← Quay lại trang sách

Xóm Ngụ Cư

Xóm nhỏ nhưng đông đúc như mọi cái xóm ở Gia Định, miệt Phú Nhuận. Họ có đủ gốc gác khác nhau. Người nói giọng Nam đông nhất, sống truyền đời ở đất này cả dăm bảy thế hệ, thích lặng lẽ, ngại bon chen nhưng rất xởi lởi khi chuyện trò. Trong đó, có dăm gia đình từ đồng bằng sông Cửu Long chạy lên đây hồi chiến tranh. Họ làm lụng phu phen, chuộng nhậu ba xị đế hơn uống bia, tính thiệt thà và đàn ông thì nóng nảy, ăn nói thẳng tuột. Dăm nhà gốc ngoài Bắc, nền nếp và kín đáo. Hai nhà gốc Hoa và một nhà người Khơ-me.

Nhà tôi là một gia đình lâu đời ở đây. Má tôi kể, khi nhà ông A Xồi, gốc Quảng Đông dọn đến xóm này cách nay nửa thế kỷ, má và dì Út đang tuổi con nít chạy đến tò mò ngó vào và hoảng sợ chạy về nhà la lên “Ôi, cẳng củn, cẳng củn!” . Bà ngoại tôi hỏi ra mới biết là A Xồi có đưa bà mẹ của ông về ở chung. Đó là một phụ nữ Hoa đã già yếu, mí mắt dưới sụp xuống trơ lòng mắt trắng và ít lòng đen nên bà có cái nhìn cực kỳ mệt mỏi. Lúc nào cũng thấy bà ngồi trên ghế không đi đâu, có cơm bưng nước rót tận tay và trà Phổ Nhĩ uống trong cái bát sứ có nắp đậy. Đặc biệt, chân bà bỏ trong đôi hài vải bé xíu như của con nít. Mỗi ngày đôi hài được cởi ra để A Xồi rửa chân cho bà. Một lúc nào đó, dì và má tôi đã thấy được đôi chân bị bó lại, co rút và đầy những nếp gấp trông rất ghê sợ. Đó là tục bó chân của người Trung Hoa xa xưa mà bà là chứng tích sống. Từ đó, má và dì ít dám ngó vào căn nhà đó cho đến khi bà mất vài năm sau.

Ngày Tết là những ngày vui nhất, cho dù xóm vắng vẻ hơn. Một số gia đình thu xếp về quê. Trước đó, họ đến chúc Tết từng nhà trong xóm và nhờ ngó dùm cái nhà, hẹn sẽ cùng nhậu nhẹt sau Tết. A Xồi vốn bận bịu cả năm cho cái tiệm nước bán bánh bao, sủi cảo ở chợ La Kai thì gần Tết cũng bỏ chút thì giờ lo trang trí nhà cửa, thay liễn đối. Nhìn vào nhà ông đã thấy bàn thờ sáng choang thờ đủ các vị Thần mà ông gọi là Môn Thần, Thổ Thần, Táo Quân… với màu đỏ là chính. Bà vợ A Xồi nấu món bát trân bằng những với những cái tên kỳ lạ như tung cua , thiệt ra là nấm đông cô, phù chúc tức là tàu hũ ky, phát choi tức rong đen, xáng choi tức là rau xà lách. Ba tôi nói món nào cũng có nghĩa hết, tên của các thứ đó chính là phát tài, làm ăn tấn tới, có tiền…

Ảnh: Sam d’cruz

Trong xóm ai cũng biết A Xồi nhất định không ăn thịt vịt dịp Tết. Ông bảo không ăn được vì xui lắm, làm ăn chậm chạp cả năm như vịt vậy.

