Con Đường Ký Ức
Đường Lê Công Kiều nằm trên một góc khuất ở quận 1 và có thể tin rằng nhiều người sinh ra ở Sài Gòn vẫn chưa từng đến, dù nó rất gần chợ Bến Thành. Con đường nhỏ, lề hẹp, êm đềm vì không có mấy xe cộ. Đi trên đường Lê Công Kiều, dễ hoài nhớ con phố Tô Tịch ở Hà Nội, yên tĩnh và lặng lẽ dù sát bên phố Hàng Bông sầm uất.
Những người sống ở con phố này vẫn nhớ ngày một vị Tổng thống tóc vàng đến từ đất nước hùng mạnh nhất thế giới đi dọc con phố để xem chợ đồ cổ bày dọc vỉa hè và trong các tiệm nhỏ. Tấm ảnh chụp ông Clinton trên phố vẫn còn gài phía trong tủ kính của dì Tám tóc bạc bày trên vỉa hè gần đường Nguyễn Thái Bình, sát bên mấy cái chung trà Arita, Noritake còn lại từ thập niên 1970, vốn dành cho sĩ quan Mỹ mua về làm quà sau khi mãn nhiệm. Chuyến đi dạo ngắn ngủi của ông đã góp phần tạo nên thương hiệu cho con phố nhỏ này.
Dù nhiều bài báo cho rằng có tới tám mươi phần trăm số tiệm ở phố Lê Công Kiều bán những món gốm sứ hay tranh pháo giả cổ, giới sưu tầm cổ vật và yêu thích mỹ thuật vẫn xem đây là thiên đường của mình, bất kể việc họ từng nếm trải cảm giác “khi vò chín khúc, khi chau đôi mày” trước một món cổ vật thứ thiệt nhưng quá đắt tiền, hay một món gieo đầy hoang mang nhưng đã lỡ tiền trao cháo múc.
Cổ vật luôn thu hút, nhưng những món phỏng cổ, giả cổ cũng có sức hấp dẫn vì đa dạng và được chế tác tinh xảo. Có thể thấy dấu ấn văn hóa khắp thế giới trên đồ bày bán ở đây. Đồ cổ Trung Hoa luôn ngự trị như một ông vua không ngai - nhiều nhất vẫn là dòng đồ non đầu thế kỷ 20 thời mạt Thanh - đặc biệt là sứ xanh trắng vì vẻ đẹp trong trẻo nhưng thu hút, lộng lẫy nhưng chân phương. Thỉnh thoảng, có thể bắt gặp gốm, sứ phương Tây lạ mắt, tuyệt đẹp như đồ Wedgwood xanh lam nhạt với những chi tiết chạm khắc tinh tế hay gốm Nhật Bản Imari, Satsuma đầy màu sắc.
Đồ gỗ xưa ở đây không bày ngồn ngộn như khu bán đồ gỗ trên đường Pasteur đối diện café Terrace, nhưng lại có những món tinh túy nhất, được cẩn ốc xà cừ đẹp nhất, thường chỉ đặt trong một góc kín khuất dành cho khách quen xem. Tủ Huế được giao dịch riêng, vừa chạm lộng vừa cẩn xà cừ, có khi cẩn ngà, giá lên nhiều trăm triệu một cái tủ chia ô. Bộ bàn ghế Louis đầu thế kỷ 20 với những chi tiết chạm khắc đậm chất Nam bộ với trái điều, khổ qua, mít hay sầu riêng… lưu lạc từ những ngôi nhà xưa cùng niên đại với Huỳnh Phủ ở Bến Tre hay nhà cổ Bình Thủy, bàn bạc nhanh chóng qua điện thoại và xem hàng tại nhà.
Một thế giới xưa cũ ngồn ngộn phơi bày, bàn toán Chợ Lớn và đèn măng-xông Đức, dọc tẩu hút thuốc phiện và máy hát dĩa than đá. Nó kích thích những người hoài cổ từng chìm đắm trong những trang sách về văn hóa hay đã từng biết về một quá khứ huy hoàng của cha ông.
Dăm ông về hưu xách tiền bán đất mua liền một loạt đồ sứ ký kiểu từ triều đình Huế đặt bên Tàu thế kỷ 18, 19 và có khi là “tân ký kiểu”, miệng lẩm nhẩm như đang ngà ngà say, đọc dăm câu thơ “Mó rận luận chơi thời sự, ngả lừa mừng thuở thái bình” hay bài Tam Thai Thính Triều, Phong Kiều Dạ Bạc… và mơ màng chuyện tham gia triển lãm với danh hiệu “Nhà sưu tầm cổ vật”. Vài người săn lùng tranh Thành Lễ trước 1975, và rước về được bức sơn mài rất đẹp “dội khẩu” từ năm Mỹ đánh Irac, có chữ ký Thành Lễ còn tươi mới.
Đường Lê Công Kiều “xuất khẩu” niềm vui, sự hiếu kỳ, nỗi đam mê và vẻ đẹp ngất ngây. Ở đó có đủ “người tốt, kẻ xấu và tên vô lại” như trong một bộ phim cao bồi. Và nhân vật thứ ba thì luôn luôn có nhiều ở đây, ngồi đâu đó nơi quán cà phê cóc phía cột đèn góc Lê Công Kiều - Nguyễn Thái Bình hay cà phê Bảo tàng Mỹ thuật bên đường Phó Đức Chính, luôn quan sát những người nho nhã mới lân la ra phố. Họ sẽ dẫn dắt, nhận mua giúp và bày vẽ một số dấu hiệu nhận dạng đồ cổ ở cấp thấp nhất cho đến khi con mồi mắc bẫy ở những món đồ khủng mới sản xuất, nhưng được phủ một lớp thời gian giả mạo “tưởng như trăm năm” bằng các kỹ thuật độc đáo.
