Phụ Lục
Từ quê hương Hải Dương, năm 1927, nhà báo Thiếu Sơn Lê Sĩ Quý vào Gia Định để làm công chức Sở Bưu điện. Sau đó, ông trở thành một nhà báo, nhà văn và hoạt động chính trị tại vùng đất này cho đến cuối đời. Nhà báo Thiếu Sơn viết bài Thành phố Sài Gòn dưới đây vào năm 1943, sau 16 năm sống trên mảnh đất đô thị mới mẻ này. Bảy mươi năm đã trôi qua, nhưng khi đọc lại bài viết này, chúng ta nhận ra rằng những điều căn bản về cuộc sống ở Sài Gòn vẫn chưa thay đổi. Tác giả xin mượn bài viết này làm Lời bạt cho cuốn sách Sài Gòn - Chuyện đời của phố .
Thành Phố Sài Gòn
Ở Thổ Nhĩ Kỳ có một chuyện cổ tích tóm tắt như sau:
Một ông giáo sư một ngày nọ cho ba người học trò đi chơi ở thành Badgad. Thành Badgad thuở xưa là ở trong số những thành phố lớn nhất hoàn cầu. Ít tháng sau ba đồ đệ về, ông thầy hỏi về cách sinh hoạt ở nơi đó thì mỗi cậu đều trả lời một cách khác nhau. Cậu thứ nhất trả lời:
- Thật là điên cuồng hết chỗ nói! Họ nhảy, họ chơi thâu đêm, suốt sáng.
Cậu thứ hai nói:
- Rõ buồn hiu! Cả từ con ruồi đậu trên nhà cũng ủ rũ.
Cậu thứ ba nói:
- Khoa học, văn học, mỹ thuật, triết học nhứt nhứt đều thành đạt vô cùng. Có lẽ ở thế gian này không đâu được siêng năng như ở đó.
Ông giáo kết luận:
- Cả ba trò đều có lý cả. Mỗi trò đều thấy những cái mình tìm kiếm theo ý thích của mình.
Tôi không dám so sánh Sài Gòn với Bagdad, nhưng Sài Gòn cũng có nhiều tình trạng ta không nên chỉ chú trọng ở cái hình thức mà chẳng tìm hiểu cái đời sống tinh thần thiệt của nó.
Ăn chơi đúng thực là Sài Gòn.
Kiểu cách lố lăng là Sài Gòn.
Ở Sài Gòn, người ta trác táng một cách điên cuồng, người ta sa ngã vào những vực sâu hang thẳm.
Nhưng ở Sài Gòn người ta cũng chịu cực vì miếng ăn, chịu khổ để nuôi sống gia đình thân tộc, người ta cũng siêng năng hoạt động để nâng cao địa vị và để tô điểm cuộc đời.
Đối với khách bàng quan thì Sài Gòn náo nhiệt lắm, lộn xộn lắm, bác tạp lắm.
Nhưng Sài Gòn vẫn có những nơi thanh tịnh, những đầu óc thanh cao và những tâm hồn đẹp đẽ.
Trong bài này, tôi không cần đưa các bạn tới những nhà lộng lẫy ở Sài Gòn, những tửu quán nguy nga ở Chợ Lớn. Tôi cũng không cần đưa các bạn đến các tiệm nước, tiệm buôn, tiệm nhảy, tiệm hút, những nơi mà các bạn có thể tự mình kiếm lấy một cách rất dễ dàng.
Tôi chỉ muốn các bạn theo tôi tới một gia đình nền nếp ở những căn phố nhỏ, hay ở những tòa nhà riêng.
Ở những nơi đó người già được tôn kính, trẻ nhỏ được yêu thương, chồng lo làm ăn, vợ lo cơm nước và gia đình, hết thảy đều sống một cách đầm ấm hòa vui, không nhiễm một chút gì gọi là bụi nhơ ở nơi đô hội.
Nhưng cao hơn một tầng nữa, lại có những nhà có thêm được một cái thơ viện, một bàn piano, một phòng khách thanh lịch.
Chồng là một nhà trí thức, vợ là một khách tài hoa. Có khi chồng đọc sách, vợ ngồi nghe. Có khi vợ ngồi đàn, chồng dự thính. Nhưng thỉnh thoảng vẫn có những chúng bạn đến chơi, rồi chủ, khách quây quần ở khay trà, dĩa bánh cùng nói những chuyện văn chương hay cùng nghe những bài đàn thanh nhã.
