HOÀI VỌNG TÂN ĐỊNH – ĐA KAO
Chỉ cách nhau một chiếc cầu thôi, Phú Nhuận của tôi lúc nào cũng là khu đô thị hiền hòa, an phận so với vùng Tân Định – Đa Kao phồn hoa. Đi quá cầu Kiệu, khu Tân Định như mở ra một thế giới khác của Sài Gòn. Con đường Trần Quang Khải bắt đầu không gian đó, với cây cao bóng cả sang trọng như ấp ủ một thời Sài Gòn xưa cũ đầu thế kỷ, năm nào vào đầu mùa gió chướng cũng đổ lá và mùa hè lại trút những cánh hoa dầu xoay lên đầu khách qua đường và trên những mái ngói của đình Nam Chơn.
Ông anh cả của tôi học trường Văn Lang ở đầu đường Trần Quang Khải vẫn nhắc tới giáo sư – nhà thơ Vũ Hoàng Chương ròm tom, đi dạy học trên chiếc xích lô đạp đầu những năm 1960. Nhà thơ Nguyên Sa Trần Bích Lan, nhạc sĩ Phạm Mạnh Cương cũng dạy ở trường này. Lớp có tới hơn 90 học sinh, ngồi chen chúc như cá mòi hộp.
Anh nhớ đầu tháng 11 năm 1963, sau ngày ông Diệm bị lật đổ, trước trường giăng một biểu ngữ lớn có những câu thơ của thầy Vũ Hoàng Chương: “Bao chiến công từ xưa tới nay/ Sáng lên vì bởi chiến công này/ Lòng dân họng súng mười phương lửa/ Trở lực nào cũng phải bó tay/ Giữa cơn chiến thắng nồng say/ Cùng hô: nước Việt đến ngày vinh quang/ Nam nữ sinh trường Văn Lang/ Mượn lời thi sĩ Vũ Hoàng kính dâng…”
Gần chục năm sau thời đi học, anh chở tôi bằng chiếc Honda Dame mới toanh vừa mua được nhờ đồng lương giáo chức, hãnh diện chạy qua khu Tân Định, chỉ ngôi trường cũ và chở tôi đến Yiễm Yiễm thư quán của một ông thầy khác – nhà thơ Đông Hồ. Ở đó, anh mua cuốn sách Tục ngữ phong dao bìa màu nâu của Nguyễn Văn Ngọc và từ đó, nó trở thành cuốn sách mà tôi mê mải đọc đi đọc lại suốt thời thơ ấu cho đến khi bị thất lạc. Yiễm Yiễm thư quán nhỏ thôi, nằm trên con đường nhỏ Trần Văn Thạch, nay là Nguyễn Hữu Cầu. Đến thư quán, anh tôi ngó nghiêng vào nhà trong nhưng không thấy ông thầy nhà thơ của mình đâu cả. Anh bảo ở giảng đường Văn khoa, thầy giảng bài rất say sưa, thích bận áo dài thâm. Ở nhà, thầy thích chưng hoa cúc hay phong lan, viết câu đối, xông trầm thơm ngát, nhất là khi Tết đến. Quý mến thầy, anh sửng sốt khi nghe tin ông bị đứt mạch máu chết trên giảng đường Văn khoa lúc giảng bài thơ Trưng Nữ Vương của Ngân Giang. Lúc đó, anh đang dạy học tuốt trên biên giới Việt – Miên và chỉ biết thương vọng từ xa. Yiễm Yiễm thư quán, khoảng giữa thập niên 1980 khi có dịp đi ngang đó, tôi vẫn thấy còn tấm bảng hiệu trên cao, cửa nhà đóng im ỉm.
Ông Dương Hữu Đạt tuy sống trên đường Trần Quý Khoách nhưng lại cảm thấy gắn bó với khu Đa Kao, nơi ông sống từ hồi nhỏ trên con đường Albert Premier, nay là Đinh Tiên Hoàng, đoạn quận I. Ông cho rằng người Sài Gòn thời đó sống chân chất, hiền lành hơn, mâu thuẫn giữa người Việt và Pháp cũng không gay gắt. Ông nhớ những người dân nghèo từ lục tỉnh lên sống lang thang trên đường phố khu Đa Kao, đánh giày hay bán sách dạo in bằng tiếng Pháp cho những bà đầm, anh lính hay viên công chức người Pháp. Họ kiếm sống từng bữa, ăn cơm hàng cháo chợ tằn tiện và không tham lam. Nhiều lần ông thấy những người lính Tây say rượu nằm lăn ra trên đường ngủ, bỏ mặc xe đạp chỏng chơ bên lề đường. Mấy người đánh giày hay bán sách dạo dựng xe của họ lên, đạp mấy vòng phố xá chơi cho biết rồi đem đặt trở lại bên ông Tây say mèm. Những người đạp xích lô đầu những năm 1950 hay đậu xe bên lề đường này chờ khách. Họ thích uống cà phê bít tất, còn gọi là cà phê vợt hay cà phê kho, đổ ra dĩa cho mau nguội, uống nhanh để còn lo chạy mối. Trong khi chờ khách, họ nằm khểnh đọc báo Sài Gòn Mới của bà Bút Trà, mải mê đọc truyện của các ông Thiếu Lăng Quân, Phi Long… Ông Đạt nghe mấy bà đầm Pháp kháo nhau rằng thật đáng ngạc nhiên khi dân lao động nghèo trên phố Sài Gòn rất thích đọc báo và có khi đọc sách nữa, điều không thấy có ở tầng lớp dân nghèo kiếm sống lề đường bên Pháp.
Khoảng thời gian đầu thập niên 1950, khu Đa Kao xôn xao vì một vụ tự tử thương tâm. Người chết là một bà xẩm - tên thường gọi phụ nữ người Hoa. Bà thuộc nhóm phụ nữ Hoa giúp việc nhà rất được người Pháp tin cậy, trả lương cao, cho phép đánh đòn con nít Tây mà họ trông nom, cho ăn, đưa đi học mỗi ngày. Bù lại, họ trung thành với chủ, sạch sẽ, nấu ăn ngon, dạy dỗ và thương yêu đám con nít. Người phụ nữ bất hạnh trong câu chuyện này làm việc nhà không có gì sai sót trong mắt ông chủ giàu có người Pháp, chủ hãng xe Rồng Xanh (Dragon Vert). Tuy nhiên, một ngày kia ông phát hiện bị mất một số tiền lớn và bà xẩm bị nghi ngờ. Không biện minh được, bà xẩm thắt cổ tự tử để chứng minh sự trong sạch của mình.
