25. NHÀ VĂN NGUYỄN NGỌC TƯ (1977) SÀI GÒN BUỒN GHIỀN
Viết về Nguyễn Ngọc Tư thật khó, vì người ta viết nhiều quá rồi, biết viết chi đây, không khéo, bị cho là ăn theo, cóp ý đạo văn. Mà ăn theo được, cũng không ngại, chỉ sợ ăn theo cũng hổng nổi luôn, cảm giác như đứng giữa ngã năm sông, nước chảy xiết. Nguyễn Ngọc Tư sống ở Cà Mau, nghe nói còn lâu mới rời bỏ nơi ấy để đi lang thang, chứ không phải lên Sài Gòn sống, thế mà tôi vẫn cứ nói Tư người Sài Gòn, thế mới kì cục. Ấy vậy, mà tôi quyết viết về sự kì cục này.
Vừa rồi, khi có dịp đi từ thành phố Cà Mau xuống dưới Năm Căn, cũng là Cà Mau, nhưng thuộc huyện khác, tôi có làm một khảo sát nhỏ về Nguyễn Ngọc Tư. Đó là hỏi ngẫu nhiên 20 bạn gặp lần đầu (áng chừng dưới 25 tuổi) xem có biết Nguyễn Ngọc Tư không, thật ngạc nhiên, khi chỉ có ba bạn biết, trong khi ở Sài Gòn, cũng câu hỏi này, có đến tám bạn. Xin lưu ý, khảo sát này là để cho tôi củng cố niềm tin cực đoan về con người Sài Gòn trong Nguyễn Ngọc Tư, chứ chẳng có giá trị khoa học gì, đừng có tin hoặc trích dẫn theo.
Vì nhiều lý do trên trời dưới đất, có vẻ như Tư nổi tiếng ở Sài Gòn hơn Cà Mau, và các nơi khác. Tư viết cho hai ba báo ở Sài Gòn, phần lớn sách cũng xuất bản ở đây, rồi các hệ quả kéo theo như nhuận bút, bài phỏng vấn, bạn bè, quan hệ xã hội và cả giải thưởng, nó cũng bắt nguồn từ đây. Một thời gian dài, chắc đến 10 năm, muốn đi đâu xa hơn, Tư cũng lấy Sài Gòn làm trạm trung chuyển.
Không gian chủ lưu trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư là một nỗi buồn thẳm, buồn sâu, buồn day dứt và buồn vương ‒ có cảm tưởng nó gắn liền với cái nơi tác giả sinh ra, lớn lên, và biết đâu, sẽ ra đi. Như trong một tạp văn về sông, Tư viết: “Hồi nhỏ tôi sống ở nhà ngoại. Ký ức về sông Rạch Rập trước nhà luôn mang một vẻ buồn thẳm suốt. Sông buồn đến có thể ngửi được, khi ngồi ngoài bến. Một dòng sông lẻ, chảy hiền, dáng vẻ hơi hiu quạnh như thể ở bên rìa đời, không nhiều người biết, không nhiều người lại qua nhưng nó vẫn sống tất tả một đời sông”. Cái nỗi buồn với không gian mênh mông, man mác, đôi khi “trôi dạt” theo con nước đó sẽ như thế nào nếu Tư sống ở Sài Gòn, một cái nơi mà những thứ ấy trở thành đặc sản, hoặc thuốc quý để chữa bớt cái bịnh dửng dưng, vô cảm đang ngày càng trở nên nan y? Vậy mà Tư vẫn cứ hợp gu Sài Gòn, dòng sông miên man và đằm thắm kia chẳng khác gì dòng xe vô định, ức chế nơi đây.
