéo sợi dây lên cao. Ai nấy đều ra sức chống chọi, chân họ trượt lên, trượt xuống các ghềnh đá, cố ghì chặt sợi dây, từ đó khẩu súng lần lần được nâng cao thêm lên.

Đã ba ngày qua, Đại Đội của Ngô Văn Đồng cố kéo khẩu đại bác này lên đỉnh núi. Di chuyển từng tấc một và phải mất cả ngày tròn người ta mới đem được khẩu súng này lên đến lưng chừng núi. Để cho công việc dễ dàng hơn, người ta phải dùng tay không mở một đường mòn bằng cách đập bể các tảng đá vôi lổm chồm tại các triền núi, trong khi một số người khác phải thiết lập một lưới ngụy trang ngay bên trên con đường được thiết lập bằng cách cho đan các cành cây đính vào nhau như một tấm lưới dầy.

Đây là khẩu súng cuối cùng trong số hai mươi bốn khẩu 105 ly mà Sư đoàn 351 súng nặng của Tướng Giáp đã di chuyển qua suốt đoạn đường năm trăm dặm trong rừng núi từ biên giới Trung Hoa tới Điện Biên Phủ này mà không bị phát giác. Hai mươi ba khẩu súng khác đã được đem hết lên chót núi cao. Chính Đại Đội của Ngô Văn Đồng được chỉ định để đem khẩu súng sau cùng này. Đây là một vinh dự dành riêng để tưởng thưởng công lao lãnh đạo anh dũng của Đồng trong các trận đánh trước đây. Đồng và các binh sĩ trực thuộc đã quá mệt nhọc sau gần cả buổi sáng hì hục với công việc nặng nhọc này. Sức lực và tinh thần của mọi người đều quá mệt mỏi, ai ai cũng biết, là ít nhất cũng phải mất một ngày nữa họ mới có thể đem khẩu súng này lên đến nơi đặt súng đã được một toán đặc công dọn sẵn từ trước trên đỉnh núi. Đồng phải thương lượng với Đào Văn Lạt để xin cho binh sĩ được nghỉ tay.

Binh sĩ thuộc quyền của Ngô Văn Đồng hầu hết là những thanh thiếu niên trên dưới mười bốn hoặc mười lăm tuổi. Ngay khi được lệnh nghỉ để ăn cơm thì ai nấy đều nằm soãi người dài theo triền núi, mệt lã. Phải một lúc lâu sau, họ mới có sức chồm dậy để quơ lấy phần cơm vắt nhai ngấu nghiến. Đứng trước cảnh tượng này, Đồng chợt nhớ đến nỗi đau lòng mà mình phải chịu đựng đau khổ suốt một năm rưỡi dài ở đồn điền cao su Vi An. Cũng không khác gì đám thiếu niên trước mặt mình, ngày đó Đồng và em của mình thường bị đói khát làm xỉu gục dưới các cây cao su vì kham khổ. Hai người cũng đổ xô ngấu nghiến phần cơm hẩm ít oi như thế này, nhưng điều quan tâm của họ lúc đó không phải vì đói khát, mà vì sự đối xử độc ác của các chủ nhân ông người ngoại quốc đã dã man hành hạ và bắt họ phải sống trong thời cơ cực để làm việc. Bây giờ, đám thiếu niên của thế hệ mới này cũng đang bị dụ vào tình cảnh đó, nhưng ít ra họ còn có cơ hội để chiến đấu giành lại tự do cho chính mình với lòng căm thù chủ nghĩa thực dân của người Pháp từng đè nặng lên quê hương của họ từ lâu lắm rồi. So với đứa em vắn số của mình, những người thiếu niên có mặt tại đây còn được quá nhiều may mắn và mặc dù phải chịu đựng quá nhiều gian khổ vì công việc nặng nhọc, nhưng họ được hãnh diện có được cái danh dự của người chiến sĩ.

