Thăm Nhà Ông Tạ
Hồi còn nhỏ, mỗi khi má tôi muốn cho cả nhà ăn chả lụa, mà người Bắc gọi là giò lụa, tôi phải lấy chiếc xe cà tàng đạp lên chợ Ông Tạ để mua. Mỗi lần như vậy, thế nào tôi cũng la cà nhà bạn bè ở quanh khu ấy cho đã rồi mới về. Có lần, vào nhà đứa bạn trong hẻm Vinh Sơn gần đó, tôi được mời nếm thử thịt cầy, được xem là đặc sản ở đây. Ăn xong một miếng, tôi về không dám kể cho má nghe vì bà kiêng món này.
Hơn ba mươi năm trôi qua, khi có dịp tụ lại với nhóm bạn cũ, chúng tôi lại nhắc về ngã ba Ông Tạ. Mấy người bạn ở xứ người nhớ rõ nhất, từng chi tiết. Dường như đối với họ, sau bao nhiêu năm được đậy điệm trong một góc tâm hồn, những kỷ niệm cũ còn nguyên không chút sứt mẻ. Một trời kỷ niệm nơi Hẻm Khuông Việt, Ngõ Cổng Bom, đám tang tướng cướp Sơn Đảo đông nghịt người. Lại còn rủ nhau về ăn bún mọc Bà Hân, cháo huyết rạp Đại Lợi, chả lụa Tuyết Hương như hồi đi học… Những giấc mơ tưởng chừng đơn giản sao mà khó thế ở tuổi năm mươi hoa râm.
Người gốc Bắc vào Sài Gòn từ 1954 bảo nhau, ở Sài Gòn có hai khu người Bắc vào sống rất đông, là Xóm Mới ở Gò Vấp và khu ngã ba ông Tạ. Và họ đồng ý với nhau rằng cư dân ngã ba Ông Tạ sống thanh lịch hơn, biết ăn biết mặc và chăm chú chuyện học hành nên có nhiều người thành danh… Những năm mới ra trường và đi làm, lúc đất nước còn rất nghèo, gần Tết tôi lại chạy lên khu Ông Tạ, ngắm không khí nhộn nhịp nơi đây. Ban ngày có hàng đống lá dong được bày ra lề đường để bán cho nhà nào muốn gói bánh chưng. Buổi tối tháng Chạp, ngay góc ngã ba, hiệu nữ trang sáng trưng đèn chiếu xuống rực rỡ những vòng kiềng, dây chuyền óng ánh…
Ngã ba ông Tạ lúc đó như cố lưu giữ những ngày nhộn nhịp lúc thịnh vượng nhất những năm 1960. Trong mùi hương trầm, thoảng cả mùi thuốc thơm ấm nấu trong siêu từ nhà thuốc Ông Tạ bay ra… Tôi nhớ đứa bạn cũ cùng thích làm đồ thủ công trong căn nhà bên bờ rạch Nhiêu Lộc ngay cầu Ông Tạ, và một đôi mắt con gái dưới hàng mày rậm trong hẻm Vinh Sơn. Những ký ức đẹp, thơm ngát ấy còn dịu nhẹ trong lòng.
Nằm gần ngã ba Ông Tạ, lối vào hiệu thuốc nam Trần Thái Đường là một cái cổng nhỏ đường Phạm Văn Hai, quận Tân Bình với bảng hiệu phải đứng bên kia đường mới xem rõ. Khu Ông Tạ quanh đó đã thay đổi rất nhiều, các gia đình người Bắc vào đây từ 1954 đã dần ra nước ngoài sinh sống. Những hàng thịt cầy nổi tiếng ở đây không còn mấy. Tuy nhiên, khi bước vào khoảng sân trong của Trần Thái Đường, thời gian phong kín lại như cách nay mấy chục năm. Vẫn là mùi thuốc tỏa ra thơm ấm, ngôi chùa nhỏ Thánh Thọ kế bên nằm trong khuôn viên vẫn sáng nhang đèn. Từ hơn nửa thế kỷ trước đến nay, Phòng khám Trần Thái Đường vẫn khám chữa bệnh, bốc thuốc Đông y. Như còn thấy cảnh tấp nập người ra kẻ vào từ sáng sớm cho đến tối mịt như hồi thầy thuốc chủ trì là ông Trần Văn Bỉ còn sống. Nhiều khách đến khám bệnh từ miệt Cà Mau lên, từ ngoài Trung vào, ở lại để chữa dứt hẳn rồi mới trở về.
Không mấy người Sài Gòn, trừ dân địa phương, biết phòng thuốc này là nơi phát tích cái tên ngã ba Ông Tạ, rồi chợ Ông Tạ, cầu Ông Tạ.
Trước năm 1947, ngã ba này thuộc làng Tân Sơn Hòa, dân quanh vùng gọi là Ngã ba Tháp do ở đó có một tháp canh do người Pháp dựng lên để kiểm soát con đường từ miệt Tây Ninh, Củ Chi vào Sài Gòn. Lúc đó, chung quanh còn cây cối thưa thớt, ngã ba là bãi đất trống chỉ có mỗi cái chùa nhỏ tên Thánh Thọ.
Năm 1947, chàng trai Trần Văn Bỉ 29 tuổi đến vùng đất này và mua miếng đất gần hai ngàn mét vuông. Ngôi chùa nhỏ Thánh Thọ nằm trong cuộc đất, rất phù hợp với anh vì anh là người tu hành theo Cổ sơ môn, một nhánh của Đạo Phật nơi Linh sơn cổ tự trên núi Bà Đen, Tây Ninh. Cũng nhờ thời gian sống trên núi học được nghề xem mạch bốc thuốc chữa bệnh bằng thuốc nam nên sau khi xuống núi, anh tiếp tục sở nguyện là mở chùa, chữa bệnh và mơ xa hơn là lập trường dạy trẻ nghèo. Anh đọc được sách thuốc chữ Hán, biết kết hợp cách chữa bệnh của người Việt và Hoa, thuốc nam và thuốc bắc.
Tuy còn là một vùng hẻo lánh ngoại thành Sài Gòn, khu Tháp canh dần trở nên sầm uất. Năm 1954, nhiều người từ miền Bắc di cư vào Nam và lập nghiệp tại đây. Lúc đó, nhà thuốc Đông y Trần Thái Đường của ông Trần Văn Bỉ đã nổi tiếng.
Ngoài số đông bệnh nhân là dân quanh vùng, lớp lớp người từ miền Tây tìm đến chữa bệnh, nhiều nhất là phụ nữ và trẻ em - sở trường nghề thuốc của ông. Dân gian kháo nhau “con bị bệnh, bồng đến cho ông Tạ nắm tay một cái là hết bệnh” hay “Không con cứ đến chữa ở nhà thuốc ông Tạ là có”. Mỗi ngày, ông Bỉ cùng gần chục nhân viên khám bệnh bốc thuốc từ sáng đến tối hơn cả trăm người. Với người nghèo, ông không lấy tiền chữa trị và cho nằm lại miễn phí những người bệnh nặng. Nguồn thuốc ông có chủ yếu là Nam dược nên giá không cao, mua từ Tây Ninh, Cà Mau và một số vị mua từ Hương Cảng qua đường Chợ Lớn.
Tiếng lành đồn xa, biết ông tu hành lại thương người, thỉnh thoảng ngôi chùa Thánh Thọ trong khuôn viên Hiệu thuốc lại có một đứa bé sơ sinh của ai mang đến bỏ đó. Ông cho mang vào nhà chăm sóc rồi đưa đến cô nhi viện, gửi gắm thêm tiền bạc để phụ cơm nước. Nhiều người nghèo bệnh nặng mất đi không có quan tài để chôn, ông ký giao kèo với Trại hòm Tân Lợi cung cấp quan tài để người xấu số yên nơi ấm chỗ và chịu hết chi phí. Năm 1968 xảy ra trận đánh Mậu Thân, quân lính hai bên bị thương rất nhiều, ông cho đưa vào chăm sóc tận tình không hề phân biệt bên nào, miễn là giúp người bị thương qua cơn đau đớn.
Tiếng đồn ở khu ngã ba Tháp có ông Thượng tọa tướng mạo cao to chữa bệnh rất hay lan ra xa và được nhiều người mách nhau khi có ốm đau. Bảng hiệu trước cửa Hiệu thuốc ghi là Trần Thái Đường - Đông y sĩ Thủ Tọa (Thủ: ở đây là xem mạch bằng tay. Tọa: Thượng tọa). Dân gian, theo thói thường gọi tắt là khu ông Thủ Tọa, biến âm thành ông Thủ Tạ, và dần dần là ông Tạ. Tuy nhiên, cầu Ông Tạ hay chợ Ông Tạ chỉ vì ở gần đó nên hình thành tên như vậy, không liên quan trực tiếp đến ông.
