LANG THANG TRÊN THÀNH PHỐ XƯA
Ngôi nhà ở Lái Thiêu của Lý Thân lúc nào cũng đông khách. Từ sáng tới tối, khách ngủ lại hoặc ghé ăn cơm rồi đi. Có người ăn dầm nằm dề hàng tháng trời. Người trong xóm gọi ông Hai Vững, cha của Thân, là ông Mạnh Thường Quân, theo tích trong truyện Tàu. Ai cũng kính nể ông vì tính hào sảng, mà sống kiểu hào sảng như vậy thì tốn kém lắm, dù ai cũng biết ông Hai Vững là con của bang trưởng Triều Châu ở Lái Thiêu, giàu có và uy tín nhất vùng đất nhiều cây trái này.
Lý Thân không để tâm nhiều đến vị thế gia đình, chỉ biết mình có rất nhiều ông chú không phải ruột thịt, ông nào cũng thương chú bé nhỏ nhắn con chủ nhà. Thân thường được đi chơi với mấy chú, những chuyến đi để mở mắt nhìn đời. Đáng nhớ nhất vẫn là những chuyến thăm Sài Gòn.
Đó là câu chuyện trước năm 1954.
Những năm đó, Lý Thân đã lang thang bao lần ở cái thành phố phồn hoa này. Người ta nói “Sài Gòn hoa lệ”. Hoa cho người giàu và nước mắt cho người nghèo. Dù sao, Thân cùng mấy chú chỉ là khách nhàn cư vãng lai nên chẳng bận tâm chi mấy chuyện đó. Tới Sài Gòn, cậu thanh niên mới lớn choáng ngợp với cảnh nhà xe nhộn nhịp, rồi dần quen và thích cuộc sống ở đây. Sài Gòn lúc đó còn thông thoáng lắm so với bây giờ, nhưng đã quá vui với chàng nhà quê. Xe cộ qua lại như mắc cửi. Xe kéo tay có người phu đội nón lá chạy chân đất thình thịch giữa trời trưa nắng. Xe ngựa kéo, bò kéo đi lóc cóc ngoài đường phố trung tâm gần chợ Bến Thành, bên chiếc xe hơi bóng loáng của mấy ông Tây. Có loại xe ngựa chuyên chở hàng, không mui, ngoài xe ngựa chở khách thanh mảnh, dáng đẹp có mui kín mít. Có cả xe kéo tay chở hàng với thùng xe rất to, vừa có càng phía trước để kéo vừa có chỗ để mấy người phía sau đẩy đi, loại xe tải bằng sức người của mấy ông Tàu đội nón cời-lối rộng vành chóp nhọn. Có những chiếc xe đẩy bán nước ngọt đóng chai. Hai bức tượng cô đầm trước Nhà hát Tây nhìn cao ráo thanh mảnh hơn tượng phục chế hiện nay. Đàn ông lịch sự bận bộ đồ bà ba trắng may bằng lụa lèo, đầu đội mũ phớt và chân mang guốc, ít thấy người bận áo dài khăn đóng trừ chỗ đám tang. Phụ nữ thời đó hay bận áo dài đen. Nhiều người thích trùm khăn trên đầu khi trời nóng, cả nam lẫn nữ, nhất là ở ngoài chợ. Hầu như không thấy mặc quần ngắn, trừ các ông Tây với quần soọc lửng.
Một thời sầm uất của Sài Gòn đầu thập niên 1960. Cảnh bến Chương Dương trước Ngân hàng Quốc gia. Ảnh: Báo SDMN.
Xe kéo ở Sài Gòn đầu thế kỷ XX. Trích trong bộ tranh “Monographie dessinée de l’Indochine” (Chuyên khảo có minh họa về Đông Dương) do học sinh trường Mỹ thuật Gia Định thực hiện năm 1935.
Những người bán hàng rong trên đường phố Sài Gòn xưa. Ảnh: T.L.
Lý Thân thích nhìn mấy tấm biển quảng cáo to đùng mà vẽ rất sắc nét, không bị méo mó: nhiều nhất là quảng cáo La-de Larue và giày của hãng Bata. Ở bến Bình Đông, người ta chở dừa, chuối và sản vật miệt Lục Tỉnh lên Sài Gòn bán không khác gì bây giờ. Sông đã có bờ kè bằng xi măng dốc thoai thoải xuống.