Khi nhà báo Thư Quỳnh hỏi: Cách nào để bạn làm dày vốn sống của mình: Đi? Internet? Hay còn quan trọng hơn vốn sống, là sự tưởng tượng? Nguyễn Ngọc Tư đã sắc sảo và thông minh như bổn tính của mình: “Đi chỉ để tránh cảm giác tù đọng. Internet chỉ là một loại phương tiện giao tiếp, vốn sống là thứ gì đó hơi khó nắm bắt, vì tôi đã thấy nhiều đồng nghiệp sống rất dữ dội, nhưng không thể chuyển tải cái đời sống dày khự đó lên trang viết. Và tôi cũng thấy có anh ngồi một chỗ, chẳng xê dịch đi đâu, xa lạ với thế giới mạng, nhưng viết khỏe re. Nhưng chỉ tưởng tượng thôi thì chưa đủ, nếu xa lạ với đời sống”.
Với một suy nghĩ và tư tưởng như vậy, nên tôi nói Tư là người Sài Gòn cũng không quá gượng ép. G.S Trần Hữu Dũng gọi Tư là “đặc sản miền Nam”, hiển nhiên trong đó có Sài Gòn rồi. Bởi nếu không phải là người Sài Gòn, dù là trong tâm tưởng, khi Tư gặp khó khăn, Sài Gòn đã không phải là nơi đầu tiên và cuối cùng giơ tay ra che chở. Chính sự “thực dụng” theo nghĩa tốt đẹp của Sài Gòn đã cho Tư nghị lực, chỗ dựa và niềm tin để tiếp tục. Mỗi tháng Tư hay xách giỏ đi đâu đó chơi vài ba ngày, vừa trốn gia đình, trốn cái xứ Cà Mau, vừa trốn chính mình, nhưng khi trở về, nếu được, Tư cũng sẽ ghé qua Sài Gòn, với cớ này cớ nọ, nhưng cốt là để uống ly nước rồi về.
Nhà văn Trang Thế Hy, bạn vong niên và thiết thân của Tư kể rằng cô hay ghé nhà ông ở Bến Tre chơi, ngủ lại một hai đêm, nhưng khi đi thì thường sáng sớm, lặng lẽ, ít khi chào từ biệt ai. Trang Thế Hy cũng thường biết lúc Tư đi, nhưng giả vờ ngủ, ông không ngồi dậy, bởi thân thể thì tạ từ, nhưng lòng văn đâu có li biệt. Sài Gòn cũng thế, lúc nào Tư đến hay đi, nó đều biết, nhưng chẳng cố tâm luyến lưu, giữ chân, bởi nó biết, khi Tư lặng lẽ ghé qua, rồi âm thầm đi, nghĩa là Tư đã xem đó là nơi của mình rồi. Tư có một bản đồ ở hộc bàn, khi đến một nơi nào đó, về nhà Tư đều đánh dấu vào đó, nhưng chắc chắn một điều, từ lâu Tư không thèm đánh dấu vào Sài Gòn nữa, vì nó chẳng còn nơi để mà đánh, chẳng còn lạ để mà ghi. Có khi Tư ngồi ở Sài Gòn đánh dấu vào những tỉnh miền Tây mà mình vừa đi...
Công dân miền xa Nguyễn Ngọc Tư có sách bán chạy ở Sài Gòn, hình như chỉ sau mỗi công dân miền gần Nguyễn Nhật Ánh. Sài Gòn ít khi cho không ai điều gì, nó không thích, không ưu thì không chơi, đặc biệt, không xem như người nhà thì khó chia sẻ. Bởi vậy giang hồ mới nói “Sài Gòn ăn chung thì dễ, mà sống chung thì khó”; cái ăn vốn ngoại thân, Sài Gòn không chấp, cái sống vốn nội tại, Sài Gòn dường như vô tư nhưng rất chọn lựa. Mà nơi đây ghiền nhất văn của Tư là ở nỗi buồn, Tư viết chuyện vui cũng man mác buồn; cũng như ghiền Nguyễn Nhật Ánh ở niềm vui, Ánh viết chuyện buồn cũng tươi tắn vui. Sài Gòn sợ không mau, không “ăn” nỗi buồn của Tư, sẽ không “sống nổi thành người”.