Người dân ở đây sống lâu với người Pháp nên hiểu họ khá rõ. Với tâm trạng tha hương, những anh lính hay giới công chức Pháp thích hưởng thụ xả láng cuộc sống vui chơi ở thuộc địa, nhiều người chìm đắm trong men rượu hòng quên đi nỗi nhớ quê hương và những nỗi căng thẳng khác. Đồng lương của họ được xài phung phí, chỉ sau vài ngày lãnh lương là gần cạn. Thỉnh thoảng lại có những trận đánh nhau giữa phu xích lô, thợ đánh giày với những người Pháp say rượu trước mấy cái nhà hàng khúc đường trước rạp hát Casino.
Sau khi tin tức về trận Điện Biên Phủ lan về Sài Gòn, người Pháp khu Đa Kao buồn và thu mình lại khiến người dân chung quanh không dám giao thiệp với họ. Ở gần nhà ông Đạt có anh lính Pháp thỉnh thoảng kêu một anh chàng bán sách dạo có biệt tài thổi kèn bằng cọng lá đu đủ, thổi cho hắn nghe bài La Marseillaise , để rồi hắn lẩm bẩm hát theo:
Tòa building trên đường Phùng Khắc Khoan, khu Tân Định được báo Sáng Dội Miền Nam đánh giá là lộng lẫy, được xây đầu thập niên 1960. Ảnh: Báo SDMN loại 3 số 3 (21) tháng 3/1961.
Ngày rằm trong chùa Ngọc Hoàng. Ảnh: Nguyễn Đình.
Allons enfants de la Patrie,
Le jour de gloire est arrivé!
Contre nous de la tyrannie,
L’étendard sanglant est levé...
(Tạm dịch:
Hãy tiến lên những người con Tổ quốc
Ngày vinh quang đã đến rồi!
Chúng ta hãy chống lại sự áp bức
Ngọn cờ nhuốm máu đã giương lên
Theo Wikipedia)
Có lúc người thổi kèn lá thổi sai nhạc, anh lính này bực bội càu nhàu. Tuy vậy, lần nào anh lính cũng cho tiền người thổi kèn lá. Và chỉ yêu cầu thổi cho anh ta nghe mỗi bài La Marseillaise , quốc thiều Pháp.
Mùa hè 1975, tôi lang thang ra lề đường Trần Quang Khải để mua sách. Trên lề đường, những người bán bày mớ sách tuồn ra từ các nhà cho thuê truyện bị đóng cửa. Cuốn nào cũng được đóng kẽm sát gáy, bọc ny lon, bên trong chi chít những dòng ghi vội ngày cho thuê mới nhất bằng bút nguyên tử (tức là bút bi theo cách gọi sau này). Tôi thấy có tên Nhà sách Toàn Hiệp, Tân Dân ở gần nhà tôi trên bìa mấy cuốn sách quen thuộc với tôi như Đêm dài một đời, Thềm hoang, Phượng… Xen giữa mớ sách bán rẻ là vài cái hộp gỗ, bức tranh nhỏ đề tên Xưởng mỹ nghệ Thành Lễ, Công ty mỹ nghệ Mê Linh giá khá cao.
Có dạo tôi thường ghé nhà một anh chuyên rửa ảnh đen trắng thủ công trên con đường này. Trong lúc chờ đợi in tráng ảnh trong buồng tối, tôi đi bộ quanh khu Tân Định, hỏi dò vài người sống quanh đó về một quán cà phê mở sau 1975 của đôi vợ chồng nghệ sĩ Từ Dung – Từ Công Phụng mang tên ”Từ Dung”, có chiếc piano trắng nhưng không ai biết quán đã từng đặt ở đâu. Tôi đi ngó đồ bán "xôn" trên lề đường, đi tràn sang phía bên khu xóm Vạn Chài và dọc đường thơ thẩn, tôi phát hiện có quá nhiều cái đình chỉ trong một khoảnh đất không lớn. Đình Nam Chơn, rồi đình Phú Hòa từng là nơi có quán cà phê của nghệ sĩ nổi tiếng Bảy Nhiêu, thân phụ của các nghệ sĩ Kim Cúc, Kim Lan. Đình Sơn Trà trên đường Nguyễn Phi Khanh. Trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm là đình Tân An. Đình Nghĩa Hòa cũng trên đường Trần Quang Khải. Sau này đọc sách của tác giả Phụng Nghi mới biết xóm Vạn Chài (một cái tên hình dung về một làng ven biển chuyên đánh cá) ở vùng Đa Kao này là xóm của những người dân chài từ miền Nam Trung bộ di dân vào. Khi đã ổn định, họ lập ra tới bảy ngôi đình để tiếp tục thờ Thành hoàng của làng đánh cá ở quê cũ, mà họ gọi là Vạn.
Họa sĩ Nhan Chí vẽ tranh chân dung bằng phấn tiên trong căn nhà trên đường Huỳnh Tịnh Của, khu Đa Kao.
Đôi song ca Từ Dung - Từ Công Phụng nổi tiếng từ thập niên 1970. Rất ít thấy hình ảnh của Từ Dung trừ tấm ảnh cô đeo kính râm che đôi mắt. Họ gắn bó một thời với đường Trần Quang Khải khi mở quán cà phê nhỏ trên con đường này. Ảnh: báo Điện Tín Xuân 1973.
Khu Tân Định – Đa Kao thú vị vì có rất nhiều con đường nhỏ nhưng sầm uất từ thời Tây, hàng quán quá nhiều, người tài cũng lắm. Bác Hai, chủ tiệm rửa ảnh kể tôi nghe về những hàng quán ngon lành mà giới công chức cao cấp thời trước 1975 thích ghé như nhà hàng Casino Đa Kao, có món độc đáo nhất là món tôm hùm đút lò. Nhà hàng cơm Tây La Cigale (Con ve sầu) trên đường Đinh Tiên Hoàng và Phan Đình Phùng (Nguyễn Đình Chiểu) có món tôm cua ốc ăn với thứ nước chấm ngon. Anh con trai bảo rằng ở khu này, thích nhất là mì Cây Nhãn ở đường Đinh Tiên Hoàng và bánh mì thịt giăm-bông pa-tê Bảy Quan đường Huỳnh Khương Ninh. Còn cà phê ngon phải là cà phê Thái Chi trên đường Nguyễn Phi Khanh.
Ở đường Huỳnh Tịnh Của có một ông họa sĩ mà lâu nay không thấy báo chí nhắc tới, ông Nhan Chí. Khi đến thăm một họa sĩ sơn mài nổi tiếng ở Sài Gòn, tôi được nghe ông ca ngợi về họa sĩ này: “Ông Nhan Chí vẽ chân dung bằng phấn tiên rất đẹp và sống động. Cách vẽ của ông là vừa vẽ vừa nói chuyện với người mẫu thật thoải mái, khiến mọi nét tự nhiên sinh động của cô người mẫu bộc lộ ra hết”.
