Ban Hợp Ca Thăng Long
Bức ảnh này được ông Đinh Tiến Mậu chụp tại studio Viễn Kính. Bối cảnh chỉ là hai giàn đèn, một bục gỗ đặt nằm ngang. Cách bố trí kẻ đứng người ngồi bên hai chiếc đèn cao thấp tạo nên nhịp điệu cho bức ảnh. Ba nghệ sĩ, là ba anh em ruột, đều có vóc dáng cao ráo khá lý tưởng. Thái Thanh bận áo vạt dài chứ chưa cao lên gần đầu gối như thập niên 1970. Hoài Trung, Hoài Bắc gây ấn tượng với phong thái gentlemen trong những bộ vest được may rất khéo, đồng hồ dây da, giày cột dây mũi nhọn, tay áo cài khuy manchette, tóc chải ngược (kiểu tóc Tango thịnh hành trước đây chăng?) lộ vầng trán cao, sáng đẹp.
Khi nhìn bức ảnh này, tai tôi như vẳng tiếng ngựa hí trong bản Ngựa phi đường xa, tiếng ngân dài bất tuyệt trong bản Ô mê ly của Hoài Trung Phạm Đình Viêm. Giọng ca Thái Thanh, với tiếng ca trong vắt cao vút trữ tình là giọng ca duy nhất xứng đáng với từ pa, không thể tranh cãi được. Nhạc sĩ Phạm Đình Chương tức Hoài Bắc, với chất giọng "trầm ấm và dội sâu", "hơi nhừa nhựa như phảng phất men rượu và khói thuốc" [1] , tuy chỉ viết hơn 50 ca khúc nhưng tài năng có thể sánh ngang với những nhạc sĩ nổi tiếng nhất với nhiều bài tuyệt hay như Người đi qua đời tôi, Nửa hồn thương đau, Đêm cuối cùng, Ly rượu mừng... và Trường ca bất hủ Hội trùng dương. Thành lập từ thời kháng chiến chống Pháp, sau đó vào Sài Gòn, ban Thăng Long đã "tạo một luồng sinh khí mới cực kỳ phong phú và tràn ngập tinh thần sáng tạo" [2] . Đến đầu thập niên 1960, ban Thăng Long cùng với ban kịch Dân Nam là hai nhóm biểu diễn nghệ thuật nổi như cồn và thu hút dân Sài Gòn nhiều nhất.
Sài Gòn tự hào từng có ban hợp ca sáng chói từ những người gốc Bắc xa quê hương, góp phần quan trọng tạo nên diện mạo một âm nhạc của Sài Gòn. Và tôi tin họ đã luôn yêu quý Sài Gòn trong suốt cuộc đời họ.
Một Cuộc Thi Hoa Hậu
Năm 1960, báo Phụ Nữ Ngày Mai ở Sài Gòn có tổ chức cuộc thi Hoa hậu bằng hình ảnh. Báo này do ông Nguyễn Đức Khiết làm chủ nhiệm, đứng ra tổ chức nhằm mục đích tuyển lựa hình ảnh một thiếu nữ Việt duyên dáng và ăn ảnh nhất. Người dự thi phải gửi về tòa báo hai ảnh bán thân 6x9 phía sau ghi rõ họ tên, biệt hiệu và tuổi, kèm theo phiếu dự thi. Ảnh dự thi được đăng báo, độc giả gửi phiếu bầu chọn về.
Tối ngày 1 tháng 9 năm 1960, vương miện đã được trao cho các thí sinh đoạt giải tại Câu lạc bộ Báo chí Sài Gòn. Người được giải cao nhất là cô Nguyễn Thị Kim Sang, 17 tuổi, nữ sinh lớp đệ Tam (lớp 10 ngày nay) trường Huỳnh Khương Ninh, Đa Kao. Cô được tặng một huy chương vàng trị giá 12.000 đồng. Cô Mộng Yến, 19 tuổi, nữ sinh lớp đệ Nhị trường Nguyễn Văn Khuê trúng giải nhì với huy chương vàng trị giá 5.000 đồng. Cô Mai Xuân Phượng, nữ giáo viên ở Phan Thiết, 19 tuổi, giải ba huy chương vàng trị giá 3.000 đồng.