Bị ám ảnh với cái ý nghĩ đau buồn này, Đồng thẫn thờ đi qua, đi lại giữa đám binh sĩ thuộc quyền của mình, mở đầu bằng những câu nói khuyến khích cho đám thiếu niên mà đối với họ, Đồng là một cán bộ gương mẫu, dũng cảm, cho nên ai nấy đều chăm chú lắng nghe. Mọi người đều biết vết thương trên vai của Đồng, dù không mấy khi Đồng nói ra, đó là dấu vết của sự tra tấn dã man qua lần anh bị bắt ở Huế vào năm 1936 và bị đày đi Côn Đảo, rồi anh lại bị bắt vào năm 1945, nhưng Đồng vẫn không mất đi vẻ oai phong của mình. Khi nghe được tin cha mình đã chết trong cuộc khởi nghĩa, anh tự nguyện vào chiến đấu trong hàng ngũ Việt Minh, và với thành tích anh dũng mà anh đã tạo được, cộng thêm vào sự thù oán sâu đậm với người Pháp trong lòng của mình, Đồng được tuyển vào các tiểu đoàn chính quy của Tướng Giáp ở ngoài Bắc ngay khi chiến tranh bắt đầu lan rộng hồi tháng Chạp năm 1946. Trong suốt tám năm phục vụ trong quân đội, bóng dáng của Đồng đã trở nên quen thuộc, là gương mẫu cho Trung Đoàn 59, sư đoàn 312. Rồi Đồng được thăng lên nắm quyền Trung đội trưởng, sau đó nắm chức Đại đội trưởng. Anh đã nhiều lần bị thương trong các trận đánh đẫm máu suốt thời gian tám năm qua.

Hiện tại, Đồng vẫn còn mang một mảnh đạn ghim sâu vào vai không gắp ra được trong một trận đánh năm 1951 khi một quả lựu đạn nổ tung, tưởng đã làm anh mất mạng hồi đó.

Trong lúc Đồng đi tới, đi lui giữa đám binh sĩ của mình, thì Đào Văn Lạt đang cố tình quan sát Đồng một cách tỉ mỉ. Thỉnh thoảng, Lạt gục gật đầu tỏ ý tán thành và khen thầm Đồng đã gây được cho đám binh sĩ thuộc quyền một sự kính nể đặc biệt. Đến chừng khi Đồng mon men đến ngồi xuống bên cạnh Đào Văn Lạt, Lạt đưa tay vỗ nhẹ lên vai Đồng.

- Đồng chí thật biết cách chu toàn cho binh sĩ thuộc quyền và đã khôn khéo biết cách tận lực sử dụng họ.

Đồng gật đầu biết ơn, nhưng trên khuôn mặt anh lộ vẻ khó chịu dữ dằn.

- Thưa đồng chí chính ủy, có nhiều binh sĩ đã quá mỏi mệt, cho nên họ đã làm tôi nhớ đến những ngày còn nhỏ của tôi tại các đồn điền cao su. Mấy thằng Tây đã bắt chúng tôi làm việc cho tới chết. Giờ đây thì chúng ta đã có được vũ khí để bắn vào đầu quân khốn nạn đó rồi.

Lạt chăm chú theo dõi giọng nói đầy căm thù của Đồng một lúc, đoạn lên tiếng nhỏ nhẹ:

- Vậy tại sao đồng chí không kể lại cho binh sĩ thuộc quyền của đồng chí nghe chuyện của mình. Có thể chuyện của đồng chí sẽ làm cho họ quên đi cơn mệt nhọc và tạo cho họ một nguồn sinh lực mới?

Đồng gật đầu vâng lời, anh quơ vội chiếc nón lá rồi đứng lên quơ quơ chiếc nón lên khỏi đầu để kêu gọi sự chú ý của đám người đang nằm la liệt khắp chung quanh đây, Đồng cất tiếng nói đầy xúc động, anh bồi hồi kể lại cuộc đời của mình khi còn làm việc tại đồn điền cao su. Đồng đề cập đến cái chỗ ăn, chỗ ngủ dột nát, kể những sự chết chóc thường xuyên vì bệnh sốt rét rừng, kể những lần phải đem chôn xác đồng nghiệp vào những buổi bình minh u buồn trong rừng. Gương mặt của Đồng đầy căm phẫn khi kể tới sự đánh đập dã man của tên giám đốc đồn điền người đảo Corse và khi kể đến đoạn đứa em trai của mình bị kéo đi dưới cơn mưa lũ, giọng của Đồng nức nở tắt nghẹn. Bên dưới đám cỏ, đám binh sĩ bải hoải thuộc quyền ngừng cả ăn uống, ngơ ngác chăm chú nhìn người chỉ huy.

— Em Học của tôi đã bị tên mộ phu đồn điền cưỡng hiếp.

Cuối cùng anh mới nói được nên lời.