Nhà hàng Givral đã mở cửa lại từ năm 1946 khi Tây trở qua. Năm 1950, ông chủ Givral cho bày thêm bàn ở ngoài hàng hiên cho khách ngồi vì không gian nhỏ xíu trong nhà hàng chỉ để được dăm bàn ăn. Một ông chú dắt Thân đến đây, nhưng chỉ dám đãi thằng cháu món yaourt là thứ rẻ nhất. Yaourt lúc đó có vị hơi lạt, chủ quán để sẵn một hũ đường, ai thích ăn ngọt thì thêm đường. Có khi ngoài vỉa hè hết chỗ, ông chú làm gan đẩy cửa bước vào trong. Ghế ngồi trong quán Givral lúc đó chỉ là ghế gỗ bình thường, không có nệm như sau này, cũng không có máy hát cho khách nghe. Đa số khách là lính Tây, vài ông bận complet trắng.
Hiệu Khinh Ký góc Hai Bà Trưng - Đông Du ngày nay, xưa kia là nơi bán đồ thực phẩm ngoại nhập nổi tiếng. Ảnh T.L.
Uống nước xong thì cả nhóm lại rong chơi tiếp. Trong nhóm của Thân có một chú rất diện, thắt cravate mặc complet nhìn như một ông chủ hãng. Ông chú này thích la cà ngó nghiêng chỗ này chỗ kia, thích vào hiệu sách Portail (hiệu sách Xuân Thu sau này), nhưng khi có ông Tây nào đến đứng gần là chú bỏ đi ngay. Thân hỏi thì chú trả lời: “Đứng gần, nó hỏi tiếng Tây mà không biết trả lời thì mắc cỡ sao mậy!”
Vô nhà sách Portail xem sách cho vui thôi chứ sách mắc lắm, không mua nổi. Thân ngạc nhiên khi thấy ở tiệm người ta bày bán nhiều ấm trà không có nắp, hỏi ra thì đó không phải ấm trà mà là... bình vôi ăn trầu. Cho đến giờ, ông già Lý Thân của sáu mươi năm sau vẫn tủm tỉm cười nhớ cái bình vôi rất bình dân được bán trong một nhà sách của Tây sang trọng như vậy. Nhưng vào Portail cũng khá thú vị khi xem những bức ký họa về Nam kỳ của ông Henry Meige, họa sĩ người Pháp. Ông vẽ những hình ảnh rất gần gũi đời thường, như một góc khách sạn Continental gần đó, người đánh giày trên đường phố Sài Gòn...
Đi dạo chợ Sài Gòn thì có thể nhận ra những tiệm của người Bắc đóng giày và tiệm vàng Nguyễn Thế Tài trên đường Lê Thánh Tôn phía sau chợ. Tiệm vàng Nguyễn Thế Tài nổi tiếng với cuộc thi thơ rất hấp dẫn mà Thân nhớ mấy câu thơ đã đọc trong báo Mới của ông Phạm Văn Tươi. Đoạn thơ kể rằng bà nhà giàu kia có cô con gái, bà muốn gả chồng cho con nhưng cô con gái kén chọn lắm, chẳng chịu ai. Ai ngờ anh chàng người hầu trong nhà khôn ngoan, sắm tặng cô mấy món nữ trang của tiệm vàng Nguyễn Thế Tài. Thế là cô ưng thuận (!) trước sự ngỡ ngàng của bà mẹ. Chuyện này được giải thích: “Là vì vàng đúng tuổi mười. Lòng cô cảm nghĩa ơn người biết bao. Tình yêu cô bỗng thấm vào…”. Bà mẹ được cô gái thưa chuyện nên tự tìm hiểu và rồi: “Bà xem vàng thấy hay hay. Nên bà đem gả nàng ngay cho chàng. Cho hay nhờ bởi có vàng. Thế Tài họ Nguyễn mà chàng được yêu”.
Mỗi bài thơ đăng trên báo Mới với nội dung ca ngợi nữ trang của nhà Nguyễn Thế Tài sẽ được trả 50 đồng. Chiêu quảng cáo này hấp dẫn dân ưa văn chương lắm và nhờ vậy vàng Nguyễn Thế Tài luôn đông khách.