Chân dung ông Tạ - Trần Văn Bỉ trong trang phục tu hành.
Ảnh: Nguyễn Đình
Năm 1983 ông Tạ mất. Trước đó, tuy tuổi đã cao ông vẫn tiếp tục khám bệnh và tham gia Ban cố vấn Hội Đông dược và châm cứu của thành phố, nói chuyện về đông y tại trường Đại học Y dược. Từ 1975 đến khi ông mất là những năm tháng đầy khó khăn của đất nước, thiếu thốn đủ bề nhất là thuốc chữa bệnh. Phòng khám của ông với nguồn dược liệu từ cây thuốc trong nước là niềm hy vọng của nhiều bệnh nhân, nhất là bệnh nhân nghèo vì biết ông sẵn sàng giúp họ mà không lấy chi phí. Những vị đứng đầu ngành y tế như bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng, nguyên Bộ trưởng bộ Y Tế, lúc đó là Viện trưởng Viện Y học cổ truyền dân tộc Thành phố, bác sĩ Trương Thìn đang phụ trách Trung tâm cai nghiện Bình Triệu nghe tiếng ông Tạ từ lâu đã nhiều lần đến hỏi ý kiến ông về chữa bệnh và thuốc men.
Tôi tìm đến Trần Thái Đường khi thầy đông y Nguyễn Văn Huệ, chủ trì Phòng khám đang chữa bệnh cho một thanh niên người Mỹ. Khuôn viên Trần Thái Đường rộng rãi với phòng khám, khoảng sân và một ngôi chùa nhỏ. Tuy nhiên, đây là phần đất còn lại của mảnh đất cũ đã bị cắt đi phân nửa. Sau khi ông Tạ mất, một người phụ nữ vốn là người chịu ơn ông Tạ chiếm và đòi quyền lợi phần đó. Ngôi mộ của ông giờ nằm trên phần đất cắt cho người phụ nữ kia.
Ông Nguyễn Văn Huệ cho biết cha của ông là Nguyễn Văn Đông được ông Tạ là cậu ruột nuôi nấng và dạy nghề từ nhỏ. Ông Huệ lớn lên tiếp tục học nghề thuốc và xem ông Tạ như ông nội của mình dù là vai ông cậu.
Những năm sau 1975, ông Huệ đang tuổi thanh niên thường theo ông Tạ đến các cơ sở y tế để trao đổi nghề nghiệp, nên ông không chỉ học ông Tạ về chuyên môn mà còn là cách ứng xử khiêm tốn của người tu hành.
Đảm nhận việc duy trì phòng khám có truyền thống hơn 60 năm, và còn đảm nhận công việc của Chủ tịch Hội đông y quận Tân Bình, ông Huệ có niềm tự hào là duy trì được những gì ông Tạ truyền lại, chuyên tâm chữa bệnh như một việc giúp đời, không nặng về kinh doanh, không quảng cáo rùm beng và giữ được cơ ngơi rộng rãi còn lại của gia đình giữa lúc tấc đất tấc vàng ở một khu thị tứ trung tâm như vùng Ông Tạ.
Thỉnh thoảng ở phòng khám, ông vẫn nhận được những món quà nhỏ, như một bức tranh chân dung ông Tạ… quà từ những người được ông Tạ chữa hết bệnh, hay chữa không lấy tiền lúc nghèo khó xưa kia. Có lúc là lời cảm ơn từ những người lính biệt động thành đánh vào Sài Gòn năm 1968 mà ông Tạ đã cứu khi bị thương… Những điều đó như nhắc nhở ông Huệ tiếp tục giữ vững Trần Thái Đường như một địa chỉ chữa bệnh có ích cho đời, nhất là cho người nghèo, như con đường ông Tạ Trần Văn Bỉ đã vạch ra.
Thuốc được chế biến hằng ngày, như từ hơn sáu mươi năm trước...
Gặm Bánh Mì Ở Sài GònHồi nhỏ tôi có đọc một truyện ngắn có tên Những khúc bánh mì của anh Tấu. Trong đó, tác giả là một cậu học trò rất mê ăn bánh mì của người bán rong trước cổng trường tên là Tấu. Bánh được ủ trong một cái giỏ, luôn nóng, kẹp miếng chả bò thơm ngon ở giữa. Cậu bé ăn bánh mì anh Tấu hoài mà không biết ngán, nhất là những ngày trời lạnh có trong tay ổ bánh mì nóng. Cho đến khi anh Tấu bị ho lao, vừa bán vừa ho sù sụ giữa gió lạnh, học trò trường đó tẩy chay không ai dám mua bánh mì của anh nữa. Trừ cậu bé kia bất chấp căn bệnh của anh vẫn tiếp tục gặm bánh mì. Tôi còn nhớ câu anh Tấu hỏi cậu bé: “Bây giờ chắc cậu không dám ăn bánh mì của tôi nữa phải không?”. Cuối cùng anh Tấu cũng nghỉ bán vì bệnh nặng, để lại trong cậu bé niềm nuối tiếc.
Ai cũng có một người bán hàng lý tưởng của mình trước cổng trường. Tôi cũng có một anh Tấu hồi mới lớn trong những buổi sáng đi học thêm. Con hẻm trên đường Hai Bà Trưng, gần khách sạn Quê Hương trước kia, có hai ông cùng đi bán bánh mì với nhau. Thật ra, chỉ có một ông bán và ông kia làm gì không rõ, lúc nào cũng đứng cạnh bên. Ông bán bánh mì có đặc điểm là hút thuốc bằng lỗ mũi. Lúc nào cũng thấy ông nhét một điếu thuốc lá vào lỗ mũi bên phải và thở ra khói bằng mũi bên trái một cách kỳ cục. Vừa hút, tay ông vừa thoăn thoắt lấy bánh mì trong rổ ra, dùng dao xẻ một cái rãnh ở giữa, nhét miếng chả lụa vào. Đặc biệt, bánh mì của ông luôn giòn, xốp và thơm, chả lụa luôn được xắt to. Cả miếng dưa leo cũng to, miếng ớt đi theo cũng to. Chả thơm, dưa tươi, thêm tí muối tiêu nữa nên rất ngon, cắn một cái là ngập răng. Bánh của ông luôn luôn đắt, hết trước chín giờ sáng. Thỉnh thoảng ông dùng con dao cắt xoẹt một miếng chả, rất trìu mến đưa cho ông phụ bán đứng chầu rìa kia: “Này, ăn đi!”. Ông kia ngay lập tức bỏ vào mồm, nhai ngon lành. Lần đầu đến mua bánh mì, tôi trố mắt nhìn kiểu hút thuốc kỳ cục và miếng chả “tình thương mến thương” giữa hai ông. Riết rồi cũng quen. Và những người khách khác chẳng thấy ai thắc mắc gì. Sau đó vài năm, hai ông biến mất không để lại dấu vết. Con hẻm vẫn đông, có thêm mấy cái ghế cóc bán cà phê vỉa hè và khách đành đi ăn sáng ở chỗ khác.
Có một bài viết nói về chuyện người Nhật đến Việt Nam du lịch. Tổng kết về sở thích ăn uống của họ ở đây, tác giả cho biết món mà họ mê nhất không phải là món phở mà là… bánh mì kẹp thịt. Lý do là nó thơm ngon và có hương vị khác lạ so với bất kỳ loại thực phẩm nào tương tự trên thế giới. Hai nữa là tiện dụng. Và chắc là lý do thứ nhất quan trọng hơn. Bánh mì ở các nước có thể rất mềm, hoặc rất cứng, đen hoặc trắng, nóng hoặc nguội ngắt nhưng vừa giòn, xốp, có cái cạnh bánh giòn thơm, hơi cháy vàng thì lại là kiểu cách rất riêng của bánh mì Sài Gòn. Loại bánh mì giòn ấy vẫn ngon lành từ những năm bao cấp nghèo khổ, dù chỉ gặm bánh mì không. Là bánh mì lạt nhưng có vị hơi ngọt, lại hơi mặn. Trong suốt tuổi thơ của nhiều người Sài Gòn, tôi tin nó có vị trí đáng nể. Sáng không có nhiều tiền, mua ổ bánh mì luôn có giá rẻ rề. Lấy hộp sữa đặc Ông Thọ chế vào dĩa và bẻ từng miếng bánh để quết đưa vào mồm. Sữa ngọt,thơm và béo, bánh mì giòn, còn muốn gì nữa! Hôm nào không tất bật đến lớp, đi làm thì pha một ly sữa nóng, bỏ tí cà phê theo kiểu pha pạc-xỉu. Lại bẻ bánh mì chấm sữa. Món này hương vị khác món trước. Bánh mì chấm sữa nóng hương vị toả ra thơm, hơi chua nhẹ, dễ nuốt hơn và ăn xong cũng no nê.