Tài năng của ông thu hút những khách hàng là các vị đại sứ của Mỹ, Nam Dương, Hòa Lan. Bà Ngô Đình Nhu trước kia có đến đặt vẽ chân dung. Xưởng vẽ của ông ở số 60/55H trên con đường này, nay không còn dấu vết. Dân quanh vùng một thời kháo nhau về ông họa sĩ có “tóc kiểu Victor Hugo, bộ ria Mông Cổ” và khách đến đặt vẽ toàn đi xe hơi.
Đám trẻ nhỏ ở đó lại không quan tâm đến việc vẽ vời của ông Nhan Chí mà chỉ khoái cái bàn bóng bàn nhà ông vì cha con ông rất mê bóng bàn.
Ở đô thị Sài Gòn cũ, khu Đa Kao – Tân Định có thể nói tập trung nhiều tinh hoa của thành phố này nhất. Đó là vùng đất tụ hội những người tài hoa, cá tính, sành điệu... thể hiện nhiều nhất lối sống Sài Gòn. Nó là khu tiểu đô thị sầm uất bên cạnh quận I với giới kinh doanh lớn, người làm dịch vụ cao cấp, người Hoa – Ấn trong giới kinh doanh và người nước ngoài. Một trung tâm khác là Chợ Lớn với cộng đồng người Hoa giỏi làm ăn buôn bán. Do tính chất riêng của mình, khu Tân Định – Đa Kao có đời sống văn hóa tinh thần khá phong phú, sống vui, đa dạng và nhộn nhịp hơn.
Những dòng này chỉ là dăm nét chấm phá về một vùng đất mà người viết từng lang thang qua lại hơn 30 năm trước, từ khi nhìn bông dầu xoay tròn trên đầu, thấy đời thật vui trong những tối đi chơi với bạn bè, ghé ăn đêm trên vỉa hè chợ “nhà giàu” Tân Định. Hay từ những buổi sáng gần Giáng sinh se lạnh, khi Sài Gòn còn ngây thơ hơn bây giờ, mê mải chọn thiệp và ngắm cây thông bên nhà thờ Tân Định đường Hai Bà Trưng.
Chợ Tân Định đầu thập niên 1960. Ảnh T.L.
“NGƯỜI TRONG NÀY HỌ NHƯ VẬY…”Trong sổ ghi chép của ba tôi vài năm trước khi mất, ông nhắc đôi lần về nỗi tiếc nuối khi không thể ở lại quê nhà, để được sống trọn đời trên đất cù lao Phố nằm vắt vẻo giữa sông Đồng Nai. Ở đó, có ngôi nhà vườn bằng gỗ mái lợp ngói của ông nội tôi nhìn ra mặt sông, có đôi rùa – hạc bằng gỗ cao một mét do chính tay ông nội tạc để hiến tặng đình Tân Giám. Ông còn nhớ nhiều người già truyền tụng chuyện ông nội tôi dám đứng ra đề nghị viên chức trong làng bỏ bớt tục đãi đằng người đến phúng viếng đám tang, đã tốn kém lại sinh sự do nhậu nhẹt trong khi gia chủ đang đau buồn, nhiều nhà đã nghèo còn mắc nợ triền miên sau khi chôn cất người thân. Đó là một cuộc cách mạng nho nhỏ đáng tự hào của ông nội đóng góp cho cuộc sống đất cù lao, khiến ba tôi cảm thấy nên ở lại mảnh đất đó với tư cách con trai trưởng, để dòng dõi được nối tiếp và bồi đắp quê hương.
Nhưng sức hút của Sài Gòn quá lớn đối với một người đàn ông sinh trưởng ở vùng đất chỉ cách đô thị này chưa tới ba mươi cây số. Nói cho cùng, Sài Gòn đã mang đến cho ông cuộc sống thoải mái hơn những ngày ở Biên Hòa làm công việc đo đạc đất đai theo viên Kinh lý, hay lúc dạy học trong làng luôn nơm nớp lo sợ vì không có giấy phép của nhà nước Tây. Giấc mơ hồi hương của ông chỉ là những thoáng mơ qua như bao người chọn nơi đây làm quê hương mới. Anh em chúng tôi sinh ra và lớn lên trên đất Sài Gòn quê mẹ, gắn bó với thành phố này trong khi người cha sinh thành mang tâm sự kẻ tha hương. Ba và chúng tôi đã khác nhau trong tâm thức về một nơi gọi là quê hương.
Sau khi ông mất không lâu, tôi đọc lại tập Một cuốn sách Tuấn, chàng trai nước Việt của Nguyễn Vỹ trong tủ sách gia đình để hiểu thêm về sức hút của Sài Gòn, từ hơn bảy mươi năm trước. Đó là thời gian ba tôi mới lấy xong bằng Sơ học Pháp Việt:
“Thỉnh thoảng đôi người đi Đồng Nai về khoe rùm lên rằng ở Sài gòn nhà cửa phố xá đông nghẹt, có nhà lầu cao ba tầng, có đường đi rộng ba thước, trên bộ xe hơi chạy “boong boong”, dưới nước tàu thủy chạy “vù vù”, tối đến đèn điện thắp sáng choang như ban ngày, ông Tây bà Đầm ôm nhau “đăng xê” coi vui mắt quá chừng!
Thật là văn minh quá sức tưởng tượng của dân An nam ta!
…
Một số đông phụ nữ trẻ đẹp nhưng buồn duyên tủi phận, giận mẹ chồng hiếp đáp hoặc bị chồng hất hủi, thường “cuốn gói” đi “Đồng Nai Gia Định” mặc dầu phải đi bộ. Rồi năm bảy năm sau trở về thăm bà con cô bác, họ đeo đầy vòng vàng, hột xuyến, chói lọi trên tay trên ngực, má phấn môi son, đầu tóc thơm ngát mùi nước hoa. Thường thường cô Hai hay cô Ba thích dắt theo về một người chồng Đồng Nai, bận áo quần bằng lãnh đen, chân đi giày Tây, đầu đội mũ Tây, miệng bịt răng vàng, và hút thuốc lá Tây…
Đàn ông đàn bà ở đất “Hòn ngọc Viễn Đông” đi về đây trông oai như ông Hoàng, bà Chúa.
Cho nên hầu hết những thanh niên buôn bán ở các tỉnh miền Trung đều đi bộ theo con đường cái quan, hoặc đi ghe bầu theo đường biển, kéo nhau vào Đồng Nai Lục tỉnh…”.