Khoảng thời gian đó, có nhiều người Ấn sống ở khu trung tâm Sài Gòn gần chợ. Người Ấn gốc Bombay chuyên cho vay lấy lãi và bán vải, còn những người Hạch chuyên thức đêm làm gác cửa, gác tiệm buôn. Nhóm người Hạch gốc Hồi giáo có làn da ngăm đen giống người Ấn và làm nghề gác cửa thì rất cần mẫn. Mấy ông chú nói với Thân là họ chỉ giỏi nghề gác cửa, chuyển sang nghề khác thì dở ẹc nên mới có câu “Dở như Hạch”. Sau này, Thân biết Hạch có nghĩa là Hadj, đứng đầu tên của họ, nghĩa là “hành hương” trong tiếng Á Rập, nhắc đến mơ ước một đời là hành hương đến thánh địa Mecca. Và ai có chữ Hadj đứng trước tên nghĩa là đã đến đó rồi.
Dân Ấn góp cho ẩm thực Sài Gòn xưa mấy món ăn mà Thân không quên. Đi xuống mé Đa Kao, phía Cầu Bông gần rạp Văn Hoa Đa Kao sau này có một tiệm bán cơm cà-ri của người Ấn rất ngon. Ngay trong quán có ông Ấn khác thuê một góc bán cà phê, cơm nị, bánh cay, bánh rế. Bánh cay không phải là loại bánh bằng bột khoai mì vắt trong nắm tay, chiên trong chảo mỡ thành một loại bánh dài, nhỏ nhắn và cay như sau này. Bánh cay đây là loại hơi giống bánh xèo nhưng đổ dày hơn, to cỡ bánh patéchaud, bằng bột mì, có nhân thịt, củ hành, ớt, đậu xanh... chiên lên có vị cay và hơi chua, rất ngon nếu ăn cùng với cà-ri gà, cà-ri dê. Ông chỉ bán từ trưa đến chiều, rất đông khách. Còn cơm nị thì có trộn dầu, bơ, sữa nên ai không thích béo thì khó ăn vì ngậy. Còn nếu không thích thì đi ăn bánh cuốn có trứng vịt chiên cuộn bên trong, rất ngon và béo...
Năm nay đã hơn 80 tuổi, chàng trai Lý Thân ngày nào vẫn sống ở quê nhà Lái Thiêu, thỉnh thoảng lên Sài Gòn thăm con trai lớn sắp về hưu. Ông già Lý Thân đi đâu cũng gặp kỷ niệm. Nhớ có lần đi xe điện gần ga Arras tức đường Cống Quỳnh ngày nay, ông nhảy tàu suýt té chết. Tiệm Givral ông từng ăn yaourt nay đã không còn. Saigon Departo, nơi ông mê mẩn mấy bộ tách trà Nhật hiệu Arita cũng không còn. Xe điện không còn. Hiệu sách Portail không còn. Tiệm vàng Nguyễn Thế Tài không còn. Nhớ có lần ông nhờ đứa cháu làm nghề báo vô Chợ Lớn tìm mua cái nón cời-lối đan bằng tre, chóp nhọn vành rộng nhưng nó đi mấy ngày không tìm ra. May mà có thể thấy cái xe kéo tay trong Bảo tàng ở bến Nhà Rồng. Ông nghĩ chắc chỉ có mỗi mình và vài ông bạn già ở miệt Lái Thiêu lẩn thẩn khi nhớ về Sài Gòn qua những hình ảnh đó. Chứ người ở Sài Gòn bây giờ có khi chỉ thích xây nhà cao có kính bóng loáng để bán thật nhiều hàng, cho thuê nhiều tầng mà thôi.
CATINAT – PHIÊN Y – TỰ DO… DĂM HỒI ỨCĐường Tự Do, xưa gọi là Catinat, nay có tên là Đồng Khởi. Nhưng có lẽ không mấy ai biết người Hoa trong Chợ Lớn từng gọi đường này là đường Phiên Y, vì từ cuối thế kỷ 19 ở đây đã có nhiều cửa hiệu quần áo của người phương Tây (Phiên: cách người Hoa gọi người phương Tây. Y: quần áo). Con đường này, từ khi còn mang tên Catinat đã là nơi cạnh tranh mãnh liệt trong thương trường của người Pháp, người Hoa và người Việt, nhất là người gốc Bắc.