Bánh mì đi với người nghèo, nhất là con nít nhà nghèo. Hôm nào không kịp ăn ở nhà thì mua bánh mì bì. Chẳng có gì bổ béo ở thứ bánh này nhưng ngon và có hương vị riêng. Bì (da) heo trộn thính thơm phức, ăn dai dai. Nước mắm pha loãng có thêm tỏi ớt chan vào thấm ổ bánh mì. Hôm nào có tiền thì cho phối hợp ba thứ: bánh mì, fromage đầu bò và chuối già. Ăn kiểu này thì cắn một miếng bánh, đớp một miếng chuối và nhai một miếng fromage. Ngon và béo ngậy. Kiểu ăn chuối kết hợp fromage với bánh mì đã có từ thời Nam kỳ còn là thuộc địa Tây. Tuy nhiên, bây giờ không mấy ai ăn kiểu này. Bánh mì bì thì vẫn còn bán trước mấy cổng trường tiểu học và thỉnh thoảng trên xe đẩy ngoài đường.
Cách nay vài năm, khi vào chơi một xóm làm đồ gốm ở Lái Thiêu - Bình Dương, lỡ bữa, tôi được anh bạn ở đó mua cho một ổ bánh mì giá chỉ ba ngàn đồng, ăn sao thấy ngon và nhớ tuổi thơ quá chừng.
Bánh mì chơi được với mọi người. Tiệm bánh Như Lan ở Hàm Nghi xuất thân từ bán bánh mì, giờ nổi tiếng với đủ món ăn chơi như đùi gà rán, bánh bao, xôi lá sen, xôi khúc, xúc xích… Dù vậy người ta vẫn quen gọi cái tiệm to đùng ấy là bánh mì Như Lan, kiểu như “ra bánh mì Như Lan mua cái bánh bao”.
Bất cứ tiệm ăn hay quán cà phê nào của Sài Gòn xưa nay đều có bánh mì trong thực đơn. Bánh mì ăn với trứng ốp la, ốp lết, bò kho... Cái dĩa sứ Minh Long trắng bong, trứng cũng trắng, lòng đỏ vàng. Ăn xong thấy khô khan cả họng, chiêu vội miếng cà phê đá. Tôi không cảm thấy ngon. Bánh mì với đặc tính xốp, thẩm thấu nước nên khi kẹp thịt, pa tê hay thậm chí kẹp miếng ốp la ở giữa chắc chắn ngon hơn so với ăn kiểu Tây, bánh ra bánh và thịt ra thịt.
Bánh mì kẹp thịt với giá hai chục ngàn đồng đó chính là loại bánh mì mà người Nhật ba lô, trong đó có dăm người bạn của tôi, cảm thấy mê mẩn khi ngồi gặm trong một quán bình dân nhưng sạch sẽ ở khu phố Tây Phạm Ngũ Lão giữa lúc cắm đầu vào những cuốn sách dày cộp như Lonely Planet.
Khi trào lưu thức ăn nhanh đến đất nước này, đã thấy có sẵn một người khổng lồ chễm chệ, từ hang cùng ngõ hẻm cho đến quán hàng sang trọng, có khả năng đáp ứng khẩu vị bao người với lắm thứ nhân bên trong như vậy. Ổ bánh mì vàng ruộm và thơm phức, dù đôi khi phải ngoảnh mặt làm ngơ trước bàn tay người bán hàng vừa nhét thịt vào ổ bánh vừa cầm tiền thối cho mình, thì vẫn dễ chịu làm sao khi đến lớp hay cơ quan, mở cặp ra đã thấy bát ngát một vùng khứu giác. Lúc đó, miếng ớt cũng thơm khi đi cùng patê hay thịt quay, thịt xá xíu và vài cọng ngò. Đến lúc này, vị giác đã bị bánh mì kẹp thịt đánh gục để bắt đầu một ngày làm việc hăng say cùng với ly cà phê đá tỏa hương.
Ảnh: uckyo
Ẩm Thực Sài Gòn, Hành Trình Đa SắcKhi so sánh với vùng miền khác, người ta thường nói “Ẩm thực Sài gòn không có bản sắc riêng”. Người Sài Gòn bản tính vốn “sao cũng được”, dễ chấp nhận ý kiến khác biệt với mình nên không mấy khi tranh cãi với nhận xét này. Và cho dù mang tiếng “thiếu bản sắc”, ẩm thực Sài Gòn vẫn lừng lững phát triển, ngày càng đa dạng và hấp dẫn đến nổi nhiều người mê ẩm thực, từng cất công du lịch qua nhiều nước để thỏa mãn thú vui này phải kết luận “Ở Sài Gòn nếm cho hết các món ngon cũng đủ sướng miệng!”.
Hàng quán Sài Gòn vẫn cứ phát triển với cung cách phục vụ ngày càng chuyên nghiệp. Các tên tuổi ẩm thực ở vùng miền khác đã đến Sài Gòn mở quán kinh doanh như phở Lò Đúc, chả cá Lã Vọng, nem Ninh Hòa, gà Tam Kỳ rồi đến quán ăn Hàn, Thái, Ấn, Nhật, Ý… không kể xiết. Để giữ chất lượng và uy tín cho tên tuổi của mình, nhiều quán đặc sản sẵn sàng tận dụng những tiện ích của ngành hàng không nhằm duy trì nguồn nguyên liệu “chất” nhất và “nguyên gốc” nhất. Người sành ăn ở miệt quận 1, quận 3 hay Phú Nhuận, Bình Thạnh chưa chắc sành sỏi về những món ăn ở Chợ Lớn, mảnh đất phía Tây Nam. Chợ Lớn với nền ẩm thực Trung Hoa phong phú luôn là một điểm đến hấp dẫn. Món Chợ Lớn qua thời gian đã được cải biên cho hợp khẩu vị và phong thổ ẩm nóng của Sài Gòn, trở nên đỡ ngấy vì không nhiều dầu mỡ nước xốt như món ăn Hoa trên đất Trung Hoa. Vả lại, bản thân ẩm thực ở Chợ Lớn cũng quá phong phú với các trường phái của người Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hẹ. Có một ca khúc hài (nhái bài hát Bến Thượng Hải ) đã phác họa vẻ phong phú này:
Người Chợ Lớn, người bên Tàu, người Hồng Kông
hễ thấy nhau là mời bánh bao.
Tuy Phúc Kiến, tuy Hải Nàm, dù Triều Châu tới đâu cũng mời ăn mì
Mì xá xíu, mì vịt tiềm, mì bồ câu, cái tô sau là hoành thánh tôm
Kêu thêm dĩa hủ tíu xào, xào mực tôm, cá viên hẩu xực làm sao
……………………
Còn ngon nữa, thì tả pín lù
Người Phúc Kiến nổi danh là vịt nấu chao
Dê bát bửu thêm yến sào
Người già nua tới đâu cũng trẻ lại mau…
Đã vậy, thực đơn Tàu luôn được bổ sung các món từ Đài Loan, Singapore hay Hồng Kông, đều là những thiên đường ẩm thực. Từ những dịp gần Tết Nguyên đán hồi trước 1975, dân Sài Gòn đã thích vào Chợ Lớn mua sản vật lạ như trái hồng khô Hồng Kông, rượu Ngũ Gia Bì, lạp xưởng Đài Loan… nhập về từ các xứ đó.
Món ăn Sài Gòn thiếu bản sắc vì không ngại du nhập món ăn xứ khác để làm thành của mình. Món hủ tíu người Tiều (Triều Châu) vào Nam bộ cuối thế kỷ 19 và chỉ nấu bằng thịt heo, xương heo và sau này với cá, gà ăn cùng bánh tráng ướt thái sợi. Có người cho rằng đây là món điểm tâm đặc trưng của người Tiều Nam Bộ, không thấy có ở Hồng Kông, Đài Loan, Singapore, Thượng Hải… Rồi hủ tíu chia thành nhiều nhánh, đều nổi tiếng như Hủ Tíu Mỹ Tho, Hủ Tíu Nam Vang và không ai nấu với thịt bò. Bây giờ người Việt, người Hoa gốc Quảng Đông, Hải Nàm cũng nấu hủ tíu.