Theo bài báo tường thuật cuộc thi này, Hoa hậu Kim Sang phát biểu khiêm tốn "Em rất hân hạnh và sung sướng nhận Giải thưởng Hoa hậu Phụ nữ Ngày Mai. Em biết đây là một sự may mắn cho riêng em vì còn nhiều chị em khác vì lý do nào đó không gửi ảnh dự thi".
Nhìn lại bức ảnh thiếu nữ Sài Gòn xưa hơn 50 năm trước vẫn thấy nét đẹp hiện đại bên cạnh vẻ thùy mị. Mũi cao, lông mày đã tỉa gọn, áo dài cổ cao. Các cô đạt giải đều có học, tự tin, tượng trưng cho lớp phụ nữ Sài Gòn mới của nửa sau thế kỷ 20.
Hoa hậu ảnh báo Phụ nữ Ngày Mai , cô Nguyễn Thị Kim Sang.
Xuân Phượng, Kim Sang, Mộng Yến (từ trái qua). Ảnh: Văn Mười, báo Thế giới tự do năm 1960, không rõ số
Giai Nhân Một ThuởCó lần đến Thượng Hải, sau mấy ngày rảo quanh khu Phố Đông và các trung tâm thương mại, tôi rút ra kết luận rằng số phụ nữ xinh đẹp ở đây chiếm tỉ lệ cao so với các thành phố mà tôi từng ghé qua ở Trung Quốc. Với mày cong, mắt hơi xếch, da trắng hồng, họ như từ tranh Tố nữ Tàu xa xưa bước ra. Chân họ cao và bắp chuối thon thả, khác với đôi chân có bắp chuối tròn lẳn mà tôi thấy khá nhiều ở các cô gái bên Nhật. Đó phải chăng là nét đẹp phổ biến của con gái Thượng Hải? Anh phiên dịch bảo “Là dân Thượng Hải, nghĩa là có thể mang gốc gác ở đâu đó trên khắp Trung Hoa. Anh đừng mơ tìm thấy nhiều gái đẹp ở Tô Châu hay Hàng Châu như trong câu “Trên có thiên đàng, dưới có Tô - Hàng”. Thượng Hải đã thu hút những người xinh đẹp nhất về đây cả rồi”.
Quả đúng như vậy, các cuộc di dân trên khắp thế giới đã phá vỡ tính nhất quán về phong tục, cách sống trong cư dân từng khu vực. Những đô thị phồn thịnh thường thu hút người tài giỏi, sáng láng, trẻ trung và xinh đẹp từ mọi miền. Bởi thế khi bàn về nét đẹp của các giai nhân trên đất Sài Gòn, một đô thị với tuổi đời chỉ hơn 300 năm, thì đừng so sánh nét đẹp người Sài Gòn với người vùng khác mà phải hiểu đó là giá trị tổng hợp từ nhiều vùng miền tạo nên.
Ảnh: thiếu nữ Sài Gòn trên bìa 4 tạp chí Sáng Dội Miền Nam số Tết Nhâm Dần 1962.
Thanh niên Sài Gòn thường xuýt xoa khi ngắm nét đẹp quý phái của các bạn gái xứ Huế có họ Công Tằng, Công Huyền dù khi đến nhà họ chơi, nghe cô nói chuyện với ba mẹ thì hoàn toàn không hiểu nổi một câu. Con gái Bắc sống dọc đường Lê Thánh Tôn, Quận Nhứt, khu Ông Tạ hay xứ Bùi Chu Phát Diệm dọc đường Lê Văn Sĩ duyên dáng kiểu con gái Bắc và tất nhiên không phải cô nào cũng như trong thơ của Nguyễn Tất Nhiên “nhớ điêu ngoa nhưng giả bộ ngoan hiền…”. Người đẹp khu dệt vải ngã tư Bảy Hiền, quận Tân Bình thì giọng vẫn đặc sệt Quảng Nam, gò má hơi cao, mặt hơi vuông làm ngẩn ngơ học trò nam Trung học Nguyễn Thượng Hiền gần đó.