- Qua đến ngày hôm sau em tôi đã vùng dậy, dùng con dao đi cạo của mình chẻ bể đầu tên giám đốc đồn điền. Toàn thể dân phu cạo trong đồn điền lúc bấy giờ cũng vùng lên tấn công mấy thằng tây khốn nạn tại Vi An, nhưng vì chúng tôi thiếu tổ chức, nên cuộc nổi dậy bị đè bẹp. Một năm sau đó, em tôi bị quân Pháp đưa lên đoạn đầu đài và bị xử chém. Mẹ của chúng tôi cũng bị chết trong khám đường dơ bẩn của quân Pháp. Cha tôi thì trong một cuộc biểu tình ở Vinh vào năm 1931 đã bị phi cơ Pháp oanh tạc, làm bị thương chung với mười ngàn người dân ở đó. Mặc dù vết thương làm cho cha tôi bị xuội một cánh tay, nhưng cha tôi vẫn ở trong hàng ngũ Việt Minh của chúng ta để tiếp thu Sài Gòn năm 1945. Lúc đó, tôi mới được ân xá từ Côn Sơn về. Quân Pháp cũng giết cha tôi và đập tan tân chính phủ của chúng ta.

Giọng nói của Ngô Văn Đồng chất chứa đầy xúc động, thỉnh thoảng Đồng ngưng nói để lấy hơi và thoáng nhìn về phía Đào Văn Lạt để dò xét phản ứng của viên chính ủy. Mỗi lần như vậy, Đào Văn Lạt lại gật đầu ra hiệu khuyến khích thêm cho Đồng tiếp tục.

- Nhưng chuyện của tôi, các đồng chí thấy không có gì lạ cả, bởi hầu hết các đồng chí ở đây ai cũng có người bị mất cha, mất mẹ, chú, bác, cô, dì như tôi. Tôi cũng có gia đình và cũng đã có con. Khi các con tôi ra đời, tôi đã tự hứa sẽ không để cho chúng phải chịu những cảnh đau đớn này. Bây giờ đây, tại Điện Biên Phủ này, chúng ta có thể làm cho quân chó má Pháp tan nát để giành lại cho các con của chúng ta sau này, phải không?

Trước cuồng lưu nhiệt tình của Ngô Văn Đồng, mọi binh sĩ thuộc quyền đều bị kích thích đến ngẩn ngơ. Đào Văn Lạt lặng lẽ đến bên cạnh Đồng, đặt tay lên vai người Đại đội trưởng.

- Các đồng chí hãy nghe tôi nói. Chính bản thân tôi biết được một phần câu chuyện đầy bi hùng này của đồng chí Đại Đội Trưởng của các đồng chí.

Đào Văn Lạt ngừng nói, chờ một cơ hội nhập tâm rồi thấp giọng.

- Hồi ở Vinh, tôi từng sát cánh với cha của đồng chí Đồng để đi biểu tình và đã chứng kiến cảnh phi cơ của Pháp rải bom vào dân lành của chúng ta. Có hàng trăm người vô tội, vừa đàn bà, vừa trẻ con bị chết lần đó, trong số này có một người rất thân với bản thân tôi.

Đào Văn Lạt lại ngừng nói, anh đưa mắt nhìn mọi người đang ngồi bên triền núi, lúc bấy giờ ai nấy đều thẫn thờ.

Lạt biết sự chen vào câu chuyện của Đồng, đã gặt hái được kết quả.

- Đó là một người con gái còn trẻ và rất đẹp. Nàng đã không những vô cùng dũng cảm mà còn là một người yêu nước chân thành. Tôi yêu nàng, và nàng cũng yêu tôi. Hôm đó, nàng đi bên cạnh tôi trong đoàn biểu tình. Bởi vì nàng cũng như tôi, chúng tôi cũng đều nhiệt tâm dốc lòng cho đại cuộc để giành lại tự do cho đất nước mình khỏi tay quân thù tàn ác. Cái chết của nàng đã làm cho tôi vô cùng đau đớn. Từ đó cho tới nay, tôi đã phải sống trong những ngày đầy đau khổ, bởi vì chính tôi là người đứng ra tổ chức cuộc biểu tình đó.

Lạt cúi đầu để đè nén cơn xúc động trước cái kỷ niệm đau buồn này. Mãi một lúc sau, Lạt mới ngẩng đầu lên, gương mặt căng thẳng tưởng chừng như chính ngay giây phút này đây sự đau khổ của câu chuyện đang xảy ra vậy.

- Thật tình thì đây là một nỗi dày vò không bao giờ nguôi được, bởi vì trước ngày xảy ra chuyện kinh hoàng này, tôi và nàng cùng chung quyết định, là chúng tôi cùng quyết hy sinh từ bỏ hết mọi nỗi vui thú của xác thịt để cùng chung lo cho tổ quốc. Tôi thường lo sợ các thú vui xác thịt sẽ làm cho tôi phí đi sức lực để lo cho việc chung. Vì thế, để tận tâm hết mình với lý tưởng cách mạng, tôi đã dùng dao cắt bỏ đi phần xác thịt mà tôi nghĩ rằng nó sẽ là động lực gây ra nhiều việc vô ích và riêng tư.