Trên các giai phẩm Xuân, kỷ niệm về Tết Sài Gòn xưa luôn là đề tài được độc giả ưa thích. Giới viết lách, đa số là dân nhập cư nên luôn có chuyện để viết về đề tài này, hoặc họ sẽ phỏng vấn những nhân vật có tên tuổi để được nghe những nhận xét độc đáo về nơi đang sống. Các câu chuyện thường vây quanh khu vực trung tâm Sài Gòn, như chợ Bến Thành, đường Lê Thánh Tôn, phố Bonard – Lê Lợi hay Catinat – Tự Do – Đồng Khởi sau này. Qua các câu chuyện, có thể thấy nhận thức về Sài Gòn của họ tuy ban đầu có bỡ ngỡ, có khi nhầm lẫn, nhưng dần rõ và đúng thực chất hơn. Họ luôn phát hiện những điều thú vị mà người sống ở đất đô thị này từ nhỏ đến lớn không phát hiện ra. Có lẽ là từ sự so sánh với những thói tục của quê hương bản quán của người viết.
Cụ Á Nam Trần Tuấn Khải cống hiến một câu chuyện thú vị trong bài trả lời phỏng vấn trên báo Bách Khoa năm 1967. Ông nhớ lại 40 năm trước, năm 1927: “Một hôm nọ, tôi ghé thăm một người đồng hương bán đồ cẩn xà cừ ở bên hông chợ Sài Gòn. Đường Sabourain, bấy giờ là đường Tạ Thu Thâu. Đang hàn huyên thì có một ông khách vào, hỏi giá một món đồ, người Nam, mặc áo bà ba trắng, đi guốc vông. Dân thầy không ra dân thầy. Dân thợ không ra dân thợ. Tôi tưởng ông ta là một khách qua đường rỗi rãi, hỏi chơi để giết thời giờ, chớ cái bộ vó ông ta như thế, tiền đâu mà mua nổi món đồ bạc ngàn.
Ông ta xin bớt hai trăm. Chủ hiệu bằng lòng bớt một trăm. Tôi tưởng ông ta sẽ bỏ đi, qua một cửa hàng khác. Nào ngờ ông ta ưng thuận, móc bóp ra, lấy chín trăm đồng trả. Hai ông biết chín trăm đồng hồi bốn mươi năm về trước là một cái gia tài nhỏ. Khi ông ta mở bóp, tôi nhìn thấy giấy bạc lớn còn nhiều. Người nhà hàng bao, cột món đồ xong, ông ta ra cửa ngoắt, một người tài xế mặc đồ Tây vội vã chạy đến, ôm món đồ vừa mua để lên một xe nhà sang trọng. Ông ta vui vẻ bắt tay người chủ hiệu lên xe. Thấy tôi ngạc nhiên ra mặt, ông bạn tôi cười: “Người trong này, họ như vậy đó bác. Một nhà giàu có hạng ở đây mà đi phố họ ăn mặc giản dị như thế đó. Lúc mới vào, tôi cũng thường đánh giá họ lầm như bác.”. Tôi như được mở mắt ra, và cảm thấy thương thương cái đất “Nam... kỳ” này. Nơi đây, người ta sống hồn nhiên, ít bị lễ nghi, tập quán ràng buộc như ở Bắc, ở Trung.”.
Cảnh bày bán dưa hấu trên lề đường là hình ảnh rất quen thuộc của Tết Sài Gòn. Ảnh T.L.
Các nghệ sĩ ăn cơm ở quán cơm xã hội Anh Vũ dành cho học sinh, sinh viên và nghệ sĩ ở đường Bùi Viện, quận I đầu thập niên 1960. Tạp chí Trẻ tập I số 8.
Ông kể tiếp “... Một chiều thứ bảy, tôi được thấy cảnh thầy thông, thầy phán, anh em thợ máy, anh em phu xe ngồi quây quần trong các quán ăn ở chợ Bến Thành cùng nhau bàn chuyện phiếm, chuyện đời, hay chuyện thời sự một cách tự nhiên, thẳng thắn. Bầu không khí cởi mở ấy giữa những hạng người khác nhau ấy làm tôi càng thích lối sống trong Nam…”
Cuộc sống như vậy không thể không cuốn hút người đến đây sinh sống, giúp họ tạm quên nỗi nhớ quê và thấy giữa những người lạ chia sẻ được tình ấm áp trong cuộc kiếm sống hằng ngày.
Nhà báo Việt Tha, một nhà báo kỳ cựu, yêu nước của Sài Gòn cách nay 65 năm trên báo Tiếng Dội số Xuân Canh Dần 1950 có viết một bài hồi ký về câu chuyện kiếm tiền ăn Tết của nhà cách mạng Nguyễn An Ninh và những người cùng chí hướng. Họ mới ra tù và rất khó khăn, nhưng do sự khôn ngoan lanh lợi của họ và tấm lòng hào sảng của những người dân Sài Gòn mà họ có một cái Tết vui và đáng nhớ.
“Năm 1933 là năm kinh tế khủng hoảng đi đến cực điểm. Lúa 3 cắc một giạ. Cao su 7 cắc 1 kilô. Nông dân sản xuất lúa gạo sống một cuộc đời bần hàn, cơ cực. Kẻ ở châu thành đói khát và rách rưới, mặc dầu một cắc bạc có thể ăn no và một đồng bạc may được một bộ quần áo trắng. Hạng “thầy” ăn lương 45 đồng 1 tháng là cao lắm rồi. Hạng đứng bán ở Charner lãnh chỉ được mỗi tháng 25 đồng thêm ít cắc. Xe kéo một cuốc 5 xu, và dân phu cực nhọc trọn ngày lãnh cao lắm là 4 cắc rưỡi. Nhưng cũng không có công việc làm! Thành phố Saigon đếm hơn 5 ngàn người thất nghiệp. Trong số nầy chỉ độ 3 trăm người được tế độ; mỗi ngày hai bữa để sống cầm chừng, còn bao nhiêu, lê lết mòn giày không tìm ra việc. Một số thất nghiệp phải bỏ châu thành hoa lệ về ẩn núp ở đồng quê để chờ cơ hội…
Tháng Chạp đến, số đông dân chúng ở Saigon gặp nhau thì đầu câu chuyện là than với nhau: “Trời ôi! Năm nay làm sao ăn Tết được?”. Theo như mấy năm về trước, tháng nầy hàng vải bán rần rần và các món gì dùng ăn Tết được kẻ khuân, người vác. Năm ấy, rằm tháng Chạp đến nơi, chợ Bến Thành vắng teo và có lẽ người đi mua ít hơn kẻ ngồi bán. Bởi vậy, chung quanh chợ và đám đất bùng binh không ai thèm mướn. Hai mươi đã qua, mà quang cảnh chợ Saigon chưa có mòi gì thay đổi. Một vài gian hàng bán Tết dọn ra từ sớm đến chiều tiền lời vừa đủ ăn cơm và đóng tiền chỗ.