Ngôi nhà còn lại của ông già người Tiều mà hàng xóm gọi là A Căng thì khác. Vốn làm rẫy cải hồi xưa, giờ đã già yếu, vợ mất từ lâu, A Căng sống một mình với cậu con trai độc thân. Khác với ngày thường thích ăn mặn, ăn cơm với món mặn như củ cải muối, măng khô, cá khô, mắm khô, ngày Tết cả nhà ông lại làm món thịt vịt, có đem qua mời hàng xóm vài miếng trừ nhà A Xồi. Đó là những miếng vịt ram mỡ để nguội, ăn béo và mặn. Riêng với A Xồi, ông sai con trai mang qua biếu Chỉn túi, một thứ bánh chiên tròn như bánh cam của người Việt, có nhân bắp rang, thơm và béo mà tôi đã có dịp ăn. Riêng chị Neáng người Khơ me cuối xóm thì không ăn Tết Việt. Chị bảo Tết của tụi tui tới tháng Tư lận, nhưng thế nào tui với đứa con gái cũng đi chùa mùng Một Tết cho dzui.

Một bữa sáng, người ta nghe ông A Căng khóc rống lên. Anh con trai thức dậy hốt hoảng chạy tới chạy lui xem chuyện gì xảy ra. Thì ra đêm qua nhà ông bị ăn trộm đột nhập. Thật ra, không phải trộm. Một người đi nhặt ve chai nào đó thấy trong sân nhà ông, trên cái đi văng ông hay nằm chơi có một cái gối mây mà đêm qua ông quên cầm vào nên lấy đi. Ông nói: “Có khi nào ngộ rời cái gối đâu. Nó là của vợ ngộ đan cho, bằng trúc hạng nhứt. Đêm qua ngộ cảm nên vào nhà nấu thuốc uống, xong mệt quá lăn ra ngủ. Bà vợ mất rồi, ngộ còn bao nhiêu đó mà tụi nó lấy mất!”. Ông vò đầu bứt tóc khổ sở. Cả xóm lắc đầu thương ông cụ xa quê hương, luyến tiếc hoài những phong vị xưa. Ông gọi cái gối là Trúc phu nhân, gối đầu riết, nó thành bóng lưỡng.

Người ta bắt đầu râm ran chuẩn bị đi dự đám cưới của con trai A Căng và con gái bà Neáng. Ai cũng thắc mắc, vậy làm đám cưới theo phong tục của người Hoa hay Khơ me há? Đám con nít vui lắm vì sắp được xem đám cưới và vỗ tay hát bài “Cô dâu chú rể đội rế trên đầu… ”. Bà Neáng bảo: “Con trai Tiều giỏi lắm, hồi tôi ở miệt Bạc Liêu người ta chỉ thích gả con gái cho trai Tiều, họ giỏi làm ăn lại cưng vợ…” . Còn ông già A Căng thì rất vui vì bề gì cũng sẽ có cháu nội để hủ hỉ. Từ hồi xưa tới giờ, con của cha Hoa, mẹ Khơ Me đẹp có tiếng đó. Chúng sẽ có da trắng của cha và mắt to hai mí, miệng nhỏ, hàm răng trắng tinh, vóc người tròn trịa của mẹ. Ông gần như quên chuyện buồn về cái gối âm ỉ trong lòng ông mấy tháng nay.

Đó là câu chuyện cũ. Những câu chuyện lặt vặt của cái xóm nhỏ thật kỳ lạ. Tôi sống ở đó, vui với từng ngày Lễ Tết. Ngày Đoan Ngọ tháng Năm bắt thằn lằn bỏ vào thau nước có đựng lá cây, rồi nháy mặt trời. Rồi Tết Trung thu đốt đèn cầy trong lon, ăn bánh dẻo. Tết Nguyên Đán vui đậm đà. Tôi cũng buồn theo từng đám đưa ông cụ bà cụ về với đất đai hay thành tro bụi trên chùa. Cái xóm ngụ cư thân thương với những người tứ xứ đổ về, dầu cách sống khác nhau mà sao thân tình và độ lượng đến vậy!