Tuy là nơi quần tụ, nhưng những đặc điểm phóng khoáng của vùng đất mới cũng hình thành những nét chung của người đẹp trên đất Sài Gòn. Khác với nét đài các của thiếu nữ Hà Nội hay vẻ thùy mị thướt tha của con gái Huế, những thiếu nữ Sài Gòn luôn gây ấn tượng bởi sự trẻ trung và tự tin.
Nhiều người cho rằng dù có mặc áo dài thướt tha, họ vẫn đi đứng uyển chuyển, chân bước dài, hai tay vung vừa phải. Họ đi nhanh nhưng dáng vẫn mềm mại, nữ tính. Nét riêng đó có thể hình thành từ cuộc sống nhộn nhịp của Sài Gòn từ khi chuyển mình thành Hòn ngọc Viễn Đông cuối thế kỷ 19.
Cũng có thể do thời tiết Sài Gòn không có mùa lạnh để mà co ro, lặng lẽ hay trầm ngâm trên đường đi. Cuộc sống xô bồ nơi thị thành khiến họ thoải mái và tự nhiên.
Tuy vậy, đừng đánh giá sai lầm về họ nếu chỉ nhìn bề ngoài. Những thiếu nữ Sài Gòn xưa có thể ngồi ăn hàng ngoài đường rất hồn nhiên nhưng cử chỉ không hề suồng sã. Họ cũng có thể ăn mặc thoáng mát với quần short, áo không tay hay jupe ngắn nhưng không có nghĩa là chơi bời buông thả. Họ có thể không ngại chạy thử một loại xe mới, đánh tennis, bơi thuyền, thậm chí tham gia một trận đá bóng nhưng không hề tỏ mình là “có cá tính”. Họ dễ bắt chuyện nhưng không dễ làm thân, rất cởi mở vui vẻ khi làm quen nhưng không dễ “cưa đổ” như nhiều chàng tưởng bở.
Giới trẻ học đường cách nay bốn mươi năm bảo nhau “con gái Bắc xinh học Trưng Vương, con gái Nam đẹp học Gia Long (nay là Nguyễn Thị Minh Khai)”. Các cô học trường Tây như Regina Pacis, Regina Mundi, Marie Curie đa số nhà khá giả, nhiều cô là con cái địa chủ Tây Nam bộ, nói tiếng Pháp như gió, dạn dĩ và ăn mặc rất chic, nhảy đầm một cây. Giới trẻ Sài Gòn ngắm nhau khi bát phố ngoài đường Lê Lợi, Tự Do mỗi chiều cuối tuần, nhưng dễ nhất vẫn là ở những buổi giao lưu văn nghệ các trường vào dịp giáp Tết.
Lúc đó, mỗi trường đều làm nội san Xuân in bằng máy quay Ronéo, xong đóng tập đem bán gây quỹ tặng các bạn nghèo. Những nữ sinh xinh xắn và có tài ăn nói được chọn để lập nhóm đi bán nội san ở các trường khác. Khoảnh khắc đó thật vui khi đang giữa mùa mát trời ở Sài Gòn, các cô gái xinh bất ngờ vào lớp khiến bầy trai trẻ ngồi chộn rộn. Nhan sắc Sài Gòn được nhận diện ngay từ thời đi học và sau nhiều năm, rất nhiều người còn nhớ những lúc như vậy.