Cũng năm nầy, có vài chục anh em chánh trị phạm được tha hoặc được mãn tù, vì không thể sống ở làng đều nương náu ở đây để đi tìm việc.
Họ đi tìm việc gì được bây giờ? Thiên hạ đã thất nghiệp cả ngàn, hơn nữa nhiều người ái ngại không muốn dây vào họ, cũng không ai ưa họ. Trong số anh em đó có hai anh Nguyễn An Ninh và Phan Văn Hùm. Anh Ninh có đất, có nhà ở Mỹ Hòa (Gia Định), song huê lợi để nuôi bốn đứa con không ngoài năm bảy trăm gốc trầu do chị Ninh vun quén. Riêng anh Hùm, có cha mẹ giàu có ở Búng, nhưng chí hướng bất đồng, bỏ xuống Saigon để sống lây lấy với anh em trong một căn phố ở đường Reims [1] .
Tết gần đến nơi, dầu năm nầy thiên hạ khốn đốn, song ai nấy cũng ráng chạy chọt cho có tiền ăn Tết. Riêng các anh nầy, chẳng những không lo nghĩ đến ngày xuân mà bữa ăn ngày mai họ cũng không buồn nghĩ đến. Đã hăm ba Tết, ngoài đường lai rai tiếng pháo nổ. Chung quanh Chợ Mới [2] người qua kẻ lại cũng rộn rịp hơn ngày thường. Đêm nay anh Ninh kéo nhóm bạn sáu bảy người đi vài tua chợ, rồi rủ nhau vào quán ở đầu đường Alsace-Lorraine [3] uống nước trà. Nước trà là sở thích của anh Ninh. Uống được lối hai chén, anh đặt chén xuống, kể cho anh em nghe quãng đời của anh ở Paris. Anh bị túng thiếu, đi làm công cho một hiệu buôn để bán hàng lẻ ở các nơi có chợ phiên.
Nói đến đây, anh nhắc đến mấy gian hàng mà khi nãy đã đi qua mà người bán ngồi bí xị như con lân sành. Họ không biết kêu khách, mời khách và dụ khách để ý đến món hàng đặng mua, nhứt là món hàng dùng trong dịp Tết càng dễ bán hơn hết. Anh càng nói đến vụ bán hàng bằng cách rao to lên (vente à la criée), anh em ngó thấy anh càng hăm hở với ý định ra chợ bán Tết. Nhưng lúc đó, trong anh em ai cũng rụt rè, một là không quen, bợ ngợ quá lẽ. Hai là không vốn mua đồ để bán.
Ngã tư Tự Do - Nguyễn Văn Thinh (Đồng Khởi - Mạc Thị Bưởi) năm 1961.
Ảnh: John Dominis.
Đến khuya, họ kéo nhau về ngủ. Tại căn phố đường Reims chỉ có vài bộ ván nhỏ, anh em chia nhau kẻ nằm trên ván, người nằm dưới đất. Tiếng là về ngủ, song về đây anh Ninh lại tiếp tục hăng hái, thuyết phục mọi người tán thành ý kiến của anh, để ngày mai lập tức cất gian hàng và kéo nhau “chiếm thị trường” Chợ Mới. Anh bảo: “Ngày mai, tôi chỉ chạy được 5 đồng bạc đưa cho Nguyễn Văn Số, đi Cầu Kho mua cây vụn và đệm buồm để lập gian hàng”.
Có đủ mấy thứ cần dùng rồi, anh Ninh đi kiếm sơn về vẽ “bảng hiệu”trên tấm đệm. Gian hàng không có tên hiệu, chỉ có mấy chữ: NĂM NAY CÒN ĂN TẾT ĐƯỢC. Trong ngày 24 tháng Chạp, gian hàng dựng xong ngang bến xe đò đi Thủ Dầu Một gần chợ. Anh em còn đang thắc mắc sẽ bán hàng gì thì anh Nguyễn Bá Tường lúc bây giờ làm mại bản cho nhà thuốc “Thoại Dư Đường” đem giao một ngàn ve cù-là, khỏi trả tiền trước. Ai đời gian hàng bán Tết mà chưng lên chỉ có một món cù-là! Nhưng không sao, chiều hôm đó, anh Ninh bắt đầu đứng rao hàng. Tiếng anh thật tốt, từ đầu chợ đến cuối chợ đều nghe rõ CÙ-LÀ, và nội mấy tiếng đồng hồ, một ngàn ve dầu cù-là bán gần hết. Năm xu một ve, vốn là ba xu rưỡi. Đêm nay đã có tiền cà phê và sáng ra khỏi lo tiền chợ. Anh em hiểu rằng sở dĩ bán được là nhờ anh Ninh được công chúng có cảm tình, còn người nào không biết anh lại bị mê mệt với “mốt” rao hàng, mời mọc của anh. Dầu cho không cần dùng đến cũng bỏ ra một cắc để mua hai ve bỏ túi. Đến khoảng 9 giờ tối, thiên hạ bu trước gian hàng chen nhau mua dầu cù-là, trong số người mua có cả người mặc Âu phục và các cô đồ“mốt”. Anh Ninh đã quen lối sống của Paris, rao không ngợ miệng, anh nói cả dây, cả nhợ và cắt nghĩa lợi ích của cù-là, và giải nghĩa cái tên cù-là. Ở Saigon, có một số người biết mặt anh Ninh và cũng có nhiều người không biết dù nghe tiếng. Thế là họ rủ nhau “Muốn biết mặt ông Ninh, mau lại mua cù-là để biết”. Người nào đã biết càng móc túi để ủng hộ anh. Càng khuya, gian hàng NĂM NAY CÒN ĂN TẾT ĐƯỢC càng đông khách, nhờ bạn hàng ở chợ rảnh khách kéo nhau lũ lượt đi mua cù-là ông Ninh. Có ông già nhà quê đứng xa xa nhìn anh Ninh, và chờ cho bớt khách mới xáp lại gần, móc túi lấy cái gói ra, rồi chậm rãi mở từ lớp giấy lấy một đồng bạc đem lại đưa tận tay anh Ninh để mua cù-là. Ông mua hai ve, đưa một đồng bạc và từ chối không lấy tiền thối. Anh Ninh từ chối, ông đứng năn-nỉ để phải nhận chín cắc dư của ông.