Tuy nhiên cũng đừng nên bi quan. Bà Sáu H. - một người bán vỉa hè, cánh cửa nhập môn cho người mới chơi - sẵn sàng trao đổi dăm ba câu dù có chua chát nhưng có thể giúp người mới đến tỉnh táo lại. Và hai mươi phần trăm chủ tiệm còn lại - đa số thích trông mặt bắt hình dong khách mới ra “Kiều” (một cách gọi con phố này) để không mất thời giờ với những người vô bổ và ít tiền - luôn thẳng thắn “phán” về giá trị món đồ một cách rạch ròi. Mặc dù không dễ nhận ra họ khi bạn ra phố với tâm trạng đầy hoang mang và nghi ngờ, nhưng tin tôi đi, khi đã kết thân với một người chủ tiệm nằm trong số này, cuộc sống của bạn sẽ thú vị hơn rất nhiều khi có dịp vừa uống ly cà phê nóng buổi sáng cuối năm vừa nhẩn nha nói về vẻ đẹp của một bộ ấm chén ký kiểu hay cái dĩa Celadon Nguyên với màu xanh ngọc hút hồn.
Đã lâu rồi, đường Lê Công Kiều thưa vắng những phụ nữ tay đeo túi xách đựng dăm món đồ lam Huế mua từ đất Bình Định, được cho là từ quân Tây Sơn đưa về sau khi ra Thăng Long cùng Vua Quang Trung. Họ mang đến đây nhiều ấm trà tuyệt đẹp tuy có chút sứt mẻ ở đầu vòi, miệng ấm nhưng giá rất khủng. Từ đây hình thành một lớp người săn lùng ngồi uống cà phê đầu đường Nguyễn Thái Bình từ sớm để canh mua những món đồ đẹp, trước khi người bán chào mời các chủ tiệm mạnh vốn. Có lúc nổi lên ở phố Lê Công Kiều cơn sốt mua cổ vật vớt từ các con tàu chìm vài trăm năm trước, đồ Khang Hy ở Vũng Tàu, đồ Minh phố ở biển Bình Thuận, sứ Ung Chính nhà Thanh ở vùng biển Cà Mau, đồ Chu Đậu thời Trần ở cù lao Chàm. Đây là dòng gốm sứ mậu dịch nên số lượng nhiều, được các mối lái từ miền Trung, miền Tây mang ra bán. Trừ những món đồ độc có số lượng ít, đa phần đồ biển có giá vừa phải nên giới chơi cổ vật gom được khá nhiều món có tuổi, như tách và ấm trà Ung Chính, dĩa Chu Đậu hình chim hoa hoặc dĩa lớn Minh phố…
Ảnh: Nguyễn Đình
Đó là thời gian vui vẻ đầu những năm 2000, người chơi có đồ đẹp để mua hằng tuần, không sợ gặp phải đồ giả. Dần dần đồ cạn kiệt do cuộc thu gom của các đại gia và nhà nước tăng cường chống thất thoát. Thị trường Lê Công Kiều im ắng và uể oải với đồ sứt mẻ, non tuổi.
Cơn sốt gần đây nhất là đồ Biên Hòa với chủ lực là dòng đồ Trường Mỹ nghệ Biên Hòa trước thập niên 60 với những món lên tới ngàn đô, thu hút cả giới chơi cổ vật từ Hà Nội và các tỉnh phía Bắc. Đây là một xu hướng mới nhưng dễ hiểu khi dòng đồ cổ Tàu cạn kiệt vì được người Trung Quốc qua thu gom, hoặc đã vào nhà người chơi nhưng mấy ai bán ra, và giới chủ tiệm đã phải sang Thái Lan, Campuchia mua về bán lại cho dân sưu tầm Việt. Đồ Biên Hòa thuần Việt lên ngôi là điều đáng mừng, nhưng vẫn là một xu hướng chơi mới cần có thời gian chiêm nghiệm.
Tôi đi ngang qua phố Lê Công Kiều từ những năm 80 để sửa máy ảnh ở tiệm Phạm Thê rất nổi tiếng ở đây. Lúc đó đồ cổ không bán rầm rộ. Những năm cuối 1990, đầu 2000 có thể nói là thời hoàng kim của chợ đồ cổ Lê Công Kiều khi kinh tế khấm khá, khách du lịch đến nhiều và các cuộc triển lãm cổ vật ở bảo tàng đã kích thích người ta tìm về cổ vật như một thú chơi cao cấp.
Bây giờ đường Lê Công Kiều im ắng hơn, và ngồi trong quán cà phê ngó ra đường phố, tôi mới nhìn sâu con phố nhỏ này. Dãy phố vẫn còn một ít nhà xây kiểu Tây từ thời còn mang tên đường Reims trước 1945. Đâu rồi nhà in Thạnh Thị Mậu, nơi học nghề của danh ca Sáu Thoòng “chuyên trị” vọng cổ một thời? Và đâu là tòa soạn báo Đại Việt tập chí (tập, không phải tạp) ở nhà số 5 của cụ Hồ Biểu Chánh những năm 1940, nơi cụ làm việc hàng ngày và có lần hứng chí mời anh em tòa soạn đi ăn ở đường Pellerin (Pasteur) gần đó. Thấp thoáng hình bóng cụ Phan Khôi lúc làm báo ở Sài Gòn xưa, năm 1924, tay cắp cặp, lơn tơn ghé vô nhà người quen rủ đi uống trà Bạch Mao hay Kỳ Chưởng.
Con phố bán đồ cổ này không hề được nhắc trong mấy quyển sách viết về thú chơi đồ cổ của cụ Vương Hồng Sển, nhưng có thể đây là con đường mà tên cụ được nhắc đến nhiều nhất từ những đồ đệ tự nguyện của cụ.