Ảnh: Jackmalipan

Đẹp Xưa

Chiều Hăm chín ở phố Lê Công Kiều, chúng tôi nhìn ra con đường nhựa giờ đã bắt đầu loang màu tím của hoàng hôn. Sài Gòn đã vắng đi rất nhiều sau mấy đợt người về quê ăn Tết. Một bác gầy gò, năm nào cũng viết thư pháp chữ Hán ở Miếu Thành Hoàng Bổn Cảnh khu Đồng Mả Lạn ngày 23 Tết, cất giọng đọc khẽ:

Đêm khuya nơi xóm Bạch Vân

Bốn người luộc bánh chưng xuân chuyện trò

Lửa bừng lách tách reo hò

Chú miêu nằm cạnh co ro sưởi mình

Một chàng mảnh khảnh thi nhân

Một người áo vải nông dân hiền từ

Một Tráng sĩ, một Thiền sư

Vây quanh bếp lửa hồng như ráng chiều

Thuốc lào nhả khói đăm chiêu

Rung đùi sư bác lẩy Kiều ngâm nga

"Thiện căn ở tại lòng ta

Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài"…

Đoạn thơ Phạm Thiên Thư sáng tác chỉ vài chục năm trước mà nghe như rất xa xưa. Câu chuyện quanh bộ bàn ghế Louis của gia chủ bày bán trong khu chợ “đồ cũ thì nhiều, đồ cổ thì ít” trở nên râm ran vì không khí hào sảng cổ xưa gợi lên từ thơ. Cũng có thể do hiệu ứng từ chiếc đèn măng-xông của Đức cũ kỹ, vài chậu Cây Mai sứt sẹo hay chồng chén Nhật hiệu Đại Nam giờ đã thành quê mùa nhưng vẫn kiêu hãnh trong tủ, với nước men trắng tinh phủ lên lớp sứ mỏng. Sài Gòn, vùng đất luôn bị xem là mới, ký ức ba trăm năm vẫn là thiếu thâm sâu, lịch sử luôn là ngắn ngủi. Thôi thì nhấm nháp chút trà lài, nhắc nhớ nhau những cái Tết mới nửa thế kỷ thôi mà đã “khác hoắc” bây giờ.

Ông Tám nhắc về ba cái đồ sứ thời ông Diệm. Chỗ góc Đồng Khởi - Đông Du bây giờ có một chỗ bán đồ ba-da nhưng to rộng như siêu thị mang tên Departo, có bán đồ sứ Nhật mang thương hiệu Noritake. Thời đó, đồ sứ mang thương hiệu này chưa đẹp sắc sảo như hàng Noritake bán cho lính Mỹ của PX sau này. Vậy mà ông thợ may đắt khách đất Sài Gòn chỉ biết đứng nhìn ngẩn ngơ dù thèm thuồng muốn chết. Đồ trà Nhật luôn gợi nhớ dĩ vãng tươi đẹp khi gia đình chưa tan tác, còn ăn Tết vui, sum họp đầu năm uống trà Tàu.

Nhớ năm 1942, nước Phù Tang tấn công nước Trung Hoa. Người Hoa yêu nước trong Chợ Lớn thể hiện hành động bằng cách tẩy chay hàng Nhật Bổn, chủ yếu là đồ sứ. Đó là thứ đồ sứ vốn được ưa chuộng vì mỏng nhẹ, men trắng tinh lại được vẽ bằng tay rất đẹp, khác với loại đồ sứ do Công ty Đại Nam nhập về sau Thế chiến, in họa tiết, rập hiệu bằng chữ Hán. Một người Hoa ở Lái Thiêu chộp ngay cơ hội, về Chợ Lớn thầu mua hết hàng Nhật đang ế trong các kho, mang về Lái Thiêu bán. Ở đó, người Hoa xa Sài Gòn thiếu thông tin, ít hiểu thời cuộc cùng với người Việt đổ xô đi mua. Năm đó, số hàng đẹp Nhật Bổn từ bộ đồ trà, bình đựng rượu Sa kê, chậu hoa nhỏ, dĩa bàn các hiệu danh tiếng như Imari, Satsuma vẽ tay màu sắc tuyệt đẹp tụ về đây rất nhiều, tha hồ mua về bày uống trà, chưng lan ăn Tết. Chiến cuộc lan xa, nhà ông dần dà không còn gì ngoài cái ấm sứt vòi vẽ tay công bút, hình cô Nghệ giả cầm dù, xa xa là Phú Sĩ sơn.