Theo cuốn Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào Nam kỳ của nhà báo Đào Trinh Nhất, cho đến thập niên 1920 dân Sài Gòn xưa vẫn quen dùng hàng Tàu và của châu Âu nhập qua. Lúc đó, người miền Bắc đã tìm mọi cách đem hàng thủ công nghệ xứ Bắc vào Nam và đường Catinat chính là chọn lựa số một. Trước đó người Nam không thèm ngó tới the lượt của Bắc kỳ, nhưng từ khi có phong trào tẩy chay hàng người Hoa sản xuất thì người trong Nam đã ưa dùng đồ Bắc. Đó là chưa kể đồ đắt tiền như khảm xà cừ, đồ gụ... thường bán cho Tây ở ngoài Bắc nhưng vào Nam bán rất chạy do người Nam có “đức xài tiền”, hàng quý mấy mà thích cũng dám mua. Chính vì vậy, các mặt hàng từ các nguồn khác đã bị cạnh tranh và ảnh hưởng doanh thu. Trước kia dân Sài Gòn dùng vải mùi xám của Hoa kiều dệt tại chỗ, nhưng khi người Bắc vào mang theo vải ta và hàng tơ lụa thì họ dùng luôn. Hoặc trước kia người Nam dùng ghế mây gọi là ghế Tô-nê thì sau đó dùng ghế Bắc. Trước kia dùng giày cườm thì sau đó dùng giày Hạ. Tuy nhiên, tác giả phàn nàn là tại sao chỉ thích thuê mướn ở đường Catinat giá tới 100 đồng, có khi lên tới 200 đồng, để rồi vì tranh nhau mà đẩy giá lên cao. Ông khẳng định: “Nào có nghĩ đâu rằng: hàng Bắc muốn cho ai nấy đều biết đều chuộng, chẳng cần gì lấy phố Catinat làm chỗ chiêu hàng mới được, mà chỉ nên chiêu hàng ở chỗ buôn bán thật thà, hàng hóa tốt và rẻ mà thôi, thì trong thành phố Sài Gòn, không thiếu gì chỗ cũng tốt và rẻ tiền hơn: như những phố Charner (Nguyễn Huệ), Pellerin (Pasteur), d' Espagne (Lê Thánh Tôn) và Amiral Courbet (Nguyễn An Ninh) v.v…”.
Câu chuyện trên giúp ta thấy phần nào không khí buôn bán của người Việt mà con đường Catinat đã chứng kiến dưới những tán cây của mình. Tuy nhiên, đó là câu chuyện thập niên 1920. Từ thập niên 1940 về sau, người Việt đã đứng chân nhiều cửa hàng ở đường Catinat, trước khi người Pháp rút về nước năm 1954. Có nhiều tiệm may, tiệm bán vải, tiệm chụp ảnh trên con đường này và trên các nhánh đường gần đó như d’ Ormay (Nguyễn Văn Thinh, nay là Mạc Thị Bưởi), Amiral Dupré (Thái Lập Thành, nay là Đông Du)... hầu hết của người gốc Bắc. Người gốc Hoa vẫn chiếm nhiều vị trí cửa hàng tạp hóa trên đường d’ Ormay.
Anh Tấn Thành, một thầy giáo sống từ nhỏ trên con đường Amiral Dupré, nay là Đông Du kể: “Khi tôi sinh ra năm 1962, đường Catinat đã đổi tên thành đường Tự Do. Đó là một con đường có thể là lộng lẫy nhất Sài Gòn dù không lớn như đường Thống Nhất (nay là Lê Duẩn), hay Nguyễn Huệ. Nhưng ở đó có những cửa hiệu đẹp nhất, dùng kính bóng loáng, ốp đá sang trọng...”.
