24. NHÀ VĂN TRẦN THỊ NGH (1948) SÀI GÒN THẲM ĐAU
Thuộc thế hệ gần như cuối cùng của văn đàn Sài Gòn trước 1975, Trần Thị NgH xuất hiện muộn hơn Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nguyễn Thị Hoàng, Nhã Ca, Trùng Dương, Túy Hồng..., nhưng cũng đã kịp góp phần làm nên thế hệ đẹp của văn chương nữ lưu. Viết văn từ rất sớm (khoảng 14‒15 tuổi), nhưng mãi đến năm 1970 thì truyện ngắn đầu tay mới gởi in trên Vấn Đề, Trần Thị NgH là nhà văn kĩ tính, kĩ tiếng và công phu trong từng câu chữ, mấy chục năm cầm bút liên tục, nhưng chị viết rất ít. Mới đây (tháng1/2013), ba tập truyện của chị vừa được tái bản tại Việt Nam, sau mấy chục năm ngao du đây đó.
Trước 1975, giá trị và công phu của nhà văn còn ở vị thế cao, chỉ một vài truyện ngắn thành công là người viết đã được xếp “chiếu trên”. Với sự nghiêm cẩn trong ngòi bút, Trần Thị NgH chỉ in một số truyện ngắn trên các tạp chí như Văn, Vấn Đề, Thời Tập, Thời Văn..., và mới chỉ kịp tuyển chọn nên tập Những Ngày Rất Thong Thả, không kịp ra đời trước sự kiện 30/4/1975, nhưng đã được độc giả và giới phê bình lưu dấu dài lâu. Ngay thời đó, trong tập Những Truyện Hay Nhất Của Quê Hương Chúng Ta (20 năm văn học miền Nam 1954‒1973), Sóng xuất bản năm 1974, truyện ngắn tiêu biểu Nhà Có Cửa Khóa Trái của Trần Thị NgH đã được chọn.
Sinh tại An Xuyên, Cà Mau, học Luật khoa Sài Gòn và Văn khoa Huế, Trần Thị NgH gắn bó dài lâu với Sài Gòn, nhiều khi phải chịu kì thị vì công việc văn chương của mình, phải chịu niềm đau riêng. Hơn 20 năm kể từ 1975, Trần Thị NgH im lặng hoàn toàn, viết là để cất vào ngăn kéo, chị sống bằng nghề dạy học, có lúc người ta đồn chị đã giải nghệ, thậm chí bỏ đi sống ở một nước xa xôi nào đó. Thế nhưng Sài Gòn vẫn nhìn thấy chị, đi về trong một hẻm nhỏ ở Phú Nhuận, nhiều người “mới” chẳng biết chị là nhà văn. Đã biết bao người tìm đến chị để học tiếng Anh; có khi chị còn dạy tiếng Anh, tiếng Pháp cho người nước ngoài (tôi nghe kể như vậy). Nghĩa là với tên tuổi, năng lực và vốn sinh ngữ phong phú của mình, Trần Thị NgH có thể chọn sống ở một nước nào đó dễ dàng, nhưng vì nhiều duyên cớ hoặc ràng buộc vô tình, chị vẫn ở cùng Sài Gòn khá lâu.
Trần Thị NgH dân Cà Mau, vốn không xa lạ với phong vị vùng miền, chất dân gian Nam Bộ chảy trong máu, nhưng khác nhiều thế hệ văn chương miệt vườn, chị đã đi vào con đường văn chương trung tính. Bỏ qua bối cảnh sống của nhân vật, văn chương của chị là kết cuộc của một hành trình cô đúc ý tưởng, gọt giũa chữ nghĩa, với những câu chuyện phi vùng miền, phi chiến tuyến và phe phái. Đầu tiên và sau cùng, những câu chuyện đó vẫn xoay quanh nỗi đau làm người, và nỗi đau vì người, do người. Trần Thị NgH viết là viết về nỗi đau, có cái đau nhìn thấy ngay, có cái đau dồn nén, âm ỉ. Nỗi đau đã thành tư tưởng.