Khu Chợ Cũ Hàm Nghi có nhiều Tiệm nước (tên cũ của quán bán nước trà có ăn nhẹ) của người Quảng Đông từ đầu thế kỷ 20. Tiệm của người Hải Nàm gọi là Trà gia thường có chữ Viên, tỷ như Yến Phương Viên bán Hủ tíu cá. Người Hải Nàm (gốc đảo Hải Nam) thường đi tàu biển, làm bồi cho Tây nên khi mở tiệm nước thường có bán kèm bánh tây như patéchaud, soux cream…
Ở đường Tôn Thất Đạm, quận 1 giờ vẫn còn quán hủ tíu cá Nam Lợi, một quán của người Hoa tồn tại khoảng 60 năm nay. Quán bán hủ tíu cá, hủ tíu gà. Sợi hủ tíu có loại nhỏ và loại to bản, lớn hơn bánh phở và có cả mì sợi tươi. Cá lóc tươi bỏ xương, xắt lát mỏng. Gà thịt dai vừa phải, ngọt thịt. Tô hủ tíu rắc nhiều tiêu, nước lèo có vị ngọt dịu của cá gà, mùi thơm mực khô và xương hầm. Trên bàn, bày thêm bánh Patéchaud, ai thích thì ăn. Bánh ngon, mềm nhưng không dai, nhân đầy, thịt đậm đà. Việt kiều về đây chen chúc trong không gian chật hẹp cùng dân Sài Gòn, xì xụp ăn giữa tiếng hô ì xèo của chủ tiệm “Cá liệu!” (Thêm đồ ăn!), “Dùy phảnh!” (Hủ tíu cá!).
Về món ăn ai cũng biết - phở. Nhưng con đường nào để phở Bắc vào Nam còn rất lờ mờ. Ông Lý Lược Tam, gốc Triều Châu, từng sống ở Lái Thiêu trước 1945 kể trong một dịp hàn huyên, phở thoạt đầu là thức ăn của người bình dân, bán trên xe đẩy đi khắp hang cùng ngõ hẻm. Trước 1945, người ta nấu phở khi có thịt trâu bò đưa về do chết vì bom đạn. Phở theo chân những người Bắc vào ký công tra làm phu cao su ở Lộc Ninh, nay thuộc Bình Phước. Đến năm 1945, do loạn lạc, số người này bỏ đồn điền chạy về vùng Lái Thiêu và được những đồng hương ở đó giúp vốn mở quán hay xe đẩy đi bán phở. Lúc đó người Bắc (dễ nhận ra do nhuộm răng đen) bị Tây lùng bắt nên một nhóm trốn về Sài Gòn đông đúc. Họ vào cái hẻm bên cạnh rạp hát Casino (góc Lê Lợi – Pasteur, nay không còn) bày bàn bán phở. Lúc đầu chỉ có món phở tái nêm nước mắm. Sau bán thịt tái không hết, họ luộc thịt làm thêm phở chín. Đầu những năm 1960, người Tàu Chợ Lớn chế ra tương đỏ, tương đen và phở tiếp nhận luôn yếu tố ngoại lai này. Sau đưa lát chanh tươi vắt vào nước lèo tạo vị ngọt thanh, thêm giá trụng, hành chần, rau ngò gai, quế… và bây giờ có cả rau ngò om, giá sống và hành Tây xắt mỏng. Phở Sài Gòn đi một hành trình dài để lột xác, ăn kèm nhiều thứ nhưng không đi quá xa kiểu nấu từ miền Bắc… giữ hương vị đậm đà, dù ít hay nhiều béo, có hay không rau.
Giới trẻ Sài Gòn thích món bò pía. Nó hấp dẫn vì có vị thơm mát của rau, củ sắn luộc chín và có rau xà lách gói trong bánh tráng mỏng. Bò pía chấm với tương ngon có trộn đậu phộng giã nhỏ, được cung cấp thêm vị mặn ngọt của con ruốc rang, vị béo của lạp xưởng ướp. Có người thắc mắc sao không có thịt bò mà gọi “bò pía”. Xuất phát từ tiếng Triều Châu, Pò nghĩa là bạc, mỏng. Pía là bánh. Bò pía hay Pò pía là cái bánh cuốn mỏng trong có thức ăn. Món này của người Triều Châu, có hai loại mặn và ngọt. Bánh ngọt có nhân kẹo bột, rắc mè, dừa… ít phổ biến hơn bánh mặn.
Bên cạnh đó còn có món gỏi đu đủ khô bò cay cay đậm đà từ Bắc vào Nam cũng xuất phát từ người Hoa sống ngoài đó. Danh xưng là gỏi khô bò nhưng miếng thịt lại là phổi, gan, lá lách bò vốn mềm mại, thẩm thấu tốt hương vị đậm đà của hắc xì dầu, gừng.
Khu Chợ Cũ Hàm Nghi hình thành một món ăn kỳ lạ và khoái khẩu với người Sài Gòn bình dân cách nay nửa thế kỷ. Đó là món xà bần, hay còn gọi là món lâm vố (rabiot). Lai lịch như sau, trong tiệm nước, ngoài đồng lương, người phục vụ hưởng được quyền lợi khác tùy theo công việc. Anh bồi bưng bê thức ăn hưởng tiền bo từ khách. Chú đầu bếp không tiếp xúc với khách thì hưởng… thức ăn dư. Mỗi ngày, họ đổ thức ăn dư vào xô và bán ra. Người mua cho tất cả vào nồi, bắc lên lò nấu thành một món xà bần sền sệt. Trong đó, có nhiều cục thịt bò còn nguyên, cá bống chiên, thịt quay… có khi là cục nấm đông cô thơm lừng. Do nấu đi nấu lại, thêm gia vị và muối, món này càng đậm đà, giữ được lâu. Giới phu phen và cả công chức thời đó thiếu chất thịt trong bữa ăn nên không ngại ăn đồ thừa, buổi trưa ra mua một tô ăn tại chỗ với bánh mì hay cơm giá 2 cắc, rẻ hơn giá tô hủ tíu, ai cũng ăn được và thường hết sớm. Sau 1975, món này hoàn toàn biến mất.
Người sống ở Sài Gòn có thể kể vanh vách những món ăn đặc trưng ở nhiều vùng đất khác nhưng nói về món đặc sản Sài Gòn thì dễ phân vân. Nhưng có hề chi, khi ra đường sẽ gặp bao món ăn thơm ngon. Nhớ chuyến du lịch Singapore thì ăn cháo ếch đường Lê Anh Xuân, thích cơm Hàn thì đến phố Thăng Long, cơm Nhật thì ra Lê Thánh Tôn, ăn dim sum thì vô Hà Tôn Quyền, cơm Thái thì ra Bùi Viện. Về món Việt, thích cơm Huế thì đến quán Ruốc, Ngự Bình, cơm Bắc thì vô khu sân bay, thích mì Quảng thì về Bảy Hiền, muốn Mì vịt tiềm thì ra chợ Lacaze – Nguyễn Tri Phương. Còn chè ngọt, cà ri, cháo lòng, bột chiên, cơm tấm bán theo quán riêng.
“Ẩm thực Sài Gòn thiếu bản sắc”, nhưng không thể chối cãi rằng món ngon ở khắp nơi thích tụ về Sài Gòn (cũng như người đẹp, ca sĩ hay nhân tài các ngành nghề thích tụ về) để tồn tại và phát triển trong một hành trình riêng của nó, để làm nên một khuôn mặt đa sắc cho đời sống ẩm thực Sài Gòn. Sự đa sắc đó có thể gọi là bản sắc ẩm thực kiểu Sài Gòn được chăng?