Người đẹp vì lụa. Sài Gòn cũng có lụa Hà Đông để làm dịu cái nắng nhiệt đới như Nguyên Sa nói (không hiểu thứ lụa này từ đâu ra khi đất nước đang chia cắt?). Tuy nhiên, vẻ đẹp của Sài Gòn trước hết từ tà áo dài. Áo dài những năm 50, 60 không hề bị nhẹ thể như bây giờ. Các ca sĩ thời thượng nhất vẫn thích trình diễn trong bộ áo dài. Áo dài đi làm, đi dạo phố Bonard (Lê Lợi) hay Catinat (Đồng Khởi). Áo dài đi mua hàng siêu thị Nguyễn Du giữa những năm 1960.
Màu sắc nào dường như cũng có pha thêm màu trắng cho dịu đi. Trang điểm vừa phải vì ai trang điểm đậm sẽ bị quy là giao du với lính Mỹ hay bán ở Snackbar (nơi ăn chơi). Mắt kẻ viền ở mí trên, đánh bóng với màu xanh, nâu hay tím nhạt.
Và lúc này có thêm một sự cách tân nữa khi các cô mặc áo dài với quần tây may ống thẳng, rồi lại với quần xéo bằng hàng mềm, rất tốn vải vì xếp xéo để cắt. Diện và tha thướt hơn thì may bằng hàng mouseline mỏng, có lót bằng vải đen hay trắng. Mãi sau 1975, mốt áo dài bận với loại vải này vẫn được chuộng, có điều nó quá mỏng khiến bọn nam sinh cấp 3 chúng tôi phải sững sờ khi nhìn thấy các cô giáo mặc lên lớp (!).
Khoảng giữa những năm 1960, các mốt thời trang khác như jupe hay mini jupe và các thứ váy đầm cập nhật nhanh chóng. Nhiều người nước ngoài đã ngỡ ngàng khi thấy thời trang Sài Gòn theo sau phương Tây chỉ một vài tháng. Và với mode, con gái Sài Gòn chấp nhận cái mới nhanh chóng rồi sau đó tự gạn lọc và tìm cách tạo nét riêng chứ không thích mặc giống nhau hay na ná nhau. Đối với họ, trời đất đủ rộng để không cần bó hẹp vào sở thích của tập thể.
Hình ảnh người đẹp Sài Gòn còn gắn với hình ảnh chiếc xe. Có thể những năm 1950, nhóm xe Mobylette hay các loại xe của Đức như Goebel, Puch hay Sachs chưa làm được chuyện này vì dáng cứng, hợp với đàn ông. Đến giai đoạn sau, chiếc Vespa của Ý dù do đàn ông cầm lái vẫn tạo nên vẻ đẹp của… các cô khi họ được các đấng hào hoa chở trên yên sau (như trong phim Kỳ nghỉ hè ở Roma do Gregory Peck và Audrey Hepburn đóng). Chiếc Vespa của Ý màu xám và của Pháp hiệu A.C.M.A màu vàng gọn nhẹ, kiểu dáng thanh tú và có bánh xe sơ cua để vi vu từ Sài Gòn ra tắm biển Vũng Tàu mà chẳng cần đi ô tô. Lúc đó, các cô ngồi sau xe luôn ngồi một bên, hai tay ôm eo người chở. Dáng ngồi chéo đầy nữ tính vừa nhu mì vừa thể hiện nét đẹp hình thể rất rõ. Sau này, khi Honda Nhật nhập vào miền Nam, các cô bận áo dài đi làm cưỡi honda dame dành cho phụ nữ, đôi chân khép phía trước dễ dàng và tà áo được vắt lên phía trước để không nhăn. Trời nắng nên luôn đeo kính mát, găng tay trông rất sang, và nhiều cô cài băng đô khiến khuôn mặt sáng lên, tóc gọn đi.
Nhưng được ca ngợi vẫn là dáng các cô đi Vélo Solex. Nguyên Sa viết:
“Sài Gòn phóng solex rất nhanh.
Đôi tay hoàng yến ngủ trong gants.
Có nghe hơi thở cài vương miện.
Lên tóc đen mềm nhung rất nhung...”