Anh Thành kể suốt những năm tuổi nhỏ, anh gắn bó với con đường này bằng những kỷ niệm riêng tư. Đó là những buổi đi bơi ở hồ tắm Tự Do phía bến Bạch Đằng, gần quán cơm nổi tiếng Bà Cả Đọi. Cái hồ đó lát gạch men trắng, sâu tới ba mét, nay đã không còn. Từ đường Tự Do, có con hẻm sát bên cửa hàng Thành Lễ bán đồ mỹ nghệ đi băng ra đường Nguyễn Huệ. Trong hẻm có rạp hát nhỏ gọi là rạp Catinat, có chỗ bán bún thịt nướng, hột vịt lộn, rất thu hút các nữ sinh. Đám con nít thích ra Trung tâm thương mại Saigon Departo, góc Tự Do và Thái Lập Thành. Đây là tiệm bách hóa có thể nói là đẹp nhứt Sài Gòn thời đó, bán hàng mỹ nghệ Việt Nam, hàng nhập cảng từ Nhật. Đồ đạc trong đó có nhiều thứ hấp dẫn, cuốn hút với lũ nhỏ, nhất là có tủ bán kẹo tự động. Bỏ đồng xu vào là có thể mua kẹo, đồ chơi. Kế bên Saigon Departo là tiệm Cafeteria, loại quán giải khát tự phục vụ còn rất lạ lúc đó. Ở đó có máy nghe nhạc tự động, muốn nghe thì nhét đồng xu vào khe, máy sẽ chớp đèn nhấp nháy để báo hiệu chọn bản nhạc. Kế bên là mấy tiệm bán vải Tô Châu, Hàng Phong và Tân Cương. Kế nữa là photo Long Biên, tiệm ảnh rất nổi tiếng. Công viên Chi Lăng bọn trẻ thích ra đá banh, gọi là “Vườn bông cao”. Họa sĩ Bé Ký lang thang trên con đường này bán tranh, nhiều lần bị cảnh sát đuổi khi bày tranh trên vỉa hè Thái Lập Thành và nhiều lần gia đình anh Thành chứa giúp tranh, thậm chí còn mua cho cô hai bức.
Họa sĩ Bé Ký bán tranh dạo trên đường Tự Do (Đồng Khởi) trước 1975. Ảnh: Mạnh Đan, báo SDMN số 4 (10) loại II.
Bây giờ khi viết về đường Tự Do ngày xưa, người ta nhắc nhiều về hai quán Givral hay Brodard cùng với quán La Pagode, góc đường Lê Thánh Tôn – Tự Do, những cái quán nay đã không còn. Tuy nhiên đối với người dân khu này, đó là những quán dành cho khách vãng lai. Chị Dung, con dâu của nhà may nổi tiếng Phúc Lợi ở đường Pasteur, chị đầu của anh Thành kể rằng chị và bạn cùng lứa chưa từng vào các quán đó mãi cho đến sau này, chỉ vì nghĩ rằng không phải dành cho mình.
Anh Thành kể: Tiệm Brodard dành cho giới nghệ sĩ, con nhà khá giả. Phía ngoài, chủ quán đặt tủ kem bán loại kem ba màu rất ngon hương vị châu Âu, có kem vanilla, chocolate. Giá kem này khá mắc và chú bé Thành phải để dành tiền quà sáng nhiều ngày mới đủ mua một gói kem 100 đồng. Nếu không thì ăn kem ở tiệm Givral, cũng bán ở tủ bày phía ngoài, dạng kem cornet có bánh hình chóp nhọn, hoặc có loại bánh hình nắp hộp tròn, úp lại chứa kem bên trong. Cảm giác đi dọc vỉa hè thưởng thức hương vị bánh xốp thơm và kem lạnh béo tuyệt vời còn đọng trong trí nhớ của anh.