Lê Công Kiều, một con phố độc đáo và có khi là độc nhất ở Việt Nam, luôn bị nghi ngờ, có khi dè bỉu, nhưng vẫn luôn hấp dẫn như một huyền thoại, không ngừng làm gạch nối từ quá khứ đến hiện tại trong mắt khách vãng lai. Dù sao, nó vẫn là một trong những con phố đậm chất Sài Gòn nhất để nhớ về, cho những ai từng biết nó, khi đã xa Sài Gòn.
Cụ Vương Hồng Sển tiếp khách phương Tây đến thăm Cụ và bộ sưu tập. Ảnh chụp lại tại nhà Cụ Sển trên đường Nguyễn Thiện Thuật, Bình Thạnh.
Hồn Đô ThịTrong muôn vạn bàn chân chen phố thị
Ai thừa giờ nhớ một kẻ đi xa...
(Nguyễn Nam Trân)
Năm cùng tháng tận, chỉ còn dăm ngày nữa là Tết, người Sài Gòn thấy chộn rộn trong lòng một nỗi man mác khi nghe có gió chướng se lạnh thổi về. Xe bán dĩa nhạc có gắn loa đẩy vào các hẻm, nỉ non những bài hát xưa cũ lại khơi dậy cảm xúc mới, tưởng chừng như chìm sâu từ lâu trong cuộc sống lầm lụi.
Sài Gòn thay đổi nhanh đến nỗi không kịp giữ lại những sắc màu làm nên chính nó. Đã phảng phất hình ảnh một góc Singapore ở Phú Mỹ Hưng, một góc Paris ở đâu đó quận Nhứt hay một khu phố thương mại sáng choang không kém Âu Mỹ.
Giới trẻ nao nức về chúng, nhưng khi ra nước ngoài, ngụp lặn trong các khu thương mại lớn, ngoái lại nhìn thành phố của mình, họ tìm thấy được điều gì ở Sài Gòn để mà nhớ nhung?
Tết sắp đến, sao tôi luôn nghĩ đến những người già. Nhớ ông Sơn Nam khi còn sống. Ông nhắc đến một câu chuyện khi mới về Sài Gòn kiếm sống sau 1954. Trong những ngày ông chưa có việc làm, vợ ông lên tìm và bảo:
“Con bé ở nhà tội nghiệp, tôi dắt nó đi chợ. Đi ngang một cái tiệm có bán radio, nó đưa tui mấy đồng xu nói: Má ơi, con có tiền để dành, má mua cho con một miếng radio để Tết nghe cải lương”.
Người cha tha hương thấy lòng se thắt trong cảnh ăn đong kiếm tiền gửi về cho vợ con ở quê nhà.
Sài Gòn xưa cũ với vẻ hào nhoáng chỉ nằm trong ký ức của tầng lớp trung và thượng lưu. Những người nghèo chăm chỉ kiếm sống lang thang trên hè phố, ăn cơm rabiot (lâm vố) tức cơm thừa của lính Pháp được xào lại. Và họ cày cục kiếm tiền mướt mồ hôi sôi nước mắt.
Những ngày giáp Tết thời tuổi nhỏ, theo ba đi lấy hàng ở Chợ Lớn, tôi thường thấy thấp thoáng những người đi bán dạo đồ “lạp vị”. Đó là món ăn mùa đông bên Tàu nhưng mấy chục, mấy trăm năm qua sống ở xứ nhiệt đới, người Hoa vẫn thèm nhớ hương vị quê hương. Ông chệt già, cao lòng khòng kiểu vóc người Quảng Đông bán hàng xâu vịt lạp, lạp xưởng gan, hay ba rọi phơi khô. Ông bán cả cải bẹ trắng phơi khô dùng để nấu canh. Một tay ông xách giỏ mây đựng đồ bán, tay kia ông cầm đùi vịt giơ cao. Vịt lạp có khi là nguyên con vịt ướp phơi khô, mở banh ra rất hấp dẫn. Có khi chỉ toàn đùi vịt ướp mật ong phơi khô, giá cao hơn nguyên con vịt. Lạp xưởng gan màu đen, nhẩn nhẩn khó ăn nhưng béo, là miếng gan heo nhét miếng mỡ, phơi khô hay miếng gan nhét bên trong khúc ruột già. Loại này về ăn ngay, để lâu sẽ hôi dầu. Loại đồ ăn bán dạo này dành cho giới bình dân, như nhà tôi, chứ không mấy khi ba tôi bỏ tiền mua đồ lạp vị ở mấy tiệm nổi tiếng hơn như tiệm Xảo Ích ở góc Nguyễn Trãi hay ở khu Đèn Năm ngọn, Soái Kình Lâm.
Đi ngang qua khu Đề Thám, khu ngã tư quốc tế đầy khách du lịch Tây ba lô mà xưa kia dày đặc Tòa soạn báo tư nhân, tôi còn nhớ bà bán hột vịt lộn to lớn vẫn vung tay qua lại khu vực này. Bà này có chiều cao đáng nể, to lừng lững như một ông Tây với kích thước một mét chín, đã vậy trên đầu còn đội một cái thúng cao nghệu đựng hột vịt lộn và bì cuốn đã làm sẵn. Hai tay bà vung vẩy theo nhịp đi, miệng rao mà ai cũng cam đoan nghe đúng là “Ai… vật lộn không!!!” . Bà đi trước ông bán bánh tráng kẹo với giọng rao khàn khàn “Ai… chén kiểu không!!!” . Còn buổi chiều, một ông đẩy cái xe bán Chí mà phũ (Chi ma: mè. Phũ: nát) hay Lục tàu xá (đậu xanh nấu bột báng). Họ nấu bằng đường tán, ngọt thơm và không trộn bột vào chè như bây giờ.