Đêm đó chưa phải đến phiên chợ đêm ngày Tết, các gian hàng chỉ bán tới 12 giờ thôi. Lối 11 giờ, nhiều hiệu buôn ngó thấy chỉ có gian hàng nầy bán đắt xúm nhau đem đồ lại gởi bán. Lúc bấy giờ, nhóm anh em tám người của anh Ninh rất mừng vì ngày mai, ngoài cù-là, họ còn có xi-rô HIỆP-HÒA, thuốc ĐẠI-NAM, xà-bông CON CỌP, bánh in BỔN LẬP, trà NGHI-BỒI-NHÂM, guốc THIỆN CHIẾU, dầu thơm hiệu CINQ FLEUR… để bán nữa.
Buổi chợ ngày 25 tháng Chạp, từ sớm đến chiều, thiên hạ đứng trước gian hàng chật cả một khúc đường, nhứt là vào buổi tối. Anh Phan-văn-Hùm phải thay thế cho anh Ninh rao ó lên. Càng rao, càng hấp dẫn khách hàng hoặc những người cảm tình. Những người hiếu kỳ đến xem một mớ người trí thức, thiệt sự trí thức Tây học đứng bán hàng, rao hàng không e lệ, sụt sè, trong lúc bọn trí thức lỡ mùa khi ấy, ngồi chễm chệ trên xe kéo mang bộ mặt phách lối, khiếm nhã sai khiến người nghèo. Suốt ngày và đêm hôm đó, anh em thay phiên nhau bán cho đến sáng và từ sáng đến trưa, từ trưa đến tối, không phút nào vắng khách. Bán đắt hàng đến đỗi các gian hàng khác sai người lại thăm chừng và các quán cơm gần bên, nhờ có gian hàng Ninh-Hùm mà bán cơm rượu không dứt khách.
Bán xong ba buổi chợ đêm, anh em mệt đừ, nhưng nhờ buôn may bán đắt, nhưng được tinh-thần họ ráng thức cho vui, không nghĩ lời lóm. Buổi chiều 29 là buổi chợ chót, người ở Saigon bớt nhiều bởi một số đông đã lên xe về ăn Tết ở tỉnh, thế mà gian hàng NĂM NAY CÒN ĂN TẾT ĐƯỢC vẫn còn đông và càng đông là nhờ tiếng đồn đã hai ngày ở các xóm lao-động rằng: Ông Ninh bán chợ Tết.
Và một khi thiên-hạ càng đông thì số mật thám đến rình mò, canh gắt cũng đông. Vả lại, có người nghi hoặc: “Ông Nguyễn An Ninh làm gì đây? Không lẽ người như ông mà phải đày đọa tấm thân tới nước ấy?”.
Sáng ngày 30 Tết, gian hàng anh Ninh còn bán được đến 10 giờ. Hàng hóa sạch bách, sạp dỡ ra xong, anh em tính sổ thấy số tiền bán cả thảy 3 ngàn 500 đồng, trong lúc đó các gian hàng khác không được một phần năm, trong mấy buổi chợ ấy. Trừ tiền ăn uống sung sướng mấy bữa và các sở phí, mỗi anh em còn được chia lối 15 đồng. Năm ấy, đối với các nhà làm cách mạng này, họ được ăn Tết đáng bực nhứt.
Từ sau Tết đó, các tay bán hàng rong bắt chước anh Ninh rao hàng bằng cách hô to lên cho khách chú ý dù họ không thể bắt chước được lối hô trào lộng của anh để làm cho khách chú ý. Có người phải dùng cách kêu lô-tô, ca vọng-cổ, nhiều lúc khách qua đường phải bực mình với họ."
Những câu chuyện về Sài Gòn sinh động mà đơn sơ, có chút hồn nhiên và thấy thương thương cho tính cách chất phác không ganh đua hiếu thắng dù cương cường bất khuất, không vênh mặt tự mãn coi giá trị mình cao hơn đồng bào. Bao nhiêu người đã từng đi qua thành phố này như một khách vãng lai hạ gánh nặng để nghỉ chân, uống chén nước trà pha theo kiểu Huế vun chùm bọt, nói dăm ba câu với bạn mới quen. Vài lần như vậy, họ cảm thấy không bị coi thường dù trước mặt họ là thầy hay thợ. Rồi họ quyết định nán lại làm ăn thêm chút nữa, mở lòng chút nữa với tha nhân cho đến khi họ hòa nhập vào thế giới chung quanh một cách gắn bó, lúc đó họ là người Sài Gòn. Như ba tôi, và bao lớp người từng chọn nơi nầy làm quê hương.
Cho dù có lúc họ chùng lòng trong buổi chiều mưa ở cầu Ông Lãnh:
Lạnh thấm lòng, mưa mai lác đác,
Quán bên hè, uống tách cà-phê.
Nhìn ghe bỗng chạnh tình quê,
Rưng rưng nước mắt: tư bề người dưng…
(“Thơ Ba Mén" – Bình Nguyên Lộc)
Cảnh chợ búa xưa. Trích trong bộ tranh “Monographie dessinée de l’Indochine” (Chuyên khảo có minh họa về Đông Dương) do học sinh trường Mỹ thuật Gia Định thực hiện năm 1935.
___________________________________
Chú thích:
[1] Nay là đường Lê Công Kiều, quận I
[2] Tên thường gọi của chợ Bến Thành thời đó
[3] Đường Phó Đức Chính, quận I
“THÁM XỰC CÁI”Thư của đứa bạn thời tiểu học bên xứ tuyết Canada thường không dài, nhưng lần nào ôn về những ngày tháng ở quê nhà, nó đều nhắc đến những món ăn lúc còn nhỏ. Có lần, khi tôi nhắc đến món vịt quay ăn ở nhà nó, thì bao kỷ niệm quay trở lại. Nó bồi hồi kể lần nào từ miền Tây về Sài Gòn thăm gia đình bà chị Hai ở gần cầu Kiệu, Phú Nhuận, cậu của nó cũng ghé khu Soái Kình Lâm để mua con vịt quay làm quà cho cả nhà. Ông nói: “Dân Sài Gòn chưa chắc biết vịt quay Chợ Lớn khu này ngon có tiếng à nha! Mà dân Phú Nhuận chắc chỉ biết món ngon quanh đây như phở Quyền, Bắc Huỳnh hay mì Dìn Chón là cùng chứ gì!".
Lần đó, tôi được ăn ké món vịt quay ngon nhất Sài Gòn với bánh mì như lời của ông. Thịt vịt mềm lụp, béo nhưng không ngấy, được ướp thơm nhẹ, không quá nồng mùi thuốc Bắc. Trí nhớ của tôi cảm nhận có vậy. Đến lúc đó, món ăn Tàu tôi thưởng thức quanh quẩn chỉ có món lạp xưởng mà ba tôi mua từng xâu ở đường Hàm Nghi gần Chợ Cũ. Có lúc được ăn vịt lạp, chưng lên với gừng, ăn hơi sừn sựt. Tôi thích mùi vị của những món ăn đó, một thứ hương vị lạ so với các món thuần Việt do má tôi nấu. Chúng khá hấp dẫn trong tuổi mới lớn luôn thèm ăn của tôi.