Cuộc sống đường Tự Do đậm dấu ấn Hoa kiều, nhất là trên đường Nguyễn Văn Thinh (Mạc Thị Bưởi) thẳng góc với Tự Do. Thỉnh thoảng trên lề đường thấy một ông Tàu đội nón cời-lối, xách thùng sắt tây có sợi dây móc trên vai, bán bò bía ngọt. Trên đường này còn có một bà xẩm chủ tiệm bán giấm hay ăn gian, thường pha nước vào giấm nên mẹ Thành luôn dặn người nhà khi đi mua nhớ nhắc bà xẩm lắc cái hũ trước khi rót để phần giấm chảy xuống nhiều hơn. Giữa đường Nguyễn Văn Thinh có tiệm nước nổi tiếng Nam Quang cũng của người Hoa. Dân quanh vùng thích đến đó uống cà phê, ăn hủ tíu bò viên. Ai có bệnh thì mua thuốc bắc ở tiệm Tồn Tâm Tế gần đó. Cà phê ở tiệm Nam Quang được đổ vô dĩa để húp khi còn nóng. Do quen giao dịch với Tây, ba của Thành chỉ uống cà phê rót ra ly thủy tinh, còn chú bé Thành ăn bánh hạnh nhân. Trong tiệm còn đặt một xe bán bò viên của người Tàu, bánh croissant có nhân hột gà bên trong. Xe mì góc Nguyễn Văn Thinh – Hai Bà Trưng có những hình vẽ tranh kiếng tích tuồng Tam quốc, Thủy hử có từ nửa thế kỷ trước cho đến giờ vẫn tồn tại. Có lần, Thành thấy giáo sư âm nhạc T.V.K đến đó ăn, mang theo một chai đựng mù tạt vàng để dùng với mì, có lẽ ông nhớ kiểu ăn mì hồi xưa. Đường Tôn Thất Thiệp vẫn còn tiệm hủ tíu Thanh Xuân rất hẹp với bề ngang hai mét, tấm bảng hiệu cũ kỹ vẫn còn qua nửa thế kỷ. Đường Nguyễn Văn Thinh còn có tiệm Peacock (con công) bán đồ “lâm vố” (rabiot) ăn rất ngon, không phải đồ ăn thừa của khách, mà là thức ăn trong bếp còn dư, bán rẻ trong ngày, bỏ hộp đàng hoàng. Ngon nhất là bò lúc lắc và món cơm giống cơm chiên Dương Châu nhưng có vị bơ.
Mùa hè năm nay, tôi và anh Thành, những cư dân cũ của Sài Gòn, đi lại trên con đường Tự Do, đã là đường Đồng Khởi gần 40 năm nay. Vẫn còn là con đường sang trọng, gợi cảm, vẫn xứng đáng được ca ngợi như trong cuốn sách năm xưa: “…Với những tầng nhà cao chót vót của một thành phố tân tiến, những cửa hàng mỹ thuật, những lớp người trẻ tuổi tấp nập đi lại, con đường chan chứa cái tưng bừng và náo nhiệt của một dân tộc tiến bộ…” (Lịch tài liệu 1959). Niềm tự hào ấy tồn tại cho đến giờ. Người đi cùng miên man kể: “Có những buổi đi dạy qua đường này buổi chiều, tôi nhớ những chiều năm 1972 lúc lên mười. Khi sắp đến giờ cơm, tôi nắm tay bà vú nuôi tên là bà Ba Bàng, một người phụ nữ nhà quê xứ Bắc theo mẹ tôi vào Nam hồi còn trẻ. Bà không có gia đình, chăm sóc chín anh chị em tôi với một tình thương giản dị, chân chất. Những buổi chiều đó, bà dẫn tôi ra depot nước đá của một bà người Tàu tên là bà Nhì trên góc đường Phan Văn Đạt – Nguyễn Văn Thinh để đổi vài chai nước ngọt và bia cho bố tôi. Lần nào cũng vậy, sau khi lấy đủ các món, bà lẳng lặng lấy ly rượu trắng nhỏ do bà Nhì rót sẵn, đưa lên miệng uống một hơi, xong lau miệng và ra về. Tôi lủi thủi đi theo bà, luôn thắc mắc vì sao bà thích uống thứ nước cay xè ấy. Bà dặn tôi giấu chuyện này với cả nhà, vẫn uống chút rượu mỗi ngày cho đến ngày già yếu, xin vào chùa tu và mất. Sau này lớn lên, tôi lờ mờ hiểu rằng đó là niềm vui riêng tư và có thể là duy nhất của bà, giữa chốn phồn hoa đô hội mà bà đang sống. Cả hai hoàn toàn không ăn nhập với nhau. Bà luôn nhớ xứ Bắc của bà và hoàn toàn thờ ơ với cảnh náo nhiệt sang trọng chung quanh”.
Cửa hàng bán sản phẩm mỹ nghệ của hãng Thành Lễ trên đường Tự Do (Đồng Khởi) trước 1975 được ưa chuộng bởi khách ngoại quốc và giới thượng lưu Sài Gòn.
Ảnh: Phùng Trực trên báo TGTD loại V số II -1963.