Tư ít, hoặc gần như không để tâm viết về Sài Gòn, nhưng nơi đây lại lấy cái nỗi buồn miên viễn kiểu Nguyễn Ngọc Tư để làm thứ chất kích thích để dằn lại lối sống xô bồ, dửng dưng. Sài Gòn ghiền nỗi buồn của Nguyễn Ngọc Tư, nên rất muốn công dân xa thị thành này tôn tạo nó thành thứ buồn độc quyền. Tất nhiên đây không phải là thứ có thể đặt hàng được, nhưng rõ ràng, trong 10 năm qua, bút pháp hay kỹ thuật viết của Tư đã có nhiều thay đổi, nhưng nỗi buồn thì không, nó đã thành cốt cách và tư tưởng của Tư. Người ta thích là thích cái không khí hay tư tưởng nhất quán đó, chứ cứ viết hoài một kiểu, mà tinh thần lung lay, dễ đổi, thì chắc chắn sẽ nhàm.
Nhà báo Kim Yến từng hỏi: Nhiều tác phẩm của chị tràn ngập nỗi buồn cô độc, nỗi bất an mơ hồ, sự rã rời, đau đớn mênh mông, sự sụp đổ của tình yêu... Phải chăng chị quá mẫn cảm, thậm chí yếm thế và bi quan? “Đó đó, bạn đọc cũng có người phàn nàn y như chị, bảo là lúc buồn thì không dám đọc tôi vì sợ... chết. Riêng tôi thì buồn ghiền, nên xoay được cách lấy độc trị độc, buồn thì phải nghe nhạc buồn, xem phim buồn, đọc sách buồn... cho mọi thứ vỡ ra, thấu đáy. Nói gì thì nói, tôi theo chủ nghĩa bi quan, loại người viết mà bạn đọc nên cân nhắc trước khi đọc. Nói đùa, có khi phải dán nhãn chống chỉ định”, Tư khẳng định.
Hồi tháng 9/2008 tại Thái Lan, trong diễn từ nhận giải Văn học ASEAN, Tư đã khắc họa hình tượng của nỗi buồn ấy: “Tôi hay nghĩ về sức mạnh của những giọt nước mắt. Chúng trong trẻo, giản dị nhưng lại gây rung cảm sâu sắc. Những tối, trên bản tin truyền hình, tôi nhìn thấy một em bé, hay một phụ nữ ở xứ sở xa xôi nào đó đang khóc, vì chiến tranh, vì bạo lực, hay vì thiên tai... và những giọt nước mắt lay động bất cứ ai nhìn thấy chúng, bất chấp biên giới, màu da, thể chế chính trị, ngôn ngữ hay những cách biệt văn hóa khác. Tôi nghĩ, nếu vẽ một biểu tượng của nghề viết mà tôi đang đeo đuổi, tôi sẽ vẽ hình ảnh của giọt nước mắt, hay gần giống như thế, bởi văn học vẫn còn rào cản ngôn ngữ. Khi viết về thân phận, nỗi đau, sự bối rối thường trực của con người trước những biến cố của cuộc đời, tôi luôn ao ước những trang viết của mình có được sự rung cảm như những giọt nước mắt. Khi ấy, trong lòng các bạn, tôi không còn là cô gái Việt Nam viết về Việt Nam, mà là một nhà văn viết về thân phận con người, như các bạn”.
Vậy nên, nếu một ngày nào đó bạn thấy Nguyễn Ngọc Tư ngồi xe ôm ra Lê Hồng Phong, Bến xe miền Tây hay Sân bay Tân Sơn Nhất để về Cà Mau, hãy nhớ rằng cô ấy không rời đi, mà là vừa đến. Trong cái mênh mông và tưởng chừng dửng dưng, Sài Gòn vẫn chú tâm đến từng cư dân của mình, để khi cần là ra tay nghĩa hiệp, bởi câu “kiến ngãi bất vi” vốn là cốt cách của đô thành đông dân nhất. Nó đông dân, một phần, cũng vì thế.
La Hán Phòng, 3/2/2013.