Nhưng đáng nhớ là những thiếu phụ người Tàu Thường Phước. Má tôi, dì tôi khi còn trẻ có se lông mặt chỗ họ trong những dịp nghỉ ngơi sau buổi chợ. Một bác sống ở Sài Gòn thuở đó kể rằng ở Trung Quốc có một huyện gọi là Thường Phước, thuộc tỉnh Quảng Đông có nhiều phụ nữ không chồng. Từ đầu thế kỷ 20, sau các biến động bên đó, họ tràn qua Sài Gòn sinh sống. Nghề chính của cộng đồng nhỏ này là đi làm thuê giúp việc nhà và giữ con nít cho giới nhà giàu, nhiều nhất là nhà mấy ông Tây... Họ là những người giúp việc chuyên nghiệp, sạch sẽ và trung thực, luôn mặc một kiểu trang phục giống nhau là áo xẩm dài gần đầu gối. Chỉ có những người giàu có ở Sài Gòn trước 1954 mới có thể mướn họ, ngoài dân Tây là số viên chức Việt làm cho Tây hay giới thương gia.
Về già, các bà Thường Phước không đi làm thuê nữa mà sắm một cái rương nhiều ngăn bằng thiếc có mặt kiếng thủy tinh để đi bán dạo. Đây là gánh hàng xén mà họ gọi là “Hàng phá quải xí” (Hàng hóa quải thị - hàng hóa gánh ra chợ). Họ chỉ lang thang đi bán vào buổi sáng, chiều nghỉ. Bên trong những ngăn tủ của họ là kem đánh răng, gương lược, kim, chỉ, vòng đá cẩm thạch… Khi đi bán, họ bận áo vải đen dài.
Do cùng hoàn cảnh tha hương, cùng số phận phụ nữ không chồng lạc loài kiếm ăn xứ người, họ gắn bó thương yêu nhau như ruột thịt. Họ hùn nhau mua một dãy phố trên lầu gần ngã tư Nguyễn Tri Phương – Trần Phú (Nguyễn Hoàng cũ), gần khu tẩm liệm Nhà thương Quảng Đông (nay là bệnh viện Nguyễn Tri Phương) và ở chung với nhau. Phía mặt tiền nhà, họ cho đúc hai chữ “Phát chân” như muốn thể hiện phương châm sống và làm việc cả đời của họ…
Ngoài nghề chính là bán tạp hóa lúc tuổi xế chiều, các bà Thường Phước còn nghề phụ là se lông mặt cho những phụ nữ thích làm đẹp quanh khu vực giáp quận Nhứt và quận 5. Khi hành nghề, họ có một cục phấn dùng thoa lên mặt khách hàng cho nổi lông mặt, dùng sợi chỉ kéo căng ra và rà trên da mặt. Sợi chỉ khi kéo căng hay chùng sẽ tự xoắn lại và cuốn đi lông tơ trên mặt khách. Cứ thế, họ sống quanh quẩn trên đường phố giữa hai quận phồn thịnh nhất Sài Gòn cũ, cho đến lúc già yếu, qua đời trong sự chăm sóc của những người đàn bà Tàu đồng hương, không mơ gì có lần về lại cố quốc.
Có những buổi trưa, đi qua phố là một ông đi chiếc xe đạp sừng trâu, mang theo một ống sáo thổi te te, loại ống sáo thẳng chứ không phải ống sáo ngang. Ai cũng biết đó là ông chuyên thiến heo. Một ông khác chưa thấy mặt đã nghe tiếng trống lắc tùng tùng của ông. Lão nhân này luôn mặc đồ đen, vai gánh một cái thùng vuông bằng gỗ. Đây là ông thợ nhuộm. Khi có khách, ông nấu thuốc nhuộm trong cái thùng có vỏ ngoài bằng gỗ bọc một thùng thiếc bên trong. Ông có hai cái cây bằng gỗ để trộn quần áo, xong dùng hai cây đó vớt ra để vắt đồ sau đó bỏ ra thau để xả. Nước nhuộm từ thảo mộc, luôn có mùi dễ chịu, không gắt nồng và sặc mùi hóa chất độc hại như bây giờ.
Khi đến thăm bảo tàng tượng sáp ở Singapore tái tạo hình ảnh cuộc sống của người lao động thuở đảo quốc giàu có này đang tìm đường phát triển, tôi xúc động như thấy lại chính những người tha hương kiếm sống trên đường phố hay sông rạch Sài Gòn. Với thúng mủng quang gánh, nét mặt chân chất và cam chịu, họ lưu thông hàng hóa đi các nơi, nhận phần lợi về mình rất ít. Họ đông đảo nhưng âm thầm, đan dệt, tạo nên từng ngày cuộc sống thịnh vượng của đô thị.
Tất cả như các nhân vật của đèn kéo quân, đi diễu hành trên sân khấu cuộc đời rồi biến mất ở góc khuất của chiếc đèn. Và khi họ quay lại, chỉ trên một mảnh ký ức hiếm hoi của ai đó.
Khách thương hồ mang hàng hóa về Sài Gòn. Đến lúc nào đó, họ lên bờ và ở lại, thành công dân trên mảnh đất này, như một điều tự nhiên. Ảnh: Nguyễn Đình
Nhà Cổ Ven Đường
Đó là một căn biệt thự xưa rất đẹp nằm trên đường Nơ Trang Long, gần giáp đường Trần Quý Cáp, quận Bình Thạnh. Từ ngoài nhìn vô, nhà xây theo kiến trúc Tây phương kiểu thuộc địa với hành lang quanh nhà, nền cao, sảnh đón khách phía trước là nơi giao nhau của hai bậc thang uốn cong đi vào từ hai bên nhà. Vách tường nhà loang lổ qua thời gian, lấp ló những ô gạch men trang trí hình kỷ hà. Một hàng rào cây dày đặc che bớt những đôi mắt tò mò nhìn vào nhà. Thỉnh thoảng, có dáng một ông cụ bận đồ bà ba màu nâu đi chầm chậm qua lại bên trong, có khi mở cánh cửa gỗ nhìn ra ngoài rồi đóng lại.
