22. DANH CA TUYẾT LOAN (1950) SÀI GÒN VÔ TƯ
Suốt 50 năm qua, tên tuổi Tuyết Loan gắn liền với dòng nhạc quý phái và giàu chất ngẫu hứng, đến mức nghệ sĩ này được giới sành nhạc phong cho tước “Nữ hoàng nhạc Jazz”. Mà ngay cả các đồng nghiệp ở Singapore, nơi giúp Tuyết Loan có đĩa thu âm đầu tiên, cũng đánh giá rằng “tại Đông Nam Á, gần như không có ai hát jazz như chị”. Tuyết Loan là một báu vật hiển nhiên, nhưng vẫn còn ẩn danh của Sài Gòn.
Suốt mất chục năm ca hát không đứt quãng, đến năm 1994, chị mới nhận được lời đề nghị thu âm một đĩa nhạc từ các đồng nghiệp Singapore, năm 1995 nó mới thành hiện thực. Điều này chứng tỏ hai điều, thứ nhất, “nữ hoàng” rất thản nhiên và vô tư với công việc của mình, chẳng cố ý đua tranh hay dùng quan hệ để tìm kiếm thành quả, danh tiếng. Thứ hai, nhạc jazz nói chung là mảnh đất quạnh quẽ và kén chọn người nghe trên khắp thế giới, cố gắng để làm một đĩa jazz không khó về kỹ thuật hay vật lực, nhưng để đủ chất, đủ duyên và đủ người tri âm thì khó hơn gấp bội.
Cũng vì vô tư mà đến tận năm 2012, sau gần 50 năm ca hát, Tuyết Loan mới được bạn bè giúp làm một đêm nhạc riêng, tại một phòng trà be bé ở Sài Gòn. Có một điều chắc chắn, nếu bon chen hay ganh đua, sẽ chẳng gì ngăn trở được một tài năng (thậm chí nhan sắc ‒ thời trẻ) như chị thực hiện một đêm nhạc riêng. Nhưng chị vẫn phớt lờ mọi cám dỗ và hào quang giả tạo của các cuộc trình diễn bề nổi, đình đám, tốn kém, và cả những lời đề nghị “chưa phù hợp” từ các cá nhân hay công ty này nọ, để đêm đêm đi hát ở những tụ điểm nhỏ nhắn, vốn ít người lui tới.
“Tôi không có gì quá đặc biệt để phô trương, ít ai hát jazz, chỉ có mình hát, thế là mình lạ hơn, vậy thôi. Với người Sài Gòn, tôi không quá đình đám, nổi tiếng, nhưng ai yêu jazz cũng biết đến mình. Là người Nam Bộ, tính cách rặt chất miền Trong, tôi làm đêm nhạc này không phải để tạo danh tiếng, mà chỉ là hát cho đam mê và kỷ niệm mà thôi. Người mê nhạc jazz Sài Gòn không cần đêm này cũng biết tôi mà! Jazz kén người nghe, Việt Nam lại càng không có công chúng đông đảo ở dòng nhạc này. Sự nghiệp không có nhiều hào quang cũng chẳng có gì phải buồn. Hàng đêm đi hát, được hát, được gặp những tri âm, tri kỷ, vậy là quá vui rồi”, Tuyết Loan từng tâm sự như vậy.
Vào nghề từ năm 14 tuổi, hát để phụ mẹ đong gạo nuôi em, đến năm 20 tuổi, mẹ mất, một mình đi hát để nuôi 6 đứa em thơ và hai đứa con dại, lại chọn dòng nhạc kén người nghe, nếu không vô tư sống và yêu nghề, chắc Tuyết Loan đã quỵ ngã hay bỏ nghề từ lâu rồi. Và cũng chỉ vì quá yêu nghề, mà Tuyết Loan đã vượt qua bao nhiêu thị phi, so đo và cả khuôn phép gia đình để khẳng định cá tính của mình. Như tinh thần phản kháng và “bất đồng chính kiến” từ gốc tích của jazz, Tuyết Loan đã thành biểu tượng của tự do, của lòng tự trọng, tự tin, tự tôn và cả tự tại trong nghệ thuật.
Dù kén người nghe vì sự lịch lãm, ngẫu hứng của nó, nhưng jazz vẫn bị ngấm ngầm xem là dòng nhạc của nổi loạn, phóng túng hoặc giang hồ... Cũng vì yêu nghề, từ một bản năng với giọng kim cao được trời cho, Tuyết Loan đã học, đã nghe, đã bắt chước, đã tự rèn luyện..., để đến nay, sau 50 năm, giọng ca ấy vẫn toát lên sự quyến rũ hiếm có, với cách hát vừa “kinh điển”, vừa phóng túng, sáng tạo. Nghe những bản jazz thuộc loại kinh điển như: Easy Living, Ebb Tide, Lullaby Of Birdland, Dont Get Around Much Anymore, Misty, Route 66, The Man I Love, They Cant Take That Away From Me, Star Dust, The Girl From Ipanema..., hay những bản dễ nghe hơn như Alfie, What A Difference A Day Made, For Once In My Life, Tea For Two..., vẫn thấy chất riêng của Tuyết Loan trong đó. Chất phiêu lãng, “ngang bướng” của Tuyết Loan còn được nhìn thấy trong các bản blues, bản swing... tuyệt tác mà trên thế giới đã có nhiều nghệ sĩ trình diễn thành công.