Ảnh: Minh Tang
Nhớ Một Thời HippyTrong chồng báo cũ của gia đình, tôi tìm thấy tờ báo Xuân xưa, báo Xuân C.L năm Kỷ Dậu 1969 khổ lớn với bìa có khuôn mặt tươi cười của nghệ sĩ Kim Loan. Bài vở trong đó ít đặc sắc nhưng có một bài lý thú. Bài “Mùa xuân mười tám” của Hà Mai Lan trình bày dưới dạng hai bài nhật ký, nhật ký của Mẹ và nhật ký của con gái. Nhật ký của Mẹ kể về những ngày Tết 1943 ở Hà Nội. Trời rét Xuân đất Bắc, cô con gái theo mẹ lên xe kéo ra chợ Đồng Xuân ngày hăm ba tháng Chạp vào buổi sáng sớm, trong lòng vẫn lo chợ hết món ngon để mua cúng ông Công ông Táo. Về nhà, cả nhà xúm vào gói bánh chưng cùng với người bà con ở quê ra. Cô con gái cả ở nhà trông nom mọi việc, mua sắm cho em út. Phần nhật ký này trình bày một mùa xuân tuyệt đẹp trên đất Bắc rất gợi nhớ cho những người xa quê hương miền Bắc đã lâu.
Phần nhật ký cô con gái thì thể hiện nếp nghĩ hiện đại của một cô gái tân thời trong xã hội Sài Gòn giữa cơn lốc hưởng thụ thời chiến tranh tao loạn. Cô gái mong đợi đến ngày mở tiệc bum - ban khiêu vũ Tết với đám bạn bè và lo mua sắm quần áo. Đám bạn cô thì đi mượn nhà để mở tiệc khiêu vũ.
Cô phàn nàn là bị ông bố xé bức ảnh tứ quái Beatles treo ở phòng ngoài. Ông càu nhàu “Ảnh ông bà cha mẹ không treo, lại rước cái thằng mủi lõ đầu bù ấy…” và cô chê ông bố là “quê” quá cỡ… Cô ra phố Bô – na (tức là đường Lê Lợi) chơi và gặp ông thầy cũ, giờ đã chuyển xưng anh với cô. Cô gật đầu nhận lời vào thương xá Tax với ông và “thương hại cho túi tiền của lão vì mình chỉ mua có một hộp dầu thơm Essence và một ve Eau De Cologne”. Cuối cùng cô nhận lời tối mai đi phòng trà với thầy nhưng biết mình sẽ từ chối vì không thích đi với “lão già khằn đó”.
Người đọc dễ hình dung rằng lớp trẻ cách nay bốn mươi năm ở Sài Gòn ăn chơi quá, thực dụng không kém thời bây giờ. Hình ảnh cô bé trong bài có là tiêu biểu cho lớp trẻ Sài Gòn lúc đó hay không?
Từ năm 1969 đến đầu những năm 70, nhiều người thờ ơ với thời cuộc không biết vì sao ngoài đường phố Sài Gòn sao lắm hình ảnh hoa đến thế. Hoa được vẽ khắp nơi, trên áo, trên thân xe của giới trẻ như Suzuki, Vespa, xe hơi, dán cả trên mắt kính râm tròng lớn. Chỉ có một dạng hoa duy nhất với nhụy tròn, bao quanh là những cánh hoa nhiều màu sặc sỡ cũng tròn như được kẻ compas. Người ta gọi đó là hoa hippy.
Phong trào hippy của giới trẻ Mỹ, bắt nguồn từ thành phố San Francisco năm 1967, khi có gần cả trăm ngàn người tụ lại tại đại hội Montery Pop để tạo ra một ý tưởng chống đối văn hóa và chính trị đương thời, đã lan qua tận Châu Á. Bằng con đường y hệt của nhạc trẻ phương Tây, tức là đi theo sách báo và lính Mỹ, phong trào hippy lan đến Sài Gòn và các tỉnh miền nam như một thứ dịch. Hình ảnh bông hoa trên là hình tượng phổ biến của phong trào hippy, “Flower Power” (Sức mạnh của hoa) mang tư tưởng chống chiến tranh Việt Nam, chống bom hạt nhân của giới trẻ Mỹ. Nó cũng tượng trưng sức mạnh hòa bình khi thể hiện hình ảnh bông hoa gắn trên đầu mũi súng. Bên cạnh những triết lý đó, phong trào này cổ vũ “Make love not war”. Khẩu hiệu khiến giới trẻ theo phong trào sống khá thoải mái, bầy đàn và dễ dính tới nạn hút chích.
Qua tới Việt Nam, phong trào hippy phản chiến còn lại gì? Những năm đó, giới trẻ miền Nam đa phần lo lắng cho tương lai trên một đất nước đang có chiến tranh. Ngoài số thanh niên có lý tưởng hoạt động bí mật hay ra chiến khu, đa số lo học hành, tìm cách tránh bị bắt lính. Tuy nhiên, một bộ phận thanh niên khá giả, học trường tư thục, thích nhạc trẻ - như cô gái nói trên - đã tìm thấy ở phong trào hippy mới du nhập một triết lý sống khá hiện sinh, thoải mái, vui nhộn và nhiều cơ hội thể hiện cái tôi của mình. Vui nhất là được rủ nhau đi nhảy nhót và hát nhạc ngoại quốc. Nhiều thanh niên con nhà nghèo cũng đua đòi theo. Bắt chước một hiện tượng, dễ nhất là từ hình thức của nó. Hình ảnh của hoa hippy là một sự bắt đầu.
Nhạc nước ngoài lời Việt với hình ảnh ca sĩ cầm đàn guitar điện rất thịnh hành trong phong trào hippy đầu thập niên 1970.
Một bài báo thời ấy tường thuật về giới trẻ Sài Gòn, lược lại như sau, chiều thứ Bảy và Chủ Nhật thì phải ăn mặc thật gồ ghề để lên đường phố Sài Gòn trình diễn thời trang. Kiểu áo thịnh hành lúc đó là cổ áo giống như áo của ông râu kẽm (ám chỉ ông Kỳ), với cái cổ được đặt tên là A la Mao (áo kín cổ của Trung Hoa ngày nay). Ngoài ra có các kiểu như: Kangouru (có nẹp dài từ trên vai xuống cườm tay), Procol Harum (áo dài gần sát đầu gối, xẻ khá dài hai bên hông), Napoléon (cổ tay tua rua, trước ngực cũng tua rua).
Giày thì thịnh hành giày kiểu Torpedo, Bally như thế hệ cuối thập niên 40 và quần kiểu cigarette thẳng từ trên xuống dưới. Váy may như quần xà lỏn, quần patte áo pull hoặc nguyên bộ patte. Ngoài ra có kiểu giày Cléopatre dây nhợ quấn chằng chịt hay mốt mang dép cao su Nhật màu trắng, có cả mốt đi chân đất nhưng không thọ vì sợ uốn ván.
Trang phục phổ biến dễ nhận ra giới hippy nhất là quần jeans rách, gấu bung tua rua mặc với áo sô mỏng, mắt kính gọng tròn kiểu John Lennon, con trai và con gái đều để tóc dài, tới vai hoặc hơn. Anh nào có râu rậm thì râu quai nón, băng buộc đầu, đeo chuỗi hạt tình yêu. Con gái diện váy dài và đeo vài thứ lằng nhằng như dân digan. Sau đó ra đời kiểu cổ áo bà ba, nút áo được cài từ trên cổ xuống đến tận eo. Sau khi ca sĩ Mai Lệ Huyền bận mini jupe hát nhún nhảy trên truyền hình, đường phố Sài Gòn tràn ngập mini của các cô. Kế đến là kiểu áo dài vạt cực ngắn gọi là áo dài mini.
Trước đó, phong trào nhạc trẻ đã phát triển tại miền Nam vào đầu thập niên 1960, qua sách báo, dĩa nhạc du nhập từ Pháp và rất thu hút giới trẻ đô thị, đặc biệt là giới hippy. Từ đó xuất hiện những thần tượng ca nhạc trẻ như Sylvie Vartan, Francoise Hardy, Christophe… từ nước Pháp. Tiếp nối ngay sau đó là sự nổi lên của các ca sĩ Việt Nam hát nhạc nước ngoài như Elvis Phương, Paolo, Jo Marcel, Thanh Lan... cùng với các ban nhạc trẻ như Les Vampires, Enterprise, The Peanuts, CBC, The Uptight, The Hammers, The Dreammers hoặc Les Fanatiques...
Sau Đại hội nhạc trẻ Woodstock, đại hội của giới hippy, diễn ra trong 3 ngày tại New York năm 1969, vào tháng Tư, năm 1971 tại Sài Gòn đã diễn ra buổi đại hội nhạc trẻ ngoài trời đầu tiên ở Việt Nam tổ chức tại sân vận động Hoa Lư với gần 20 ngàn người và hơn 20 ban nhạc trẻ đến từ Hoa Kỳ, Phi Luật Tân, Úc Đại Lợi, Thái Lan, Đại Hàn, Mã Lai, Indonesia và nước chủ nhà.