Dì Út của tôi, nay đã hơn bảy mươi tuổi, nhớ lại những năm cuối thập niên 1950, vẫn có vài người đàn ông xách súng đến rủ cha chồng của dì đi săn bắn trên rừng Lộc Ninh, Hớn Quản. Họ là những người con của ông Lê Minh Tri, chủ nhân căn nhà đó từ gần trăm năm trước. Con cháu cất nhiều căn nhà gần nhau sống trên khu đất dài cả ngàn mét của ông Tri, kéo từ ngã ba Trung Thành (Nơ Trang Long - Trần Quý Cáp) cho đến tận cầu Băng Ky.
Lúc đó, nhà của ông Lê Minh Tri, được xây cao trên nền đất đắp từ hàng ngàn xe bò chở đất, là căn nhà tráng lệ, đẹp đẽ nhất ở khu vực Ngã Năm Bình Hòa. Gia đình này được truyền tụng là giàu có nhất vùng, nhà xây kiểu phương Tây từ đầu thế kỷ 20 trong khi các nhà khá giả khác gần đó như nhà ông Bang biện Nguyễn Văn Chỏi vẫn làm nhà gỗ ba gian.
Giữa sáng mùa hè năm 2013, ông Lê Thành Công, tức Sáu Nhỏ, hiện là chủ nhân ngôi nhà, tiếp tôi ở phòng khách nhìn ra khoảnh vườn nhỏ tiếp giáp mặt đường Nơ Trang Long.
Ông Sáu sinh năm 1931, tức 82 tuổi nhưng vẫn được hưởng phước là sống với mẹ ruột cho đến khi bà mất vài năm trước đây, thọ tới 103 tuổi. Ông nói: “Nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá. Đó là nghề mang lại sự khá giả, nhưng không kéo được lâu vì rất nghiệt. Ông nội và cha tôi làm nghề khai thác lâm sản, có lúc hưng thịnh nhưng cũng có khi lao đao vì tranh chấp với những người có chức quyền thời Pháp thuộc và chế độ cũ đến nỗi suýt phải tù tội. Đến đời tôi thì không theo nghề đó nữa, có lẽ nhờ vậy mà còn giữ được căn nhà. Những đồng nghiệp của ông, cha tôi hầu như đều khánh tận, sạt nghiệp”.
Ông Sáu còn nhớ lúc lên bảy tám tuổi, tuy là con nhà có của nhưng vẫn phải ăn mặc giản dị với quần ngắn, áo bà ba trắng đi học ở trường Tổng. Mỗi ngày, ông ra trước nhà đứng đợi xe bò, xe ngựa đi qua và xin quá giang đến trường. Gần đó là một cái hồ tắm và vui chơi của lính Pháp, xây hàng rào kín mít và không cho người Việt bén mảng tới. Có lần mẹ của ông phát hiện có cướp vào nhà, bà sợ hãi nên la thật to và lính Tây đang giải trí ở hồ bơi vác súng chạy đến khiến cướp sợ chạy mất. Ban ngày, chung quanh mát mẻ với cây cối xanh um, gần đó còn có vườn cao su và cái nghĩa địa lớn được đồn đại là rất nhiều ma. Tuổi thơ của ông đầy ắp chuyện ma, từ chuyện kể của anh cắt cỏ cho gia đình, rằng vẫn nghe tiếng hú từ khu mồ mả của người Tàu sau nhà, cho đến câu chuyện rất nhiều người tin là thỉnh thoảng có một cô đúng giờ Ngọ lại xuất hiện, ngoắc xe ngựa đi, luôn im lặng cúi đầu suốt chuyến đi, tóc xõa dài che mặt và trả bằng tiền vàng mã khiến mấy người xà ích không ai dám hỏi câu nào.
Lớn lên, ông Sáu chứng kiến bao nhiêu thăng trầm của thời cuộc từ căn nhà này, có lúc ông và cả gia đình phải rời xa nó. Do là căn nhà lớn và kiên cố trên con đường đi từ Bà Chiểu, thủ phủ Gia Định tới khu Đồng Ông Cộ, hết lính Nhật rồi tới lính Pháp mấy phen chiếm giữ ngôi nhà này để đóng quân kiểm soát một cửa ngõ vào Sài Gòn và ngăn chận du kích từ Đồng Ông Cộ đánh ra. Sau khi Pháp rút, nhiều năm gia đình ông vẫn chưa về được ngôi nhà, khi lính Cộng hòa trưng dụng. Sau năm 1975, gia đình ông mới trở về sống trên căn nhà của ông cha từ đó đến nay.
Như mọi người già còn tỉnh táo, ông Sáu sống vui bằng cách ôn lại dĩ vãng đã qua. Ông nhắc lại món phở bò thật ngon mà bây giờ không thấy ai nấu kiểu như vậy nữa. Đó là món phở từ chiếc xe đẩy đậu bán ở chợ Tân Định đầu năm 1950 của một người Bắc, phở bò tái chín thơm ngon nấu với cà chua và rau răm.
Ông nhớ nhất cây mai vàng trước sân nhà, vươn cao qua hàng rào. Cây lão mai, gốc to, hoa vàng dày đặc tuyệt đẹp mỗi độ xuân về và Tết nào cũng vậy, nhiều lượt người đến nhà ông, chỉ xin chụp ảnh với cây mai vàng. Vài năm trước, cây mai bị mục ruỗng từ bên trong và chết.
Nghe đến chuyện cây mai, tôi nhìn lên trần nhà. Ngôi nhà bên ngoài đẹp đẽ nhưng nhìn kỹ đã có những mảng tường nứt phải vá lại bằng xi măng. Trần nhà nay đã rụng lớp xi măng, lộ ra sườn gỗ cũng đã mục, tưởng chừng có thể sớm sập bất cứ lúc nào. Trong nhà không còn mấy đồ nội thất mang dáng dấp của một thời phong lưu xưa kia. Ông Sáu cho biết do đang đợi xác định quy hoạch lộ giới con đường trước mặt nên gia đình vẫn chưa thể bắt tay vào sửa chữa lại. Căn cứ vào hiện trạng ngôi nhà, việc đó sẽ ngốn rất nhiều tiền của nếu muốn phục chế cho đàng hoàng.