Ở gần nhà tôi, trên đường Nguyễn Minh Chiếu cũ (nay là Nguyễn Trọng Tuyển) gần quán bò bảy món Ánh Hồng có hai cái tiệm mì Tàu tên là Xẩm Ba và Xẩm Tư, hai cái tên do dân gian đặt ra không rõ vì đâu, dù tiệm có bảng hiệu nhưng không ai còn nhớ. Hồi nhỏ, lần nào đi ngang đó tôi cũng nuốt nước miếng vì mùi hương trong nồi nước lèo tỏa ra. Tiệm sát nhau, do hai chị em thường bận áo xẩm cùng bán mì nước, không ngại cạnh tranh, khách thích ăn ở đâu thì tùy. Tiệm nào cũng có cái sân trước bày lơ thơ mấy cái bàn tròn, có ống đũa sơn đen và hai cái hũ đựng giấm, nước tương. Suốt tuổi ấu thơ, đợi đến ngày Tết có tiền lì xì là tôi lại rủ bà chị cùng đứa em gái ra đó ngồi chễm chệ trên ghế, kêu tô mì ăn với xá xíu. Mì sợi vàng nhạt. Miếng thịt hồng có màu đỏ viền quanh. Thêm cái bánh tôm, vài cọng xà lách. Phần tôi là ba vắt mì, ăn no cành. Tôi nhớ bà bỏ từng vắt mì vuông vắn trên mặt bàn bọc kẽm sáng loáng, trộn trong một loại bột tro rồi trụng trong nồi nước nghi ngút. Nước mì không trong veo mà hơi đục một chút, thơm ngọt. Lần nào tôi cũng ăn hết cái rồi đến nước, thòm thèm liếm môi và đứng dậy ra về, nghĩ bụng sẽ quay lại trong mấy ngày nữa cho đến khi hết Tết. Nhưng mấy chương trình Đại nhạc hội cuốn hút hơn và hầu như lần nào tôi cũng quên quay lại quán mì Tàu đó. Tôi ăn cho đến khi nó bị dẹp năm 1978 và gia đình hai bà chủ về Tàu. Sau này đi làm, tôi ăn mì từ Nam ra Bắc, từ Sài Gòn đến Lái Thiêu, từ Việt Nam sang Trung Quốc rồi Nhật nhưng chưa bao giờ cảm thấy ngon như vị mì lúc đó.
Trong một buổi uống trà Ô Long buổi chiều giữa mùa mưa tháng bảy, tôi và Kiện Toàn ngồi nói về món ăn của người Hoa ở Sài Gòn. Vốn gốc người Hẹ, là thầy thuốc Bắc nên mối quan tâm của anh là những vị thuốc trong các món ăn. Anh nhớ những năm cuối thập niên 1980, anh thường đi giao rượu thuốc do gia đình ngâm cho một quán ăn cuối đường Nguyễn Trãi, đối diện cổng Lực lượng thanh niên xung phong. Quán nhỏ, kê bốn dãy bàn, hai dãy sát tường và hai dãy ở giữa, chỉ bán một món duy nhất là gà ác tiềm thuốc Bắc. Tiệm lúc nào cũng thơm ngào ngạt mùi thuốc rất đặc trưng. Gần đó có một chợ gà cung cấp nguyên liệu rất sẵn. Món gà tiềm đựng trong một thố tròn, cao. Kiện Toàn thấy cứ mỗi lần mang một thố gà cho khách, bà chủ kèm cho khách một ly xây chừng nhỏ đựng rượu thuốc do anh mang tới. Tính sơ qua, bà chủ bán rất đắt vì mỗi ngày anh phải giao tới 20 lít rượu và ngày nào cũng hết sạch. Với con mắt nhà nghề, anh hiểu ngay bí quyết thu hút khách của bà chủ quán. Ở góc quán, bà đặt thường xuyên một cái xửng hấp bánh bao loại lớn có hai ngăn, mặt ngăn có lỗ thủng như mọi cái xửng hấp bánh khác. Mặt trên, bà để gà làm sẵn, ngăn dưới bày xuyên khung tỏa ra mùi thơm rất đặc trưng của thuốc Bắc. Thỉnh thoảng cái xửng được giở ra, hương xuyên khung nấu dưới lửa liu riu bay ra ngào ngạt cộng với mùi thịt gà đã rục lôi cuốn khách vào quán. Trong thực tế, các vị thuốc trong thố gà chỉ thoảng rất nhẹ thôi nên chiêu dụ khách bằng cái xửng tạo mùi hương rất hiệu quả. Ngồi rảnh, anh nhớ khi hấp thức ăn theo cách như vậy, mẹ anh thường đặt trên mặt ngăn những cái trứng gà để dành cho các con. Khi chín tới, trứng thơm nức, mùi của xuyên khung thấm vô tới lòng đỏ, ăn rất thơm ngon.
Món gà ác tiềm thuốc Bắc ở quán Chấn Phát, quận 11. Ảnh: Nguyễn Đình.
Trong quan sát của Kiện Toàn, món gà ác tuy hầu hết các quán chuyên món ăn Tàu đều có, nhưng hơn thua nhau chính là cân lượng. Anh biết một tiệm cơm Hải Nam trên đường Nguyễn Tri Phương nấu có cân lượng khá chuẩn nên luôn đắt khách. Ngoài các vị căn bản như đương quy, xuyên khung, sanh địa tức thục địa, đãng sâm hay phòng đãng sâm, có người không biết cách xài táo đen thay vì táo đỏ, xài bắc kỳ giá mắc lại không đúng thay vì Hoàng Kỳ giá rẻ lại ngon hơn. Chủ tiệm là người Singapore, giữ nghiêm ngặt công thức cũ của người Hoa di cư đến các nước Đông Nam Á xưa. Kiện Toàn bảo trước 1975, giới Tài phu (phụ trách chính việc bốc thuốc các tiệm thuốc Bắc) thường mua nguyên liệu từ Hồng Kông. Đến nay, chỉ có mua thuốc ở Viện Đông y nhập trực tiếp từ Trung Quốc. Mua theo nguồn thuốc thảo dược từ thương buôn dễ gặp thuốc rác không chuẩn, không tốt.