Tất nhiên Trần Thị NgH không phải nổi tiếng vì viết về nỗi đau, bởi điều này chẳng có gì xa lạ với lịch sử văn chương, dù nhiều nỗi đau của chị là “nỗi đau mới”. Mà như thi sĩ Thanh Tâm Tuyền nhận định: “... không như Võ Phiến nói về ý, tôi nói về văn, [Trần Thị NgH nói] về sự rời rạc, sự tuôn tràn, những nhịp thở, những lỗ trống, nói về dấu phẩy, dấu chấm; phẩy là đòi đoạn, chấm là chưng hửng lôi tuột luốt như rớt đến trống không đến sợ. Và câu khác trồi lên, kéo lên như một ân huệ, như một phép màu để lại dìm trong đòi đoạn. Hãy lắng nghe, đừng đọc”. Còn thi sĩ Du Tử Lê thì gom bằng những tính từ: mạnh mẽ, lạnh lùng, khô khốc, giễu cợt, ngỗ ngáo, gây gổ, thiếu bóng cây. Nhà phê bình Thụy Khuê thì: tỉnh táo, vô cảm, châm biếm, đớn đau, tự trào, hiện sinh, rất mới, rất trẻ... Trần Thị NgH thuyết phục văn giới bằng văn phong gọn gàng, đột phá và đầy hấp lực của mình. Bút pháp và tư tưởng của chị từng được xếp vào nhóm nhà văn “ngỗ ngáo/ ngỗ nghịch” của thập niên 1970.
Cái mới mẻ đó một phần được thắp lửa bởi văn đàn Sài Gòn trước 1975 có rất nhiều tài năng để “cạnh tranh” lành mạnh và nhiều tạp chí có mắt xanh giúp xiển dương. Văn chương thời đó phong phú và thuần văn chương hơn bây chừ rất nhiều, ít chịu sự chi phối bởi hội hè, quyền lực, đồng tiền hay các định hướng này nọ. Bên cạnh đó là trào lưu hiện sinh, cùng sự phi lý, vô nhân của chiến tranh đã làm phông nền để nhà văn suy tư và kiến giải nội tâm mình. Viết về nỗi đau làm người, phần nhiều, Trần Thị NgH cũng viết về nỗi đau làm mình.
“Nhưng phải nhấn mạnh rằng những nhà văn như Túy Hồng, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Thụy Vũ,... phần lớn đều đã tiếp nhận hiện sinh một cách gián tiếp: Họ vô tình mà hiện sinh. Cuối thập niên 1960, một khuôn mặt trẻ xuất hiện: Trần Thị NgH. Ngòi bút Trần Thị NgH, lần này đích thực có ý thức hiện sinh, nghĩa là có phong cách hiện sinh trong chiều sâu, có những nhận xét sâu sắc về bản thể, về tự do, về hành động, về tồn tại. Tại sao tồn tại. Trần Thị NgH dùng lối viết lạnh, không cho tình cảm nhuộm hồng, nhuộm xanh bầu trời. Tác giả trải tình huống lõa thể trong tư thế bấp bênh để phơi bày sự thực”, Thụy Khuê viết.
Trần Thị NgH thuộc kiểu nhà văn chọn chữ đến chi li, vượt qua mức công phu bình thường để đạt đến sự tinh tế trong diễn đạt. Diễn tả người tình đầu, sau vài đêm chung chạ từ cô gái ngây thơ thành tay quen, chị viết tỉ mỉ đến kinh ngạc: “...Những ngày sau chúng tôi bình tĩnh hơn. Tôi bắt đầu làm quen với các thói quen của chàng. Buổi sáng thức dậy chàng nghe tin tức đài BBC trong khi tôi còn ngủ nán trong giường, sau đó cả hai cùng uống cà phê ở cái bàn nhỏ ngoài gian trước (chàng không ưa ăn sáng, dù một lát bánh mì mỏng, tôi nhịn đói theo). Chàng đi tắm và hắt hơi trung bình khoảng sáu, bảy cái trong lúc xối nước. Chàng thường ra khỏi phòng tắm với cái khăn lông màu xanh quấn quanh cái bụng phệ, người nhễ nhại thơm ngát. Chàng vừa tiếp tục hắt hơi vừa loay hoay với lọ thuốc cạo râu The Hot One có lúc hôn tôi khi mồm miệng đầy bọt nóng bỏng. Chàng mặc quần áo, chải tóc, mái tóc ướt chải sát sởn sơ làm khuôn mặt chàng trơ trụi bóng nhẫy. Đôi mắt cận thị không mang kính có những tia màu đỏ mệt mỏi, nụ cười sáng, những hạt tàn nhang phập phồng trên hai cánh mũi. Chàng đi làm lúc 8 giờ rưỡi sau khi đã để lại một nụ hôn thơm kem đánh răng”, trong truyện ngắn Nhà Có Cửa Khóa Trái.