Khi bước ra khỏi cánh cổng, đọng lại trong tôi là cảm giác tiếc nuối và bâng khuâng. Một di tích vẫn còn rất đẹp, nhưng với những điều bất cập hiện nay, liệu còn có thể giữ được nguyên vẹn, dù tôi biết gia đình ông Sáu rất mong muốn điều ấy. Dường như có những mảnh linh hồn của đất Gia Định xưa dần mai một, khó mà giữ lại được trong xã hội tưởng chừng hiện đại nhưng xô bồ, thiếu cái nhìn sâu xa về duy dưỡng văn hóa này.
Ảnh trong bài: Nguyễn Đình.
Tìm Lại Giấc Mơ
Căn nhà ngang độ bốn mét. Mặt tiền đá rửa, cầu thang đá mài. Giữa nhà, bộ sa lông gỗ gõ đỏ đóng theo kiểu hộp đơn giản, ngồi hơi ngả ra phía sau. Gạch bông mỗi cạnh hai tấc, hoa văn màu nâu đỏ, trầm lạnh nhưng sang trọng. Trên tường là bức sơn mài của hãng Trần Hà ở Bình Dương vẽ bầy nai thơ thẩn dưới những gốc cây tùng. Cái ti vi cửa lùa đứng vững chãi trên bốn chân đặt bên phải. Cuối phòng khách là bức tường ngang che cầu thang, kê sát tường là cái tủ buýp phê bằng cẩm lai cửa kính lùa, hai cánh cửa hai bên xoáy tròn những vân của gỗ Nu. Trên tủ đặt cái bình bông gốm Biên Hòa vẽ hình những cô gái áo dài tha thướt đi lễ lăng Ông Bà Chiểu và cái máy hát dĩa.
Chủ nhà đặt cái dĩa hát lên mâm và cho kim xoay. Tiếng hát Phương Dung nghe như nức nở: “Mười năm mơ kết mây thành hoa trắng… mây vỡ hoa tan tàn giấc mơ hoa” . Anh bảo: “Từ khi quá tuổi bốn mươi tôi lại thích nghe những bài hát bị gọi là sến, mà ông Sơn Nam gọi là thứ Vọng cổ tân thời này. Nó làm tôi nhớ rất nhiều...”
Căn nhà tôi đang ngồi không nằm trong một khu dân cư cũ ở khu Ngã Năm Bình Hòa, khu xóm Gà hay chợ Đa Kao. Nó mới mọc lên dăm năm ở một khu đất mới vốn là đất trồng hoa ở Gò Vấp. Nhưng khi ngồi vào chiếc ghế cũ kỹ, một cảm giác êm đềm của thời thơ trẻ sống ở Sài Gòn hơn bốn mươi năm trước trở lại. Nó gợi nhớ những căn nhà hồi xưa được xem là khá giả vì “nhà lót gạch bông, mái bằng, tường đá rửa…”, từ những bức tranh lạ treo trên tường không hề giống mớ lịch tờ lòe loẹt mà những nhà nghèo treo đầy tường từ dịp Tết. Chủ nhà pha trà ướp hoa lài, rót vào những cái tách Arita trắng in hình bông hồng đỏ nhạt đặt trên cái dĩa cùng bộ.
Ảnh: Đức Trí
Ảnh: Cristian Kerekes
Chủ nhà vốn là một Việt kiều đã sống nhiều năm ở nước ngoài. Lâu nay, dù không phải là người chuyên chú chuyện sưu tầm, nhưng anh thích dành thời giờ rảnh lang thang chợ đồ cổ Lê Công Kiều. Ngày chủ nhật, anh ra uống cà phê sớm ở góc đường, lẳng lặng nghe những “chuyên gia” và lắm “nhà sưu tập” bàn tán, dẫn dắt người khác vào trận địa mê hồn này. Xong cử cà phê, anh đi dọc con đường với lòng háo hức không kém những lần anh đi mua yardsales ở nước ngoài.
Anh nhanh chóng nhận ra trên con phố này có rất nhiều cửa hàng chưng thứ đồ giả cổ khá trâng tráo và bày những bức tranh sơn mài mới toanh nhưng vẫn khẳng định chắc chắn là tranh Thành Lễ. Anh thích thú nhìn cái ghế xoay bằng gỗ, lưng tựa có gắn thêm miếng gỗ tựa đầu có thể đưa lên hạ xuống. “Đây là cái ghế hớt tóc. Hồi nhỏ, tôi bé quá, ông thợ hớt tóc phải đặt ngang trên thành ghế một miếng gỗ để ngồi cao lên mới hớt được.” Anh ngắm nghía những cái đôn voi Biên Hòa. Nó mới quá và không gợi cảm chút nào. Dăm món đồ đồng khá quen thuộc. Thú vị nhất là khi anh phát hiện và mua được mớ tượng gỗ Phi Luật Tân. Hồi xưa gần nhà có một ông thầu khoán thường nhập về những tượng này để trang trí cho những căn nhà mới xây. Khi chủ nhà khui thùng ở ngoài sân, anh đứng bên hàng rào mê mẩn nhìn, thèm có được bức tượng con gấu đang bắt cá hay tượng một nông dân vác quầy chuối. Sau này, anh thấy thỉnh thoảng có vài cái tượng cũ giống như vậy được bày bán với giá không mắc trên vỉa hè đường Lê Công Kiều, có sứt mẻ chút ít nhưng vẫn có thể trưng bày được.