Đào Văn Lạt ngừng nói một lúc thật lâu, anh đưa mắt nhìn lên chót núi cao trong một thái độ có phần kịch cỡm, nhưng chú tâm là để cho người ta thấy nét mặt đau đớn thực sự của mình trong ký ức giờ vẫn còn in hằn. Cũng cùng lúc này, ngoài vóc dáng của một người có học thức, Đào Văn Lạt thực sự đã gây cho toàn thể đám binh sĩ có mặt tại đây một sự kính nể thuận tình. Mọi người đều ngẩn ngơ trước sự kiện bất ngờ mà họ vừa đều biết được, và từ đó những điều mà Lạt vừa kể thật sự thấm nhuần, ai nấy đều đưa mắt nhìn theo lên chót núi cao. Sau cùng Lạt cất tiếng trầm ngâm.

- Chuyện đó cho đến nay đã hai mươi bốn năm qua rồi. Từ đó cho tới ngay bây giờ, chưa bao giờ tôi nghĩ rằng tôi có chút nào ân hận về sự hy sinh của mình hết cả và tôi cũng chưa bao giờ có ý nghĩ bỏ cuộc về công cuộc dấn thân tranh giành cho bằng được sự tự do cho đất nước của chúng ta hết.

- Suốt trong thời gian qua, tôi đã cố gắng làm việc bên cạnh Bác Hồ và đồng chí Tư lệnh Giáp, và bây giờ tại Điện Biên Phủ này, chúng ta đã đạt đến giai đoạn của sự thành công mà tôi hằng mơ ước trong suốt thời gian dài đã qua. Tất cả mọi người chúng ta ở đây được lịch sử chọn lựa để hoàn tất cái nỗi hy vọng của hàng triệu người Việt Nam yêu nước đã bỏ mình từ trước cho đến giờ, và chúng ta không có quyền làm cho họ thất vọng. Hiện ngay lúc này đây, hàng ngàn người dân của chúng ta đang gian lao cực khổ trên khoảng đường dài ba trăm dặm, đẩy những thồ xe đạp gạo, muối và đạn dược mà chúng ta cần để thắng trận quyết định này. Người Pháp không bao giờ tin là chúng ta có thể tiếp tế một quân đội năm mươi ngàn người tại một góc hẻo lánh ở miền Bắc này. Họ cũng không bao giờ tin, chúng ta có thể đem được vũ khí nặng lên đỉnh núi cao kia hết cả, nhưng tôi biết, và các đồng chí cùng biết, là chúng ta đã hy sinh quá nhiều để không còn nghĩ được tới sự thất bại nữa.

Lạt vụt ngừng nói, anh đưa tay cởi nút áo và quăng chiếc áo xuống đất trước sự ngạc nhiên của đám binh sĩ trẻ.

- Chúng ta không thể nào làm thất vọng những người đã đặt niềm tin vào chúng ta, và điều quan trọng hơn hết, là chúng ta không để bị thất bại trước những lời hứa mà chúng ta từng tự nguyện từ xưa tới giờ phút này. Đồng chí Đồng và tôi đã từng chịu nhiều đau khổ do bàn tay của người Pháp gây ra và chúng ta sẽ đem hết sức lực cuối cùng của chúng ta để kéo khẩu súng này lên đỉnh núi trên kia. Các đồng chí sẽ cùng với chúng tôi dốc hết toàn lực ngay từ lúc này, cũng như vào những trận đánh sắp tới. Từ đó, chúng ta sẽ đánh đuổi quân Pháp ra khỏi đất nước của chúng ta và giành lấy chiến thắng sau cùng, cái chiến thắng mà ông cha của chúng ta đã mơ ước suốt gần một trăm năm qua.

Đào Văn Lạt quay mình, cúi xuống cầm lấy sợi dây buộc vào khẩu đại bác choàng lên cánh vai trần của mình rồi bắt đầu ra sức kéo lên trong lúc Ngô Văn Đồng lập tức ra lệnh cho toàn thể binh sĩ bước tới tiếp sức. Cả đoàn người đồng thanh đứng lên reo hò vang khắp khu rừng. Bắt đầu từ đó, mọi người đều còng lưng theo nhịp hô hào để ra sức kéo. Dần dần khẩu súng nặng nề được từ từ kéo lên và lên thẳng tới đỉnh núi cao, nơi mà họ đặt nòng súng quay về phía có thể bắn những phát đạn thẳng vào quân thù của họ dọc theo lòng chảo bên dưới.