Tôi không biết suốt đời cầm bút, Trần Thị NgH đã viết khoảng bao nhiêu truyện ngắn, nhưng chắc không quá 100, tuyển tới chọn lui chỉ được bốn ‒ năm tập mong mỏng. Vậy mà mỗi lần chọn, chị lại bỏ bớt, hoặc tạm gác đó, chờ lúc bổ túc, sửa chữa. Trả lời nhà văn Cổ Ngư về điều này, chị nói: “Tôi bỏ con rất nhiều, trong mấy đứa này có Giả Thiết, Nụ Cười, Ao Tù, Bươm Bướm Và Chó, Chủ Nhật, Bao Lơn, Khoan Điệu, Trưa Nắng, Nơi Khác, Trong Cơn Nhức Mỏi, Những Ngày Rất Thong Thả... [...] Mấy đứa có tên vừa kể, nó chết yểu là đáng đời. Có nhiều người cao lớn đang khỏe như vâm mà còn lăn đùng ra chết, huống chi là đám con nít chân yếu tay mềm, lại gặp phải thời khí khắc nghiệt. Không phải tôi ghẻ lạnh gì bọn chúng. Đẻ lúc nào hưỡn tôi xem lại, nếu đứa nào có sức cầm cự, đang còn ngo ngoe hấp hối, tôi sẽ hà hơi cho nó sống dậy chơi tiếp để quên đi tuổi thơ dữ dội”. Viết văn với Trần Thị NgH là một “cuộc chơi nghiêm trọng”, chỉ khi nào thực sự thảnh thơi, có tứ có hứng thì mới chơi; không chơi gượng ép hoặc vội vàng, dễ dãi.
Trước khi trở lại với độc giả Sài Gòn với ba tập truyện Nhà Có Cửa Khóa Trái, Lạc Đạn, Nhăn Rúm, Trần Thị NgH đã sống với việc vẽ tranh, viết nhạc, viết tạp văn, chơi dương cầm... Dù với các thể loại, có thể là sở đoản, nhưng đi vào trong đó, vẫn là một niềm đau thẳm sâu, một nỗi cô đơn khó bề nói hết. Niềm đau thẳm được phủ lên bởi một bề ngoài lãng mạn, tình tứ, nhanh nhẹn... đã là phong cách nghệ thuật của Trần Thị NgH. Và cũng chính vì thế mà Sài Gòn đô hội không chỉ có “ngọn xanh ngọn đỏ”, không chỉ có son phấn bề ngoài, mà trong nó vẫn ẩn tàng niềm trắc ẩn, cho nên nó đáng sống, đáng tin và đáng bao dung, sẻ chia. Không phải ngẫu nhiên mà trong cuộc giao lưu với độc giả Sài Gòn mới đây, sau mấy chục năm xa cách, lại có tên là “Trở về mái nhà xưa”, nó ẩn ý về một nơi mà Trần Thị NgH đã xem là nhà, nơi chị đã sống một mình trong nhiều năm, có khi giống như lưu vong tại chỗ.
“Là một trong những nhà văn có tư chất độc đáo, những vấn đề chị đưa ra thường trầm trọng, nhưng luôn luôn được viết bằng giọng văn gần như vô cảm. Làm cho cái tàn nhẫn càng tàn nhẫn thêm, cái thương tâm càng thương tâm hơn, cái cô đơn càng cô đơn hơn. Những nhân vật của Trần Thị NgH như những xác người đang cố sống nốt một đoạn thời gian chờ giờ khâm liệm”, Thụy Khuê kết luận, tôi đồng tình.
La Hán Phòng, 3/2/2013.