“Nhạc jazz kén chọn người nghe và ở Việt Nam cũng không có đông đảo công chúng nghe jazz. Chính vì vậy sự nghiệp ca hát của tôi không nhiều hào quang hay nổi bật. Tuy thế, tôi cũng không lấy làm buồn. Tôi say mê jazz và nhờ jazz tôi tìm thấy niềm vui trong nghiệp ca hát và cả cuộc sống. Hằng đêm đi hát, tôi đều trông thấy những khán giả tri âm tri kỷ với jazz”, Tuyết Loan nói.
Bước qua nhiều giai đoạn khó khăn của cuộc đời, đến nay, ở tuổi 63, Tuyết Loan đã nhận được quả ngọt từ sự nghiệp, gia đình và con cháu, cuộc sống đã sung túc hơn. Thế nhưng phong thái và tâm thế của nữ nghệ sĩ này vẫn chẳng có gì thay đổi, mỗi tuần ngồi xe máy của chồng hoặc xe ôm bốn ‒ năm đêm để đến nơi có người muốn nghe mình, mỗi đêm hát chừng năm ‒ sáu bài, có khi nhiều hơn, nếu khán giả quá nài nỉ hay yêu cầu. Những đêm mưa gió bất chợt, nhìn cảnh chị trùm áo mưa từ xóm lao động lên trung tâm Sài thành, “Jazz lady of Vietnam” dường như có hai cuộc đời, nữ hoàng trên sân khấu jazz và người đàn bà thầm lặng, lãng du ngoài đường đời.
Dõi theo hành trình ca hát của chị trong chừng 10 năm qua, tôi biết và tôi thấy chị cũng còn đó những lo toan, phiền muộn... Thế nhưng khi bước lên sân khấu, như một phép lột xác, Tuyết Loan rạng rỡ và lộng lẫy, chẳng khác gì nữ danh ca nhạc jazz huyền thoại Dinah Washington (1924 ‒1963), người để lại những ca khúc bất hủ như Harbor Lights, My Heart Cries for You, I Won’t Cry Anymore, Cold, ColdHeart, I Don’t Hurt Anymore, Dream, Teach Me Tonight, I Concentrate on You, This Bitter Earth, Love Walked In, It Could Happen To You, September In The Rain, What A Difference A Day Made, Unforgettable..., mà một ít trong số này đã được Tuyết Loan trình diễn lại khá thành công. Có lẽ danh hiệu “nữ hoàng” đến với Tuyết Loan là do khả năng lột xác này, nó cũng như cốt cách bình dân của người Sài Gòn, vốn đơn giản ngoài đời sống, để khi cần thì “biến hình” cho hợp bối cảnh, dù nó hoàn toàn khác với hình ảnh thường nhật của họ.
Hơn nữa, khi nhìn hành trình hát nhạc jazz gần như đơn độc của Tuyết Loan trong vài thập niên qua, mới thấy việc chiến thắng được nỗi cô đơn để gìn giữ nghề là điều rất khó khăn, bởi ma lực của danh lợi là một cám dỗ kinh khủng. Điều này cũng phần nào cho thấy “độ chân thật” từ những lời có cánh trên báo của nhiều ca sĩ trẻ hiện nay về lòng yêu nghề của họ. Jazz sang trọng, quyến rũ... nhưng chẳng mấy ai theo, mà chỉ có nhạc pop, nhạc trẻ, vốn được mệnh danh là nghề “mau thấy” ‒ thành bại, danh lợi, kiếm tiền đều trước mắt ‒ nên phần lớn giới trẻ đã/phải chọn, chứ thực sự về lòng yêu nghề, quyết tâm đi theo đam mê của mình, họ chẳng thể nào biết. Mà có biết, họ cũng không dám chọn; tư tưởng sợ cực, sợ nghèo đã gần như giết chết phần lớn sự sáng tạo trong nghệ thuật và âm nhạc Việt Nam.
Tài năng và những đóng góp của Tuyết Loan trong việc làm phong phú, sang trọng nền âm nhạc Việt Nam đến mức độ nào thì cần những nghiên cứu chuyên sâu và bài bản hơn, nhưng dưới cái nhìn của lịch sử âm nhạc, vị thế của nữ danh ca này sẽ khó mà phủ nhận. Và cũng chính những tài năng tự tại, lặng lẽ như Tuyết Loan, chấp nhận đứng bên lề các hào quang chính lưu, để âm thầm thắp lên những que diêm yếu ớt giữa đêm giá lạnh, đã làm nên sức mạnh của Sài Gòn. Nơi đây, một thành phố mà với những người vãng lai, kì thị, vốn hay đánh giá là hời hợt, vô tư, nhưng khi đã hiểu nó rồi, sẽ thấy hoàn toàn không phải thế. Người Sài Gòn thích làm việc và thích đóng góp cụ thể, mà ít khi muốn cãi cọ hay lý thuyết suông.
“Đến khi 90 tuổi tôi vẫn có thể mặc áo đầm, hát jazz, blue nếu khán giả còn yêu, còn muốn nghe giọng Tuyết Loan. Jazz đã ở trong máu của tôi và tình yêu jazz chỉ có thể ngày càng lớn lên theo tuổi tác chứ không thể nào phai mờ đi”, Tuyết Loan đã khẳng định như vậy tại buổi họp báo sáng 7/4/2012 ở TP. HCM, khi đêm nhạc riêng gần như duy nhất trong đời của chị sắp bắt đầu.
La Hán Phòng, 4/1/2013.