Nhiều lần tôi có dịp để chơn đến những cuộc hội hữu này, tôi cảm thấy những người gần tôi đều là những nhơn vật khả ái, và ngoài cái trí thức và cái thông minh của họ, họ còn có những thái độ mà ở các tỉnh nhỏ ít khi thấy biểu lộ ra, tôi muốn nói họ giản dị và khiêm nhường.
Những bác sĩ, kỹ sư, trạng sư, giáo sư, hoặc những viên quan cao cấp đều là những người được xã hội kính trọng đã đành.
Nhưng ở tỉnh nhỏ vì họ ít quá nên họ dầu không muốn mà họ vẫn cứ phải cách biệt đối với những người thấp hơn họ.
Ở Sài Gòn những bức tường ngăn cách hầu như không kiên cố là bao, vì ở đây thiên hạ đông đảo, cá nhân như cảm thấy bị hút ở trong một hoàn cảnh to lớn, như cảm thấy ở đời không phải “duy ngã độc tôn” và như muốn hòa đồng với xã hội.
Chính vì những liên lạc về xã giao như thế mà Sài Gòn có được một hoàn cảnh tinh thần tốt đẹp đủ đương đầu với cái hoàn cảnh vật chất xa hoa.
Chính có nhiều nhà được người ta gọi mình là trí thức mà vẫn tự mình cho mình còn thiếu kém.
Họ thấy rằng đời học vấn chưa ngừng được ở những mảnh bằng cao đẳng. Họ còn thấy rằng những kiến văn của mình không phải chỉ là những món đồ trang sức của trí khôn.
Nhân đó mà họ hùn hiệp nhau lại để lập ra những hội học, để mở ra những tờ báo, để in ra những cuốn sách, để tổ chức những cuộc nói chuyện, và hết thảy đều là để gây nên một cái không khí tinh thần có bổ ích.
Trong những công việc làm chung lẽ tất nhiên là vẫn có những sự hơn kém về trí thức, những sự chênh lệch về tài ba. Bởi thế nên lại càng nẩy ra những ganh đua chánh đáng, những nỗ lực của những kẻ biết tự lương tự tri.
Trong khi có những thanh niên phóng đãng đã tiêu phí đời mình một cách vô ý thức thì vẫn có vô số bạn trẻ khác lui tới thơ viện một cách siêng năng, ham đọc sách, ham viết văn, chịu để linh hồn vào những vấn đề có quan hệ đến văn học và văn hóa.
Nhơn những hoạt động đó mà nảy sinh ra một hạng công chúng có ý thức, có thị hiếu để công nhận những việc làm tốt đẹp, để thưởng thức những tài ba xuất sắc. Thành ra muốn xuất đầu lộ diện, kẻ thanh niên có tài ở khắp nơi đều phải tới Sài Gòn để dự thi trước những vị giám khảo vô danh, tiêu biểu cho một cái thông minh công cộng.
Cái thông minh công cộng đó kết tụ lại bằng những phần tử bác tạp vì Sài Gòn là nơi hội hiệp của khách tứ phương. Người mỗi xứ, mỗi nước, đều có những đặc tánh riêng, nhưng về phương diện tinh thần thì người xứ nào, nước nào cũng đều có một phần trí khôn cống hiến vào cho cái trí khôn của công chúng Sài thành.
Chúng ta đã thấy những tay ký giả Pháp cộng sự và những nhà viết báo người Nam. Chúng ta còn thấy trong làng văn khăn khít những anh em Trung-Nam-Bắc. Trước đây ở Sài Gòn người ta đã chờ từng kỳ tàu một để đọc những sách vở, báo chí từ Paris gửi qua.
Đó là đời sống tinh thần của kinh thành ánh sáng truyền tới cho hòn ngọc Viễn Đông. Nhưng hòn ngọc đó vẫn không tham lam mà giữ lấy một mình. Nó thâu vào rồi nó phát ra ở những báo chí, sách vở, mà khắp nơi người ta đều thiết tha trông đợi.
Nay sự giao thông với chánh quốc tạm dừng, song những phần tử trí thức vẫn luôn luôn hoạt động để giữ cho đời sống tinh thần của thành phố Sài Gòn được đẹp đẽ thanh quang giữa cảnh tối tăm gây nên bởi thời cuộc.
Mỗi lần có dịp đi chơi xa, tôi thường hăng hái lúc ra đi, nhưng lại lật đật mong trở về để hô hấp cái không khí tinh thần của nơi thủ phủ miền Nam đất Việt.
THIẾU SƠN
Nam Kỳ tuần báo , số 77, tháng 3/1944
(Theo Phóng sự Việt Nam 1932-1945, NXB Văn Học trang 1137)