“Hồi xưa người ta không có mua mai về chưng Tết đâu à nghen!” - Chú Lý, nhân viên ngân hàng Việt Nam Thương Tín nhớ lại. Hồi còn trẻ trung phong độ, Tết chú nhắm la - de LaRue với củ kiệu, ăn dưa giá vợ làm. Chú mê Tết đến độ luôn đặt chương trình ăn Tết trước đó hai tháng. Phải có hồng khô chưng bàn thờ dù có người chê dở, nhạt thếch. Khi ngâm nước nóng cho mềm rồi nhấm nháp miếng hồng, chú lại nhớ ba chú hồi ở Mỹ Luông mới lên Sài Gòn, thích chưng hồng ngày Tết. Rồi phải có mấy chậu cây quan trọng là Vạn thọ và Mồng gà. Mồng gà sặc sỡ, Vạn thọ thơm. Ai có cây mai trồng trước sân thì vẫn chăm sóc cho nở bông, nhưng chẳng mấy ai cắt cành chưng trong nhà. Đến khi người Pháp quay trở lại miền Nam sau khi thua trận Điện Biên, Sài Gòn phát triển việc kinh doanh, chú mới thấy người ta bắt đầu chưng mai, với mong muốn may mắn cát tường. Mấy người lính sẵn có phương tiện xe cộ và quyền di chuyển, vào tận rừng sâu miệt Hớn Quản, Lộc Ninh, Chơn Thành chặt mai rừng về, cho người nhà đem ra chợ bán. Đến giờ, nhà nào cũng chưng mai cành, hoặc thuê hay đặt chăm sóc mai ở vườn rồi bưng cả chậu đặt trong nhà. Đó là điều “khác hoắc”.

Người thứ ba góp chuyện về mấy cây mai rừng. Hồi thập niên 60, về Dĩ An có nhiều vườn mai lắm. Lúc đó anh còn là chú bé mười tuổi, về nhà ông nội có khu vườn lớn trồng mai để bán cành. Trong không khí mùa xuân mát mẻ, nắng vàng và hương thơm hoa mai, hoa Vạn thọ nhè nhẹ trong gió, chú bé ra đứng ở vườn sau, ngắm nghía từng gốc mai xù xì. Ngẫu hứng, chú bé vạch quần tè xuống đất cho thật xa và thấy sướng đến ngất ngây vì làm chuyện “tầm thường” này giữa một cảnh thiên nhiên tuyệt vời như vậy. Có vậy thôi mà đến giờ vẫn còn nhớ cảm giác đó.

Câu chuyện của anh trung niên khiến mọi người cười rộ xong lại lặng im ngẫm nghĩ. Chú Lý mơ màng nhớ hồi còn trẻ, làm ngân hàng có tiền, diện đồ chẳng khác thầy Hai trong bài tập đọc của tụi nhỏ:

Đồng hồ đã điểm tám giờ

Thầy Hai sửa soạn mặc đồ đi chơi

Bộ y phục kẻng ôi thật kẻng

Quần bi-canh ống bén như dao

Vét-tông ôm sát thân cao

Chiếc cà vạt đỏ như chào gió xuân

Giày xám mới nện rung thềm gạch

Nón lát-sê như thách không gian

Điểm thêm cái kính gọng vàng

Thầy Hai đắc chí xênh xang phố phường

Ảnh: PCL

Thời đó chẳng khác nào bây giờ, có tiền, diện kẻng là thấy vui rồi, cơ hội kiếm một cô vợ ngon lành cũng nhiều. Lúc đó, vẫn nhớ câu “trai khôn kiếm vợ chợ đông”. Chú thích diện đồ lên rồi ra chợ Bến Thành xem mấy bà mấy cô đi mua sắm Tết. Nhiều cô diện áo dài, nhưng chú lại thích cô nào diện quần Mỹ A đen. Ôi cái quần vải Mỹ A miệt Tân Châu nước bóng nhè nhẹ, đen rức, càng bận lại càng mềm. Vải nặng nên đằm, cô nào có dáng đẹp, đùi đẹp thì ôi thôi, nó thể hiện ra hết dù nhẹ nhàng kín đáo. Ống quần mềm mại, làm nổi bật bàn chân trắng lấp ló trên đôi guốc sơn màu trắng quai nhựa trong.

Ông Tám cũng có thời vui đẹp của ông. Thời mà những người gốc Bắc bạn ông còn thưa thớt ở miền Nam. Vốn là chú nhỏ học nghề may, ông giao du với họ và học được nhiều điều thú vị. Ở quê nhà Lái Thiêu, ông lân la chơi với các chú thợ người Hà Đông về Bình Dương làm nghề sơn mài, quả tráp, làm gốm… Lên Sài Gòn, ông gặp lại họ sau 1946, khi Tây trở lại ruồng bố người gốc Bắc. Họ chạy về Sài Gòn nấu phở bán và làm giày ở miệt Khánh Hội, quận 4 hay Đa Kao và mở nhiều tiệm bán vải, vàng y, giày ở đường Lê Thánh Tôn. Ở đó, người ta gọi “anh em họ Cự” vì tiệm nào cũng có chữ Cự trên bảng hiệu như Cự Phách, Cự Thành, Cự Tiên… Họ cần mẫn làm từng cái quạt giấy màu tím và dùng kim châm từng lỗ để trang trí cho đẹp, dễ bán. Rảnh còn bày ra việc sơn guốc, làm việc không ngơi tay. Họ buôn bán nhiều nhất ở đường Sabourain và Espagne, mở cửa hàng thêu, đăng ten ở phố Catinat, d’Ormay, Bonard và xa tít trên đường Chasseloup – Laubat, trước nhà “sẹc” Tây. Khoảng gần chiến tranh thế giới thứ hai, ông còn là chú nhỏ học may, chủ sai mua vải tusso tơ tằm dệt ở Nam Định may cho khách, mua ở các hiệu đường Lagrandière gần chợ Mới Bến Thành. Sau có tusso Nhật có pha sợi nhân tạo bận không mát bằng. Có khi khách thích bận sơ mi bằng vải lụa Hà Đông mát, hơi vàng ngà mua ở dãy quán trên đường Espagne, Chợ Cũ và dãy hàng bên Chợ Mới.

Tiếng nhạc của xe bán dĩa DVD ca nhạc sầm sập đến con phố yên tĩnh. Có chút trăng xanh cuối tháng gần tàn ở phía tây, lấp ló trên khoảng trời hiếm hoi của thành phố. Lời ca từ những người nghệ sĩ sống tha hương vọng lên, nghe vui mà lại buồn “Ngày 22 dọn cửa quét nhà, trưa 23 nấu xôi chè đưa ông táo, sáng 24 chôm mấy cái nhánh mai, đợi 25 bày trái cây mâm quả, đến 26 lau chùi bộ lư đồng…”

Có những ký ức giờ như đã xa và nhóm khách chiều cuối năm thấy như mấy ngày xuân đã trôi qua rồi, kể từ khi họ ngồi ôn chuyện cũ trong một góc phố, và tưởng như mình đã trở thành cũ kỹ vì chỉ nhớ những ký ức về dăm thứ di sản vật chất, nay chỉ là những dư âm không mấy ai buồn nhớ...