Khi đã ăn mặc, giải trí khác lạ so với số đông, dân hippy đương nhiên cũng tạo dựng ngôn ngữ riêng và thích thú khi dùng chúng. Lúc đầu nó phổ biến trong giới ăn chơi, dần dà lan ra ngoài xã hội vì bắt chước lời nói thì không tốn kém gì. Họ nói ghế (con gái), ghế tơ (con gái nhỏ tuổi), ghế linh (con gái đẹp), ghế mục (con gái xấu), khứa lão (ông già lớn tuổi), khứa mục (đàn ông ngu đần không xài được), lặn đi khứa (bỏ đi tám, tức là cho qua đi), cảo dược (hút thuốc lá), ghế cảo dược (con gái hút thuốc), mông tại (cóc có tiền)… và nhiều từ không tiện kể ra đây.
Dân hippy Sài Gòn, như những thân gỗ đã bị bật gốc gia đình, vẫn trôi lững lờ trên dòng xã hội đầy sôi động. Đa số còn rất trẻ, chán chường và lo lắng, đua đòi và thích hưởng thụ. Họ không tin vào xã hội đương thời, chỉ tin vào tuổi trẻ của mình và cho rằng “Trên ba chục tuổi thì hết là kẻ đáng tin!”. Một số người buông thả, vướng vào chích hút và tàn đời. Nhưng rất may, hầu hết đã quay lại cuộc sống thực tế, không tiếp tục thể hiện mình là “bất cần đời” nữa và trở lại trường học sau một mùa hè rong chơi. Họ tu tỉnh, quên đi một thời “yêu cuồng, sống vội”. Lúc đó, trong mắt họ, hình ảnh gia đình và quê hương hiện rõ dần lên. Họ tỉnh lại.
Cách nay vài năm, tôi gặp lại chị Hồng Đào, cựu nữ sinh trung học tư thục Hoài An ở Phú Nhuận, một hippy choai choai của Sài Gòn năm 1970 và là bạn học của chị tôi. Lúc đó chị đi xe Suzuki xanh nước biển, jeans xanh bó sát với ống loe và gắn đầy hoa trên xe, túi xách và mắt kính. Ở tuổi gần sáu mươi, chị còn giữ được tính sôi nổi của một thời trẻ, thích nghe nhạc và từng cố gắng mua vé đi xem Bob Dylan hát ở RMIT gần đây. Chị bảo, đó là một thời kỷ niệm, ngốc ngếch và ham vui của tuổi trẻ. Chị đã vui, nhưng may là biết thoát ra một kiểu cách sống tuy rất hấp dẫn nhưng đầy bất trắc và cạm bẫy với người mới lớn. Dù sao, nó đã qua và chị mong con của chị có thể vượt qua được giống như vậy. Vì hiện tại, cuộc sống còn có gấp nhiều lần những cám dỗ đối với người trẻ…
Ảnh: Igor Kolos
Giai Phẩm Xuân Học TròBốn mươi năm trước, bà chị của tôi đang học lớp Đệ Ngũ (lớp 8 hiện nay) trường Trung học Lê Bảo Tịnh mang về một cái thẻ nhỏ và bảo trống không: “Thích vô Thi văn đoàn thì dán cái hình, tìm một cái bút hiệu mà ghi vô!” . Rồi chị nói một cái tên nghe rất điệu, đại loại là Thi văn đoàn Mưa Thu hay Hoa Thiên Lý gì đó…
Tôi cũng tìm cho mình một bút hiệu, dán hình vào và gửi thẻ đi. Vài ngày sau nhận lại cái thẻ, có dán hình của tôi rất oách và dấu vuông xác nhận mình là thành viên của Thi văn đoàn này. Từ đó, không thấy ai nhắc đến nó nữa khiến tôi đợi miết và buồn mấy hôm vì mất cơ hội trở thành… văn sĩ.
Trước đó, tên các Thi văn đoàn đã khiến tôi sôi sục khi đọc các bài báo đăng trên các trang thiếu nhi hay trên báo dành cho học trò như Tuổi Ngọc, Thằng Bờm, Thiếu Nhi, Tuổi Hoa. Đó là nhóm Áo Trắng ở trường Gia Long, Hoa Phượng của trường Trưng Vương, nhóm Hoa Quê Hương… Thành viên các nhóm có nam nữ đủ cả, nhưng các cây bút nữ có nội lực dồi dào, đều tay, sâu lắng hơn. Thật là dễ hiểu vì lúc đó các chị đã chững chạc hơn so với các anh đồng tuổi còn ham chơi.
Các Thi văn đoàn là cái nôi cho một hoạt động ngoại khóa rất sôi nổi ở trường học lúc đó là làm bích báo (báo tường) và Nội san. Đến giờ chắc nhiều người ở các đô thị miền Nam còn nhớ những cuốn Nội san hầu hết in ronéo, nét vẽ và trình bày phần nhiều ngô nghê, vụng dại và thường có “Lời nói đầu” của một vị giáo sư với giọng văn nghiêm cẩn, đôi khi khô khốc và cũng lơ tơ mơ với nghiệp viết lách như học trò. Các cuốn Nội san đó, hình thành ý tưởng từ mùa Noel, bắt đầu nhận bài lai rai cho đến khi thi xong là một nhóm học trò bắt đầu lo vẽ minh họa, trình bày, quay ronéo, đóng tập.
Ông anh thứ năm của tôi, người vẽ một số tranh minh họa trong cuốn sách bạn cầm trên tay, lúc đó đang học trường Trung học Hoài An ở Phú Nhuận đã vẽ nhiều tranh trên giấy stencil để minh họa bài. Anh bảo các bài viết thường chán và sáo, tìm ý mãi không ra nên thường vẽ đại với hình thiếu nữ tóc dài mộng mơ đang nghiêng đầu, hay ôm cặp đi dưới hàng cây. Vậy là đủ, học trò ai cũng thích những hình ảnh như vậy, đọc bài thì ít nhưng mê tranh vẽ, để sau đó còn vẽ cóp lại trên vở lưu bút cuối năm.
Tuy vậy, làm nội san cuối năm là một hoạt động rất hấp dẫn, nên cho đến gần Tết Ất Mão năm 1975, nhà nước thời đó chính thức tổ chức một cuộc thi làm báo Xuân học đường hẳn hoi với nhiều giải thưởng. Ban giám khảo là các nhà văn nổi tiếng ai cũng biết như Minh Quân, Minh Đức Hoài Trinh, Bình Nguyên Lộc, Võ Phiến, Tố Oanh, Lê Tất Điều, Nguyễn Mộng Giác… Các trường ở Sài Gòn gửi thẳng đến ban Giám khảo, các trường ở tỉnh lỵ, quận lỵ thì Ty giáo dục phải tuyển chọn trước khi gửi về. Lúc đó, báo Xuân học đường là cơ hội của các cây bút học đường do báo chí người lớn thu hẹp dần đất dành cho tuổi trẻ, nhiều tờ báo khác bị đóng cửa do tình hình khó khăn thời chiến nên học trò thích viết lách rất háo hức.
Ngay sau Tết năm đó, bà chị tôi đã mang về cuốn sổ có chép bài thơ sau đây:
Thôi thưa thầy con đi
Năm cuối cùng đã hết
Chưa sang một mùa thi
Ðã nghe đầy thương tiếc
Vở chưa phai mực thầy
Những lời phê nho nhỏ
Sáng lên màu tươi đỏ
Thâm trầm nỗi tin yêu
Trong màu xanh biển chiều
Của những dòng nước lặng
Thầy bảo đời rất đẹp
Nhưng cũng lắm gian nan
Bao ô đời còn khép
Chưa mở rộng thênh thang
Như những ô tập vở
Cần những kẻ khai hoang
Áo cơm là hơi thở
Mơ mộng là son vàng
Mai con đi thầy ở
Những lớp học lại đầy
Có những cánh chim non
Và những chồi non chớp
Con chưa là người lớn
Con muốn ở lại trường
Như ở lại quê hương
Đầy hoa thơm trái ngọt
Có con chim nào hót
Ngoài cửa sổ chiều nay
Hỏi rằng chim có hay
Phấn buồn trên bảng trống
Ta sắp vào cuộc sống
Chào bảy năm mây trôi
Không một ngày biển động
Mai giữa trời cao rộng
Phải tìm thấy bình minh
Phải lo cuộc mưu sinh
Không còn thầy chỉ lối
Bây giờ là Xuân cuối
Thôi thưa thầy con đi.