Hình ảnh đó lay động trái tim nhiều chàng trai Sài Gòn thời ấy, và vẫn còn nguyên vẹn trong ký ức họ cho đến ngày nay.
Nữ diễn viên điện ảnh Kiều Chinh với vẻ đẹp trong trẻo và quyến rũ. Bà nằm trong số diễn viên ít ỏi có vai diễn trong phim truyền hình Mỹ và điện ảnh Hollywood. Trong đó, nổi bật là vai diễn trong phim The Joy Luck Club (Phúc Lạc Hội) của Wayne Wang (1993).
Ảnh trong bài: Nhiếp ảnh gia Đinh Tiến Mậu
Ca sĩ Minh Hiếu có nét đẹp phảng phất diễn viên điện ảnh Mỹ Liz Taylor. Theo ông Đinh Tiến Mậu, cô Minh Hiếu có nét đẹp nổi trội nhất trong số nữ nghệ sĩ ông đã chụp chân dung.
Nghệ sĩ Thanh Nga
Ca sĩ, diễn viên điện ảnh Thanh Lan
“Minh tinh điện ảnh” Thẩm Thúy Hằng
Sách ĐẹpCách nay mấy năm, qua trang web bán sách xưa ở Pháp, tôi mua được cuốn Tân bản L’Art à Hué in năm 1930. Sách được đóng bìa cứng, gáy đóng bằng da trừu mịn màng theo kiểu xưa, giấy in trắng ngà, dày, cứng cáp và in ấn hình ảnh sắc sảo. Điều khiến tôi vui là phía trong bìa sau còn dán tờ hóa đơn màu hồng của Nhà Morin Frères d’ Annam rất nổi tiếng (kinh doanh chính là khách sạn ở Huế và Đà Nẵng đầu thế kỷ 20). Hóa đơn ghi rõ sách được mua tại Huế vào 20 tháng 1 năm 1942 theo chi phiếu số 153 với giá 5,5 đồng bạc Đông Dương. Bên cạnh hóa đơn có dán nhãn tên nhà đóng sách Nguyen – Van – Chau, địa chỉ là 159 phố Douaumont Saigon (nay là đường Cô Giang, quận 1) cùng một địa chỉ khác ở Phnôm Pênh. Quyển sách được xuất bản ở Huế, trôi dạt sang Pháp và cuối cùng đã trở về chính quán của mình, sau nửa thế kỷ tha hương có lẽ.
Được xuất bản chính thức 2 lần, năm 1919 và năm 1930 (gọi là Tân bản – Nouvelle Edition), cuốn Nghệ thuật Huế là một trong những đặc san chuyên khảo nằm trong bộ Tập san Đô thành Hiếu cổ (Bulletin Des Amis Du Vieux Huế) [3] . Quyển sách này đến nay vẫn được giới chơi sách săn lùng cùng với quyển Musée Khai Dinh (Bảo tàng Khải Định) là một sách chuyên khảo khác cùng nơi xuất bản. Trong quyển Thú chơi sách, Vương Hồng Sển kể lại một câu chuyện mà ông cảm thấy đau lòng. Ông có đủ các quyển Đặc san của bộ báo là hai quyển nói trên, cùng quyển thứ ba là Khảo về nha phiến (L’ Opium). Do rất thích ba cuốn này nên ông đóng bìa đỏ có mạ vàng cẩn thận. Đến năm loạn lạc 1945, khi ông chạy vào làng Hòa Tú ở Sóc Trăng, lính Tây bắn phá khiến cả nhà lại chạy vào rừng.
Đến khi quay trở về, tủ sách của ông bị lục phá tơi bời, sách bị nông dân xé lấy giấy để hút thuốc. Ông khổ tâm nhất là khi thấy mấy thanh niên tá điền mang theo túi da còn rành rành tựa ba cuốn sách mà ông cưng nhất nói trên.