Ảnh: Đức Trí
Đó là những tháng anh bận rộn xây và trang trí nhà. Khi về nước, anh mang theo một số món trang trí như đèn bàn Tiffany, tượng đồng theo phong cách Art Nouveau và dăm cái dĩa Majolica mà anh thích. Nhưng sau đó anh cất hết vào tủ. Từ đó bắt đầu một cuộc săn lùng đồ đạc nhẩn nha nhưng quyết liệt. Trong tầm ngắm là những món đồ trang trí nhà những năm 1960, 1970 của Sài Gòn. Phần xây dựng căn nhà, anh tìm được ông thợ già còn nắm kỹ thuật làm đá mài, đá rửa để hướng dẫn thợ thi công. Phần gạch bông, anh phải đặt riêng một công ty chuyên làm gạch bông theo kiểu xưa để xuất sang Pháp.
Tất cả tạo nên vẻ đẹp của nội thất ngôi nhà mà tôi đang ngắm nhìn. Nó không gợi cảm giác cũ kỹ và cũng không quá trầm lắng cổ xưa như bầu không khí trong một căn nhà rường dày đặc chi tiết. Chung quanh tôi là những chi tiết đơn giản, những đường thẳng và xiên của bàn ghế, chất mộc mạc của gốm Biên Hòa, tranh Thành Lễ với gam màu nâu điểm vàng. Cái đèn măng sông Đức treo lơ lửng với cái chụp trắng tinh. Tất cả tạo nên cảm giác thanh thoát, giản dị khá dễ chịu. Trong không gian đó, anh bạn chủ nhà vẫn còn phong độ nhưng đuôi mắt đã chớm có những nếp nhăn, ngắm nghía mãi cái vỏ dĩa hát bằng giấy bìa in hình những ca sĩ vang bóng một thời nay đã ở tuổi sáu bảy mươi.
Nhiều khi tìm lại một giấc mơ tuổi nhỏ chỉ bằng vài tháng dạo chơi tìm kiếm và bằng một số tiền không lớn, không phải là mắc mỏ lắm khi người ta xây một mái nhà bình yên cho mình.
Ảnh: Đức Trí
Bìa Báo Xuân XưaNhững người sống ở Sài Gòn cách nay trên dưới nửa thế kỷ đều nhớ tranh của họa sĩ Lê Ngọc Trung tức Lê Trung. Ông chuyên vẽ tranh thiếu nữ và cô nào cũng giống cô nào, với cái đẹp mỡ màng của thiếu nữ sông nước miền Nam, hơi đậm đà ở vóc dáng, ngực nở eo thon, mắt to đen ướt rượt và sáng long lanh, môi trái tim dày mọng và lông mi dày đen cong vút. Có người bảo đó là nét đẹp của diễn viên Thẩm Thúy Hằng. Giới bình dân thích nét đẹp này lắm dù nó hơi siêu thực, khó kiếm. Do độ thu hút rộng rãi, tranh của Lê Trung ngự trị trên bìa báo Xuân miền Nam trước 1960. Hết Tết, cái bìa diễm lệ đó được dán trên vách cho có vẻ “sang trọng” đến khi nó úa vàng vì khói bếp hay màu thời gian mà vẫn chưa bóc ra.
Tuy nhiên, đến đầu thập niên 1960, tuy bìa báo Xuân có tranh Lê Trung vẫn còn được ưa chuộng, nhưng một khuynh hướng mới đã bắt đầu ló dạng và lớn dần lên, là bìa báo Xuân đăng ảnh màu của các nghệ sĩ sân khấu, ca nhạc, điện ảnh.
Lúc đó, phong trào tân nhạc, điện ảnh và sân khấu cải lương đang phát triển ở miền Nam, thu hút nhiều trai thanh gái lịch tham gia. Đã vậy, kỹ thuật in ấn phát triển, các thiết bị máy ảnh, phim màu từ nước ngoài nhập về nhiều hơn nên tạo thuận lợi cho khuynh hướng này, kéo dài cho đến 1975. Khuynh hướng đăng ảnh nghệ sĩ trên báo chí, nhất là dịp Tết, mạnh đến nỗi, trong bài viết của thi sĩ Đông Hồ trên tạp chí Sáng Dội Miền Nam số Tết Nhâm Dần năm 1962 có nêu rằng: “Sách mà dám cho phát hành vào dịp áp Tết là nguy hiểm lắm, cũng bằng tự giết mình, vì sách sẽ bị bao nhiêu mỹ nhân của tranh bìa, tranh phụ bản đè tràn, chôn ngập mất…” (bài Chuyện câu đối Tết giữa kinh thành Sài Gòn, trang 10)
Tranh của Họa sĩ Lê Trung in trên báo Phụ Nữ Diễn Đàn giữa thập niên 1960.
Thời đó, tuy có nhiều người chụp ảnh nghệ sĩ nhưng các báo lớn ở Sài Gòn chỉ tập trung vào hai tiệm uy tín là tiệm Bình Minh đường Bùi Thị Xuân, quận Nhứt của đạo diễn Lê Dân học từ bên Pháp về. Tiệm thứ hai là Photo Viễn Kính của ông Đinh Tiến Mậu ở số 277 Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu), quận 3.
Có người còn nhớ ảnh của hai nghệ sĩ Thanh Nga và Thanh Thúy trên bìa tờ báo Xuân Dân Tộc 1961 do tiệm Bình Minh chụp. Nghệ sĩ Thanh Nga lúc đó mới mười chín tuổi, còn ca sĩ Thanh Thúy cũng chỉ mới mười tám. Tên của Thanh Nga đã nổi như cồn từ tám năm trước đó và vừa mới được đưa lên bảng hiệu thành Đoàn Thanh Minh - Thanh Nga. Còn Thanh Thúy chỉ vừa xuất hiện tại phòng trà Việt Long của Đức Quỳnh vào cuối năm 1959 nhưng nhanh chóng nổi lên với giọng hát liêu trai và được ca ngợi bằng các mỹ danh như Tiếng Hát Lúc Không Giờ, Tiếng Hát Khói Sương . Chọn hai ca sĩ này làm bìa báo trong lúc sáng danh như vậy, chính là chiêu thu hút độc giả khôn ngoan của các chủ báo.