Nhà cửa khu trung tâm Sài Gòn năm 1967 còn nhiều nhà mái ngói nhấp nhô. Bức ảnh này chụp trên sân thượng một ngôi nhà đường Thái Lập Thành (Đông Du) với hậu cảnh là nóc nhà Tiểu thủ công nghệ, nay là khách sạn Sheraton. Tư liệu: Lương Tấn Thành.
Góc đường Nguyễn Văn Thinh - Tự Do (Mạc Thị Bưởi - Đồng Khởi) năm 1962. Ảnh: Jeff Kaufman.
Quảng cáo của các cửa hàng trên đường Catinat đăng trên báo Xuân Tự Do và Tiếng Chuông Xuân Tân Mão 1951.
Hình như phía sau vẻ đẹp của một con đường phồn hoa luôn có những nỗi buồn, những mảnh đời không vui. Tôi nhớ giọng hát cũ của nhạc sĩ Trần Văn Trạch: “Trời khuya vui bước trên đường Catinat/ Người đi còn năm ba khách không nhà/ Ngàn mây sao chiếu trên trời đầy mơ/ Hàng cây lặng im nghe gió dưới trăng mờ. Còn kia vài ba búp bê đang nhìn/ Ngồi im và vương mắt trông ra mơ hồ/ Tình duyên say đắm trên lầu đèn che/ Tỉnh mê còn ai đang đứng bên lề…”. Con đường này tôi đã đi qua nhiều lần, từ lần duy nhất hồi nhỏ được vào Brodard cùng ông anh cả đến bao lần lang thang đi ăn uống, mua sách, xem tranh sau này, khi Givral và Brodard chưa đóng cửa. Nhưng tôi cảm thấy mình chưa bao giờ thuộc về con đường này. Có lẽ nó không thuộc về ai cả, bởi con đường huyền thoại này đã dan díu với bao tâm hồn tha hương từ bốn phương trời, hơn một trăm năm nay rồi.
Góc đường Tự Do (Đồng Khởi) - Nguyễn Thiệp năm 1969. Ảnh: Nguyễn Gia Liên.
NHỚ VỀ SAIGON DEPARTOTrên báo Xuân Chính Luận năm 1969, bài phóng sự của H. Thủy Ba bộ mặt của Tết Sài Gòn có nêu: “Đi đến đường Tự Do mà không ghé Saigon Departo thật là một thiếu sót. Trong dịp Tết đến, Saigon Departo được huy động toàn lực để… vét túi khách hàng giàu sang. Dân nghèo mà vô đây thì đúng là cảnh chim chích lạc vào rừng. Các món nữ trang, mỹ phẩm đến các đồ tiểu thủ công nghệ chẳng hạn như đèn trang hoàng, giá cũng phải ba bốn chục ngàn một món. Dân nghèo sức mấy mà sờ vào đó. …Ít người tay xách nách mang vì có xe hơi bên cạnh, mua gì là họ gọi tài xế tống ngay lên đó chở về nhà…”.
Sài Gòn thời đó, ai mà không biết Saigon Departo là bị chê “quê một cục”. Nhiều người, nhất là giới phụ nữ, cố gắng đến ít nhất một lần cho biết, nhân tiện ghé cửa hàng thực phẩm Pháp gần đó mua bơ Bretel hay cá mòi Sumaco, nước tương Maggi ăn với bánh mì cho bữa điểm tâm.
Sự hiện diện của loại hình Trung tâm bách hóa tổng hợp ở Việt Nam có bề dày không lâu và do người Pháp lập nên. Nổi tiếng nhất miền Bắc là Gô-đa (tiếng Pháp là Godard) sang trọng bậc nhất thời Pháp thuộc, nay là Tràng Tiền Plaza. Còn ở miền Nam, đó là thương xá Tax. Tòa nhà bách hóa tổng hợp này có lịch sử lâu đời, được khởi xây từ những năm 80 của thế kỷ 19, lúc đầu mang tên Les Grands Magazins Charner (GMC). Khi cuốn sách này ra đời, người Sài Gòn vẫn còn băn khoăn tự hỏi phương án xử lý đã công bố có thật sự lưu giữ được giá trị lịch sử và kiến trúc của nó hay không?