Ảnh: Nguyễn Đình

Một Biểu Tượng Của Sài Gòn

Tấm sơn mài cũ ở nhà anh bạn, tôi đã thấy từ nhiều năm trước. Đó là một tấm tranh nhỏ hình chữ nhật đứng, trên nền sơn then đen bóng vẽ vài cây thốt nốt bên cạnh cái cổng tam quan của Lăng Đức thượng công, mà tên thường gọi là Lăng Ông. Ở dưới bức tranh, có chừa một khoảng nhỏ. Mỗi năm, anh bạn tôi lại mua một bloc lịch dán vào chỗ đó. Bloc lịch mới trên nền tranh cũ đã bay lớp bóng. Giữa ngôi nhà mới cất sáng đẹp của anh, bức tranh này lạc lõng lắm. Anh biết vậy nên treo nó trong phòng ăn, và mỗi khi có dịp uống trà cùng, chúng tôi lại nhắc nhớ nhau những hồi ức cũ. Cùng thế hệ lớn lên trên đất Gia Định, ngoại vi Sài Gòn, chúng tôi đầy ắp kỷ niệm với khu lăng mộ rộng lớn và có khuôn viên xanh mát này.

Khác với những lăng miếu lạnh lẽo, nghiêm trang thường thấy, Lăng Ông thật gần gũi, ấm áp, nhất là trong những dịp lễ hội. Ba tôi nói, lăng miếu chỗ khác tuy cũng thờ trung thần hay danh tướng nhưng không khí rất tĩnh lặng, uy nghiêm, còn người dân Sài Gòn xem lăng thờ Đức Thượng Công này như thờ một vị thần hay thờ ông Bụt trong chùa vậy, nên vừa xa lại vừa gần gũi.

Suốt những năm làm Tổng trấn Gia Định thành thế kỷ 19, Đức ông đã biến miền Nam thành một nơi làm ăn trù phú, cuộc sống bình yên. Sau khi mất, ông được người Việt và người Tàu vùng Chợ Lớn xem như là vị thần linh hiển phù hộ cuộc sống hằng ngày và việc làm ăn. Nên ngày Tết, ngày rằm tháng bảy, người ta lũ lượt kéo đến cúng bái.

Lũ trẻ chúng tôi nhờ vậy mà có nhiều kỷ niệm vui khi được xem lễ thượng nêu ngày Tết. Đêm giao thừa phải đi xích lô xuyên qua các dãy phố khu Bà Chiểu thơm mùi nhang và xuống xe từ xa mới mong chen chân vào đám đông hái lộc, cúng bái và xin xăm. Còn mùa nghỉ hè, khoảng sân quanh lăng là công viên, nơi dạo mát, ngắm những bức tranh đắp nổi bằng sứ. Chúng tôi nhận ra những mảnh sứ của đồ Nhật hiệu Đại Nam, sứ tàu hiệu Ngoạn Ngọc ở nhà cũng có, ghép thành bức tranh phượng, rồng, lân, bát bửu... Hai nấm mộ hình mai rùa của Đức ông Lê Văn Duyệt và phu nhân giản dị gần gũi chẳng khác chi nấm mộ cổ ở quê nhà. Khu lăng do người Việt xây dựng và trùng tu từ hơn 170 năm trước, không phải do thực dân Pháp dựng nên như các kiến trúc tiêu biểu khác của vùng đất này.

Bạn tôi tiếc nuối rằng, ngày xưa cái cổng tam quan Lăng Ông là biểu tượng của đất Sài Gòn - Gia Định. Hình ảnh đó đâu cũng thấy, trên gốm Biên Hòa, tranh sơn dầu của họa sĩ trường mỹ thuật Gia Định, trên thiệp xuân, vậy mà bây giờ hầu như chỉ là hình ảnh của một thời vang bóng. Anh nói, mỗi lần ngắm tấm tranh gắn bìa lịch mới, anh lại thấy như mình còn nhỏ, luôn được má ưu tiên cho bóc tờ lịch cuối cùng của năm trong đêm giao thừa, ngay sau buổi đi xin lộc Lăng Ông.