Bài Bây giờ là xuân cuối của nữ sinh Vũ Thị Gio Linh, lớp 12A4, nghe tên là biết tác giả người gốc Quảng Trị, được đánh giá cao trong đợt thi này. Chung cuộc, có trên 50 tờ dự thi, từ những tập in ronéo của các trường quận lỵ thiếu thốn mọi mặt đến các tập in off-sette rực rỡ bìa láng bốn năm màu. Trường Nữ trung học Gia Long với bài thơ trên đoạt giải nhất. Giải nhì cho trường Nữ trung học Bùi Thị Xuân ở Đà Lạt, giải ba cho trường Võ Trường Toản, giải khuyến khích cho trường Nữ Trung học Sương Nguyệt Anh, trường Trương Vĩnh Ký và Nữ trung học Lê Văn Duyệt. Các trường Nữ trung học chiếm 4 trên 6 giải thưởng.
Nhà văn Nguyễn Mộng Giác sau khi đọc các ấn phẩm trên đã cho rằng “chúng ta tìm thấy được nhiều điều đáng suy nghĩ” . Các Giai phẩm Xuân trường Gia Long và Bùi Thị Xuân có giá trị văn chương và trình bày. Xét riêng từng bài thì tác phẩm tương đối có giá trị của nữ cũng nhiều hơn, tình cảm trong thi ca phong phú hơn, đối thoại trong truyện ngắn linh hoạt hơn.
Bài thơ của Vũ Thị Gio Linh ở trên được chọn để đọc trong Lễ phát thưởng cho các Hiệu đoàn có báo Xuân xuất sắc.
Ngoài ra, còn có những bài hay khác như Gửi người em lớp 6 của Trần Bích Tiên, nữ sinh lớp 10C2 trường Bùi Thị Xuân, Đà Lạt. Báo Bách Khoa, tờ tạp chí rất có uy tín của miền Nam trước kia, thường đăng bài của các ông Trần Văn Khê, Phạm Ngọc Thảo, Nguyễn Hiến Lê, Vũ Hạnh… đã không cưỡng lại ý định đăng lại bài này trên số 424.
Này em lớp sáu này em nhỏ
Gặp em rồi không quên em đâu
Chiều nay hai đứa về qua phố
Rất tự nhiên mà mình quen nhau
Em chạy tung tăng không mắc cỡ
Chị thì bước bước chậm theo sau
Tuổi mười hai chị xa xôi quá
Chị gọi em chờ, em chạy mau.
Này em lớp sáu này em nhỏ
Em hãy dừng chân một chút lâu
Chị vuốt tóc em rồi chị nhớ
Tóc em thơm ngát mùi hương cau.
Hương cau vườn chị xa như tuổi
Ba má chị nằm dưới mộ sâu
Vườn cũ nhà xưa tàn với lửa
Chị đi về hai buổi âm u.
Gặp em ngoài phố mình như bạn
Thơ mộng trong bàn tay nắm nhau
Chị ngắt cho em bông cúc nhỏ
Em cười cái miệng mới xinh sao.
Ngày xưa chị cũng như em chứ
Cũng rất ngây thơ rất ngọt ngào
Chị nhớ mỗi chiều tan học sớm
Bạn bè đuổi bướm thật xôn xao
Những con bướm lượn trên bờ cỏ
Chị cũng như em đuổi bắt mau
Bây giờ bướm biệt trên đường phố
Chị đuổi sương mù chơi chiêm bao.
Này em lớp sáu này em nhỏ
“Gặp em rồi muôn thuở không quên”
Trời ơi, câu đó ngày hôm trước
Ai rót vào hồn chị hỡi em?
Sách trên tay chị nghe chừng nặng
Sao cặp em đầy vẫn nhẹ tênh
Thôi nhé em về con phố dưới
Giữ hoài cho chị tuổi hoa niên.
(Trần Bích Tiên lớp 10C2)
Hay thơ của nam sinh Nguyễn Đăng Châu:
Anh nói bé nghe chuyện làng chuyện xóm
Chú Bảy anh Ba ngã xuống hôm nào
Đường quê mình đi dày công nuôi nấng
Bằng xác bà con sữa mặn má đào
Lơ lửng lá trời anh nói bé nghe
Mình lại xóm quê một bữa đầu hè
Yêu lắm bé thơ, chiều thương dấu cũ
Có mẹ ngồi chờ trên chiếc chõng tre
( Giai phẩm Đất Hồng , trường Phan Chu Trinh, Đà Nẵng)
Nhà văn Nguyễn Mộng Giác nhận xét trên Bách Khoa số 425 rằng báo Xuân học đường ở thành thị rực rỡ sang trọng in offsette trên giấy trắng láng, bìa nhiều mầu, khổ lớn như các tập báo của các trường Sương Nguyệt Anh, Võ Trường Toản, Lê Quý Đôn, Hồng Bàng… Còn báo Xuân tỉnh lẻ hoặc tỉnh lỵ in ronéo trên giấy hẩm. Chiến tranh các vùng nông thôn khác nhau nên có sự cách biệt về đề tài hay hình thức giữa nội thành và ngoại ô, sắc thái “an toàn” của văn chương học đường ở Sài Gòn và sắc thái “hiện thực” của tập báo Xuân Đất Hồng của trường Phan Chu Trinh, Đà Nẵng và trong thơ của các cây bút học trò như Quảng Điền, Nguyễn Đại Bường, Lê Văn Quang, Nguyễn Đăng Châu, Nguyễn Hoàng Thư. Thân phận của các học sinh trong chiến tranh trôi dạt từ nơi này sang nơi khác nên có thể tìm được những tiếng “mô, tê, răng, chừ” trên báo Xuân của quận lỵ hẻo lánh cực nam, “Hổng thèm” ngúng nguẩy hay “à nheng” thân ái trên trang báo học sinh ở Huế hay Quảng Trị.
Nội san Xuân học đường trước 1975 là một hiện tượng văn hóa đơn lẻ, âm thầm ít ai quan tâm, nhưng đó chính là nơi ươm mầm văn chương, bày tỏ nỗi lòng vừa chớm, háo hức trước cuộc đời rộng mở nhưng cũng đầy lo lắng của giới trẻ học đường trong thời chiến tranh tao loạn và bất trắc. Đó là một sân chơi đàng hoàng. Ở đó, ngoài công sức của học trò, có các thầy cô mẫn cán bên các em có năng khiếu, khuyến khích và miệt mài cùng học trò trên một vùng đất hồn nhiên, trong trẻo mà ai cũng chỉ trải qua một lần.
Chút Kỷ Niệm Với Tuần Báo Thiếu Nhi
Năm 1972, Sài Gòn đang vui vẻ trẻ trung với hippy choai choai đầy đường phố. Nhạc Phạm Duy đang được hát khắp nơi và nhạc ngoại quốc lời Việt thịnh hành với những bài Đồng Xanh, Trong nắng trong gió, Những mùa nắng đẹp. Xã hội đầy lo lắng từ các bậc phụ huynh khi con cái bị ảnh hưởng văn hóa phương Tây, yêu cuồng sống vội.
Lúc ấy, tôi còn là đứa con nít đang học lớp Nhứt (bây giờ là lớp Năm) ở trường Võ Tánh, Phú Nhuận. Tuy còn nhỏ nhưng nhờ có sẵn tủ sách của Ba và ông anh học Văn khoa nên tôi đọc được nhiều. Đã vậy, các hiệu sách cho thuê mướn truyện đang phổ biến. Tôi ngốn từ sách của nhà xuất bản Phượng Giang với truyện của Thạch Lam, Khái Hưng, Nhà xuất bản Huyền Trân với tác giả Nhật Tiến… đến sách của Tủ sách Tuổi Hoa. Sách dịch có Con Nai Tơ của Rawlings, Phiêu lưu trên lưng ngỗng của Selma Lagerlof, cả lô truyện trinh thám Z.28 như Kashmir sông máu thuyền hoa, Bhutan đêm dài không sáng, Hồng Loan Hồng Ngọc… Tôi đọc mà nhớ nhớ quên quên, nhưng ham quá nên đích thị là con mọt sách.