Năm 1967, song song với việc thành lập siêu thị đầu tiên ở miền Nam và chắc là của cả nước, một trung tâm bách hóa tổng hợp đã được mở ra ở Sài Gòn, cạnh tranh thu hút khách với thương xá Tax. Điều cần lưu ý là trung tâm buôn bán này được vận hành khá bài bản, hiện đại không khác mấy so với các trung tâm thương mại hiện nay. Đó là Saigon Departo, thiết lập tại đường Tự Do, quận Nhứt (nay là đường Đồng Khởi), trực thuộc Sài Gòn đại bách hóa thương xã.
Departo là từ do người Nhật dùng để gọi Department store của Mỹ, Anh. Saigon Departo mượn cái tên này nói lên tính chất và quy mô của trung tâm. Như tất cả các trung tâm bách hóa, người dân đến đây có thể mua đủ loại vật dụng cho gia đình, đồ dùng hàng ngày, dụng cụ bếp, văn phòng, vải vóc quần áo, đồ dùng du lịch v.v… mà không phải đi đâu xa.
Sau khi xuất hiện không lâu, cái tên Departo ở Sài Gòn đã mang ý nghĩa thời thượng thu hút khách hàng do bán nhiều đồ cao cấp, và có cách bài trí hàng hóa tiện lợi và đẹp mắt, phong cách phục vụ mới mẻ, như một làn gió mới thổi vào đời sống của người Sài Gòn thập niên 1960.
Việc đào tạo nhân viên ở đây tiến hành khá bài bản trong điều kiện đang có chiến tranh là điều ít ai ngờ tới. Trước khi chính thức mở cửa vào ngày 16 tháng 7 năm 1967, Ban giám đốc trung tâm này dành hơn nửa năm sang Nhật Bản, Hồng Kông và vài quốc gia châu Âu để nghiên cứu thị trường, sản phẩm và học hỏi kinh nghiệm. Việc tuyển chọn nhân viên được tiến hành từ cuối năm 1966. Hơn 60 thiếu nữ bán hàng được tuyển dụng đều có trình độ trung học, học thức khá và nói được tiếng Anh, Pháp. Họ được ông Trần Thiện Ân, người của Bộ Kinh tế chính quyền Sài Gòn đào tạo trực tiếp. Ông Ân tốt nghiệp chuyên ngành Department store tại Mỹ, từng thực tập tại trung tâm bách hóa R.H. Macy ở New York bốn năm nên có nhiều kinh nghiệm. Ông huấn luyện nhân viên từ lý thuyết đến thực hành về cách giao dịch và cử chỉ niềm nở với khách, cách bán hàng, gói hàng, giới thiệu hàng.
Tuy chỉ có hai tầng, trệt và lầu, chiếm 1.500 mét vuông, trung tâm có đủ các khu vực bán hàng: khu vật dụng trong nhà, khu mỹ phẩm và đồ mỹ nghệ, thực phẩm công nghiệp như đồ hộp. Trên lầu bán vải vóc, quần áo trẻ em may sẵn, máy thu thanh, máy vô tuyến truyền hình, đồ điện. Tầng này có khu giải trí cho trẻ em và khu giải khát có máy phát phim ca nhạc sử dụng đồng jeton bỏ vào lỗ để chọn phim. Hàng hóa ở đây chiếm tới 70% hàng nước ngoài và có 30% hàng trong nước. Với cơ cấu hàng hóa đó, khách mua hàng là giới khá giả ở Sài Gòn và người nước ngoài. Các dịp lễ Tết, cửa hàng rất đông khách.
Cùng với siêu thị Nguyễn Du và thương xá Tax, Saigon Departo tạo nên bộ mặt thương nghiệp hiện đại của Sài Gòn cách nay gần nửa thế kỷ, sớm thúc đẩy nền thương nghiệp mang tính cạnh tranh của người Sài Gòn và giúp dân chúng quen với mô hình buôn bán hiện đại, tiện dụng của thế giới trong điều kiện chiến tranh, không dễ gì ra nước ngoài du lịch tìm hiểu cuộc sống quốc tế.
Saigon Departo là dãy nhà phía bên trái, góc ngã tư Tự Do - Thái Lập Thành ( nay là Đồng Khởi - Đông Du). Ảnh T.L.
Khu bán đồ gia dụng và khu giải trí cho thiếu nhi ở lầu 2.
Khu bán đồ chơi và búp bê.
Khu bán đồ gốm sứ, sơn mài và quạt điện.
Ảnh trang 42-43: báo TGTD tập XVII số 1.