Nhiếp Ảnh Gia Của Nghệ Sĩ Sài Gòn
Ông Đinh Tiến Mậu, chủ Photo Viễn Kính nổi tiếng nay vẫn còn khỏe mạnh và đang sống ngay căn nhà cũ. Ông cho tôi xem những bìa báo và Lịch Xuân mà ông đã chụp suốt những năm đó. Với máy ảnh hiệu LINHOF của Đức, ông dùng chụp ảnh tại studio và chụp ngoại cảnh tùy theo yêu cầu của chủ báo hay nghệ sĩ. Lúc này, hãng Kodak có một đại lý bán phim chụp ảnh tại đường Tự Do (nay là Đồng Khởi) nên ông có chỗ cung cấp phim đen trắng để chụp ảnh hằng ngày.
Đến gần Tết, nhu cầu chụp ảnh màu tăng lên, ông lấy thêm phim dương bản Ektachrom để chụp bìa báo Xuân. Trước Tết hơn một tháng, các báo ông thường cộng tác như Phụ Nữ Ngày Nay, Phụ Nữ Diễn Đàn... đã bắt đầu đặt hàng chụp ảnh bìa. Vốn quen việc chụp ảnh nghệ sĩ, ông chỉ cần hẹn và chuẩn bị phim ảnh nên công việc khá nhanh chóng. Đó là những đợt chụp tuy khá bận rộn vất vả nhưng vui và đáng nhớ.
Cuối năm 1967, chuẩn bị cho báo Tết năm Mậu Thân 1968, ông cùng một nhà văn lên Đà Lạt chụp ảnh nghệ sĩ Thanh Nga làm bìa báo Xuân Tia Sáng. Điều ông nhớ nhất, dù đang là nghệ sĩ nổi tiếng hàng đầu, nghệ sĩ Thanh Nga làm việc rất nghiêm túc. Cô luôn đến đúng hẹn, rất chịu khó tạo dáng để chụp. Khi tạm nghỉ, cô nói chuyện vui vẻ và gần gũi với mọi người trong nhóm.
Ảnh: PCL
Giống như những lần trước chụp ở studio, cô thích bận áo dài nền nã với nhiều màu sắc. Giọng nói của Thanh Nga vang, sang trọng nhưng dịu dàng. Đi theo cô là một người giúp trang điểm.
Giống như Thanh Nga, nghệ sĩ Bạch Tuyết là một nghệ sĩ khá nghiêm túc trong công việc. Cô cư xử dễ chịu, không làm cao, sẵn sàng đi chụp ngoại cảnh khi có yêu cầu. Cô thích chụp tranh phim (có kết cấu như truyện tranh với chất liệu là những bức ảnh chụp diễn viên đang diễn xuất).
Khi chụp ảnh trong studio thì rất thuận tiện với máy có chân chống, đèn pha… nhưng khi ra ngoại cảnh thì khó khăn vì đang lúc chiến tranh, kiếm chỗ vắng vẻ mà an ninh thật khó. Lúc đó, nơi lý tưởng là khu Suối Lồ Ồ ở Dĩ An gần Biên Hòa. Bức ảnh nữ nghệ sĩ Thẩm Thúy Hằng bận áo tắm đăng trên Lịch Xuân 1967 báo Phụ Nữ Ngày Mai đã được chụp ở đây, phía sau là con suối nhòe nét.
Ngoài báo Xuân, các tờ báo còn tranh thủ dịp Tết ra Lịch sách hay Lịch tờ để bán. Những năm như vậy, ông Mậu rất bận rộn. Năm 1966, ông chụp hàng loạt ảnh cho Lịch báo Phụ Nữ Ngày Mai với ảnh của Minh Hiếu, Ngọc Hương, Kim Loan (sau đổi tên Mộng Tuyền), Kim Nga… Bộ ảnh này chụp trang phục tự do. Đến 1967, báo này ra bộ ảnh táo bạo hơn với các nghệ sĩ mặc áo tắm và bức ảnh Thẩm Thúy Hằng nói trên làm bìa. Bên trong là ảnh diễn viên múa Thu Thủy, nghệ sĩ Bạch Tuyết, Ánh Hoa, Tuyết Nhung, Kim Tuyến... mặc áo tắm một hoặc hai mảnh.
Một thời đã qua. Khi nhìn lại các tờ báo Xuân, ông Mậu nhớ lại thời trẻ làm việc hăng say của mình. Ông vẫn nhớ nét đẹp rực rỡ của ca sĩ Minh Hiếu, mệnh danh là Liz Taylor của Việt Nam, vẻ đoan trang dịu dàng của Thanh Nga, sang trọng của diễn viên Kiều Chinh, tươi tắn của ca sĩ Thanh Lan, nét bốc lửa của ca sĩ Diễm Thúy. Các nam ca sĩ hầu như không hề lên bìa báo Xuân, nhưng họ thường đến chụp ảnh tại studio của ông. Nghệ sĩ Út Trà Ôn cao to, phong độ. Nghệ sĩ Hùng Cường vui tính, dáng điệu hào hoa. Các ngôi sao xinh đẹp ngày xưa đã luống tuổi, dấu ấn thời gian phủ trên nhan sắc. Nhiều người không còn nữa. Chỉ còn lại hình ảnh của họ, trong những tấm ảnh đen trắng, dăm tờ lịch cũ mà ông còn lưu lại.
Ca sĩ Diễm Thúy
Ca sĩ Hà Thanh Nghệ sĩ Thanh Nga
Ban hợp ca Thăng Long Đệ nhất danh ca cổ nhạc Út Trà Ôn
Nghệ sĩ cải lương Thành Được, giọng ca vọng cổ đỉnh cao của sân khấu miền Nam.
Nghệ sĩ cải lương Thanh Tú
Nghệ sĩ Hùng Cường, một tài năng bao trùm các lĩnh vực cải lương, tân nhạc và điện ảnh miền Nam