Biết tôi ham đọc nên dù học không giỏi giang gì, tôi được cô giáo lớp Năm giao cho trọng trách là “quản thủ tủ sách” của lớp. Thời đó, mỗi lớp được một khoản tiền hằng tháng để mua sách báo thiếu nhi xếp loại là lành mạnh (không dùng ngôn ngữ lóng, thô tục hay có cảnh đấm đá) để học trò đọc bên cạnh ổ bánh mì to và ly sữa hằng ngày cho mỗi đứa (chương trình viện trợ từ nước ngoài). Sách thì có cô lo, còn báo, tôi được giao mua hằng tuần. Từ đó, tôi phát hiện tờ Tuần báo Thiếu Nhi. Trước đó, tôi toàn đọc ké sách người lớn nên một ấn phẩm được coi là báo dành cho thiếu nhi đẹp nhất nhì miền Nam khiến tôi mê tít. Tranh màu nước của họa sĩ Vi Vi trên trang bìa, do được in trên khổ lớn nên đẹp hơn mấy bức của ông vẽ in trên tạp chí Tuổi Hoa của Linh mục Chân Tín. Bài vở thì do nhà văn Nhật Tiến chăm sóc cùng vợ là nhà văn Đỗ Phương Khanh, vốn là cây bút của các tạp chí Tân Phong, Văn Hóa Ngày Nay từ cuối thập niên 1950 nên rất có nghề. Mỗi kỳ báo có bài viết của “ông Khai Trí” Nguyễn Hùng Trương, cũng là Chủ nhiệm báo, nhẹ nhàng và sâu sắc trong mong muốn định hướng lối sống lành mạnh cho giới trẻ. Truyện tranh thì có truyện Tintin của Hergé, Tí hon thần lực của Peyo. Bài của các nhà văn Thùy An, Minh Quân, Kim Hài, Vũ Hạnh, Phan Khương Thái viết hay, sâu và luôn có tính giáo dục. Nhà văn Nhật Tiến thì đăng phơi-ơ-tông dạng như Thuở mơ làm văn sĩ. Mỗi tuần, tôi mua báo trên đường đi học về và sáng hôm sau mang vào lớp cất vào tủ sách để các bạn xem vào mỗi cuối buổi.
Qua suốt năm đó và đến đầu hè sau năm lớp Đệ thất (lớp 6), dù nghỉ học nhưng tôi vẫn được đọc báo Thiếu Nhi vì ông anh bắt đầu lo tôi sẽ ham mấy truyện tranh gọi là nhảm nhí như Quỷ một giò, Chú Thoòng bán đầy vỉa hè. Với tiền anh cho, tôi tiếp tục mua báo Thiếu Nhi và đọc được thông báo là Tòa soạn sẽ mở một khóa học đặc biệt ở Trụ sở tòa báo số 159 Thiệu Trị (nay là đường Trần Hữu Trang), Phú Nhuận. Lớp mang tên “Căn bản gấp giấy Origami”. Cái tên Nhật Bản này không lạ vì trên báo Thiếu Nhi đã đăng lai rai dăm kiểu xếp giấy và gọi đích danh như vậy.
Ba má tôi, quá ngán thằng con lêu lổng suốt ngày ngoài đường trong ba tháng hè nên đồng ý ngay khi tôi mở miệng xin học. Tôi cùng ba thằng bạn trong xóm lần mò đến Tòa soạn mà lòng hồi hộp, hoặc có mình tôi cảm thấy vậy vì ba thằng kia chả quan tâm gì, đi theo tôi cho vui. Chúng tôi ghi danh và học luôn buổi đầu.
Lớp bắt đầu khi một ông nhỏ người đeo kính bước ra chào mừng đám học viên, đa số là người lớn ra dáng giáo viên. Ông giới thiệu là Nhật Tiến, thần tượng của tôi, người từng làm khổ tôi vì phải soạn bài “trần thuyết” (tập cho học sinh thuyết trình tác phẩm văn học) cuốn Thềm Hoang của ông trong năm lớp 6.
“Ông Khai Trí” Nguyễn Hùng Trương
Nhà văn Nhật Tiến
Sau đó, có một ông đầu hói, dáng bệ vệ trong bộ vest, da ngăm đen và có nụ cười như ông Địa bước ra. Đó chính là ông chủ nhà sách Khai Trí, tức Chủ nhiệm báo Nguyễn Hùng Trương. Một ông thứ ba là người Nhật từ Đại sứ quán Nhật Bản tại Sài Gòn.
Cả ba ông phát biểu ngắn gọn, ca ngợi môn nghệ thuật và cũng là thú vui gấp giấy này. Sau đó ông Nhật Tiến giới thiệu chương trình học trong suốt ba tuần, tuần vài buổi, giấy thì ban tổ chức lo. Ai gấp đầy đủ các mẫu hình và nộp cho thầy sẽ được cấp bằng tốt nghiệp.
Học được vài buổi thì ba thằng bạn của tôi, dù không có “mưa một ngày” nào nhưng lại bỏ tôi đi chơi đá dế tạt lon, dễ hiểu hơn là ngồi chọc ngoáy mấy tờ giấy.
Phần tôi tiếp tục ngồi học, tuần mấy lần đi ngang qua nghĩa địa Phong Thần (nay là chợ Trần Hữu Trang) là nơi yên nghỉ của bà ngoại tôi để đến Tòa soạn. Ở đó, tôi học từ các mẫu căn bản đến xếp được những con phức tạp như con cọp, con gà trống bằng hai mẩu giấy và xếp dần đến con cua, con rồng rất khó.
Thầy Nhật Tiến hiền hậu, kiên nhẫn và luôn hết lòng khi hướng dẫn học viên. Thỉnh thoảng cô Đỗ Phương Khanh cũng ra giúp thầy. Cô Phương Khanh có làn da trắng, dáng đầy đặn và sang trọng. Đám con thầy khá đông, con trai thì gầy, con gái trắng bóc và mũm mĩm. Con trai đầu của thầy, hình như tên Khiết, thỉnh thoảng ra ngồi cùng chúng tôi và xếp biểu diễn những con vật rất khó.
Ra vô tòa soạn, thỉnh thoảng tôi xem được những bức tranh bìa chuẩn bị cho số tới của họa sĩ Vi Vi, rất nổi tiếng ở miền Nam lúc đó. Có lần, tôi thấy anh bước ra, dáng cao ráo và hơi nghiêm nghị. Một anh học viên quay về lớp khoe là đã xin chữ ký của anh. Lúc khác thì thấy báo chở về tòa soạn bằng xe ba gác, xếp đều tăm tắp và mới tinh tươm. Không khí làm báo lúc đó đối với đứa con nít mười một tuổi như tôi thật lạ lẫm, hấp dẫn và gây ấn tượng đến nỗi lớn lên tôi lỡ bước theo nghề này luôn.
Kết thúc khóa học, chỉ còn mỗi mình tôi là đứa con nít duy nhất được cấp Chứng chỉ tốt nghiệp vì học đủ, nộp bài đủ. Vài học viên lớn tuổi được tặng quà vì xếp đẹp quá. Còn tôi thì thấy buồn vì hết được lui tới tòa soạn thân yêu này, và chưa có lần nào dám nói được một câu với chú Nhật Tiến hay anh Vi Vi.
Tám tháng sau thì đến 30 tháng 4 năm 1975 và tờ báo Thiếu Nhi ngưng hoạt động. Nhiều năm sau, tôi nghe nói gia đình nhà văn Nhật Tiến đã ra nước ngoài sống. Năm 1979, tôi được dự trại tổng kết hè dành cho những cá nhân ưu tú trong đợt hoạt động hè. Mỗi trại viên được một họa sĩ vẽ ký họa chân dung để triển lãm trong trại. Tôi được một họa sĩ tên Giang, tự là “Giang chảy” vẽ chân dung. Bên cạnh tôi, một đứa chưa chắc đẹp trai hơn tôi lại do chính họa sĩ Võ Hùng Kiệt tức Vi Vi vẽ. Tôi ghen tức biết chừng nào, nhất là khi nhìn lại bức chân dung một thanh niên mười tám tuổi quá đạo mạo do ông Giang Chảy thể hiện.
Cách nay vài năm, khi dọn nhà, tôi soạn lại sách vở giấy tờ và tìm được tấm chứng chỉ Tốt nghiệp rất đẹp này, dù giấy đã úa vàng qua hơn ba chục năm. Tờ chứng chỉ do họa sĩ Vi Vi trình bày, có chữ ký của ông Khai Trí và nhà văn Nhật Tiến, toàn những người tôi ngưỡng mộ.
Kể chuyện này cho chị Thư bán sách cũ trên đường Lê Văn Sỹ, chị bảo bà Đỗ Phương Khanh có về Việt Nam, tìm mua lại dăm tờ báo Thiếu Nhi ngày xưa. Tôi mang ra nhờ chị gửi tặng bà vài số. Tờ b