Dù sao, khác với bộ Kỹ thuật của người Annam của Henri Oger in trên giấy dó vô cùng hiếm hoi, bộ Nghệ thuật Huế không đến nỗi hiếm. Nó có mặt trong một số tủ sách nổi tiếng ở Huế, Sài Gòn. Ấn bản đầu tiên năm 1919 khó tìm trong nước nhưng vẫn có thể tìm ở các nhà buôn sách hiếm nổi tiếng trên thế giới, nhất là ở Pháp.
Đọc bản dịch sang tiếng Việt của quyển Nghệ thuật Huế (Nhà xuất bản Thuận Hóa), chúng ta bắt gặp bài thơ của V. Muraire khá cảm xúc, có những câu:
"Giữa các màu xanh cổ, cẩn xà cừ ngà voi
Một ông quan thất vận đọc lại pho sách cũ
Ông ngâm nga thời qua, thời oanh liệt ngày trước"
Bài thơ mở đầu thật cuốn hút, báo trước nội dung hấp dẫn của quyển sách. Quả thật, nó có nhiều bài viết hay về nghệ thuật Huế và tranh vẽ có ích cho ai nghiên cứu hay muốn tìm hiểu về nghệ thuật Huế trong kiến trúc và mỹ thuật đầu thế kỷ 20. Hầu hết bài viết đều của Linh mục Léopold Cadière và có duy nhất một bài do người khác tên là Edmond Gras viết.
Bản in 1930 của tôi có 222 phụ bản bên cạnh 167 trang viết (bản 1919 chỉ có 157 trang viết). Đầu trang sách là lời đề tặng của tác giả gửi tới ba nhân vật: cựu Toàn Quyền Đông Dương Albert Sarraut, lúc đó đang là Bộ Trưởng Bộ Thuộc Địa, Vua Khải Định và M.J.E. Charles, cựu Công Sứ ở Trung Kỳ.
Về nội dung, mở đầu là bài Mỹ thuật ở Huế nêu cái nhìn tổng quan của L.M Cadière. Sau đó là bài về “Thành phố, nhà cửa, bàn ghế, hàng thêu…” của E. Gras. Tiếp theo có các bài của ông Cadière bao gồm “Các mô típ trang trí có tính hình học”, “Mẫu chữ Hán”, “Tĩnh vật", “Hoa và lá, cành và quả”, “Động vật”, “Điêu khắc” và “Phong cảnh” . Các hình vẽ được thể hiện tỉ mỉ, màu sắc từng bức tranh rất đẹp, từ hơn chín mươi năm qua vẫn đủ hấp dẫn người xem, tạo được ấn tượng mạnh mẽ về sự tinh tế của nghệ thuật chạm khắc, hội họa thời nhà Nguyễn qua bàn tay nghệ nhân xứ Huế và cả nước tập trung về kinh đô đầu thế kỷ 20.
Theo nhà văn Sơn Nam, cuốn L'art à Hué là tư liệu chuẩn mực về kiểu thức, thiết kế họa tiết trang trí cho các chùa chiền lăng tẩm của cả Sài Gòn và đất Nam bộ thời bấy giờ.
Bìa và các trang minh họa trong L’art à Hué. Phía trên là nhãn hiệu nhà đóng sách Nguyễn Văn Châu ở đường Cô Giang, quận 1, nổi tiếng từ trước năm 1945.
Tranh minh họa trong cuốn L’art à Hué
___________________________________
Chú thích:
[1] Theo Hồ Trường An.
[2] Theo Hồ Trường An.
[3] Tập san Đô thành Hiếu cổ do một số quan cai trị người Pháp, các giáo sĩ và các giáo sư, cả Pháp lẫn Việt viết. Chủ đề các bài trong Tập xoay quanh Cố đô Huế xưa cũng như Triều đình nhà Nguyễn. Tập san ra được đúng 31 năm, từ 1914 tới 1944 và trở thành tài liệu nghiên cứu nổi tiếng trên thế giới. Nhà xuất bản Thuận Hóa những năm gần đây đã dịch sang tiếng Việt một số tập.