Xong mấy tuần trà, chúng tôi chở nhau đi dọc ra vùng Chợ Lớn. Sau cơn mưa chiều, phố xá tuy tấp nập song vẫn có một không khí hơi nặng và trầm. Xe chạy đến khu La Kai (Lacaze), không đông vui như thuở Bảy Viễn mở sòng bạc lớn ở khu Đại Thế Giới xưa kia. Không biết còn ai bán vịt lạp, lạp xưởng gan heo như hồi ba tôi còn sống làm việc ở hiệu buôn chợ Bến Thành ra mua về. Trung học La Concorde của thầy Trần Văn Kế, nơi anh tôi suýt ghi danh học không biết giờ nằm ở đâu? Câu thơ cũ viết về khu La Kai chợt hiện trong đầu: Trường học nằm trong dãy phố Tàu/ Có phòng khám bệnh sát bên nhau/ Đầu đường tiệm nước ngồi đông khách/ Hoa bướm còn vương mãi thuở nào… Từ đó tôi không về Lacaze/ Trường xưa thành chuyện tháng năm dài… 1 Khu phố này nằm hai bên đường Nguyễn Tri Phương, giữa đường Hồng Bàng và Đồng Khánh (nay là Trần Hưng Đạo B). Một thời, thức ăn đêm nổi tiếng khu này là mì đùi vịt và bánh cuốn. Giới sống về đêm như ca sĩ, các cô bán bar rượu đều thích đến đây ăn tối nên không khí rầm rộ nhất, vui nhất ở đây bắt đầu từ sáu giờ chiều đến giữa khuya. Có buổi tối cùng ba đi thăm người bà con, tôi được thưởng thức mấy món như sò nướng, cua rang hay được ba mua về cho cả nhà ăn chạo tôm, chả giò, bánh đập.
Tôi kể cho Kiện Toàn nghe về một bài báo cũ từ trước 1975, rằng khu Tản Đà, giữa Đồng Khánh và bến Hàm Tử có tên khác là “thám-xực-cái” nghĩa là “Con đường tham ăn”. Không biết khi nào có cái tên đó. Thức ăn nổi tiếng của con đường này là Sa té. Sa té là tiếng Tiều, là món ăn đặc biệt của người Singapore với thịt bò thái lát mỏng nhúng trong một loại súp làm bằng tương và các loại đậu. Lạ miệng và thơm ngon.
Quán cháo Tiều đường Hồng Bàng, quận 6. Ảnh: Nguyễn Đình.
Câu chuyện miên man đến những khu bán đồ ăn nửa thế kỷ trước nay không còn nữa. Đó là món nghêu ở ngã sáu Chợ Lớn. Ở đó từng có chợ nghêu nằm đầu đường Nguyễn Tri Phương, giữa đường Trần Quốc Toản (Ba Tháng Hai) và Minh Mạng (Ngô Gia Tự). Dọc theo hai bên đường có những quán lụp xụp che tạm bợ, bàn nhỏ ghế thấp. Có 30 đồng thập niên 1960 là có một thau nghêu hấp bốc khói ngạt ngào. Đó là món bún thịt nướng vùng chùa Cây Mai, món cháo lòng heo khu Minh Phụng, cháo cá vùng Chợ Lớn Mới. Những hàng quán đó, mẹ chúng tôi, dì chúng tôi khi còn son trẻ, những buổi về thăm nhà ông cố trong khu này, sà vào để tận hưởng thú vui cuộc đời trong hàng quán bình dân, không dám mơ tới và thấy cũng không nhất thiết đi tìm món ăn Tàu nổi tiếng ngon mà mắc tiền ở các nhà hàng Đại La Thiên, Đồng Khánh hay Soái Kình Lâm. Kiện Toàn cho rằng không gian, phong cách quán ăn đã có ít nhiều thay đổi so với hơn bốn mươi năm trước. Anh nhận ra điều đó khi có lần cùng đi với một người bạn Việt kiều đến một tiệm bán đồ ăn Tàu ở đường Âu Cơ quận 11. Cả hai đến đó không để ăn, chỉ mua mang về nhà vì quán hoàn toàn không có bàn ghế cho khách. Ở một bên mặt tiền khá rộng của quán, có một gian bếp với một nhóm đầu bếp quần quật chế biến món ăn theo phong cách Quảng Đông. Khách đến đứng xem thực đơn, chọn món và đứng đợi xong thì trả tiền mang về. Lần đầu đến quán, Kiện Toàn chợt cảm nhận không khí quán ăn Tàu xa xưa khi anh còn nhỏ mà ở tuổi đời năm mươi tưởng chừng không còn cảm thấy. Đó là mùi chiên xào nức thơm phức gia vị trong món mì xào giòn, mì xào mềm, hoành thánh chiên, sủi cảo… rất riêng mà lâu nay nhiều quán đã chế biến với công thức khác dần cách cũ. Ở đây cũng có những đầu bếp ăn nói cụt lủn, cách xào tung chảo, cách xối nước tráng chảo sau khi xào xong một món, đợi nước sôi lăn tăn hấp thu hết chất mỡ rồi đổ đi để nấu món khác.
Làm món mì xào ở quán Chấn Phát, quận 11. Ảnh: Nguyễn Đình.
Ra về, Toàn miên man kể về mẹ anh khi chưa ra nước ngoài sinh sống. Đến mùa nắng bà nấu lạp chạp xà, với đủ thứ cây cỏ để giải nhiệt cho con, bao gồm các vị thuốc thiên nhiên như mục mìn phá (mộc miên), cúc phá (hoa cúc), cắm ngành phá (kim ngân hoa), danh xành (nhân trần) và ma khô (gốc rạ)… Có khi bà nấu loèng trxà (lương trà) hay pạc chánh (bát trân thang) có các vị đương quy, xuyên khung, thục địa, bạch hược, bạch truật, cam thảo, đãng sâm uống cho đẹp da… Anh uống các thứ nước như uống tình thương của mẹ, là con nhà thuốc Bắc nhiều đời lưu lạc từ Trung Hoa từ đầu thế kỷ 20 đến Sài Gòn mở hiệu thuốc trên đường La Grandière (Lý Tự Trọng). Đến giờ, khi chế biến thuốc cho khách, ngâm rượu hay bốc thuốc nấu gà ác, anh lại nhớ đến người mẹ ở xa và người cha đã khuất cũng là một thầy thuốc.
Ở Nhật có món Tempura rất nổi tiếng, được xếp trong những món đặc trưng của ẩm thực truyền thống Nhật Bản. Thật ra món ăn này có xuất xứ từ châu Âu rồi truyền đến Nhật từ giữa thế kỷ thứ 16 theo chân người Bồ Đào Nha. Tôi nghĩ về các món ăn gốc gác Trung Hoa từng ăn hồi nhỏ cho đến hơn nửa thế kỷ nay. Đó vẫn là những món ăn của người dân tộc Hoa, nhưng nhiều người Việt khi đi qua Hồng Kông, Đài Loan hay Trung Quốc bảo rằng không tìm thấy các món giống như vậy để ăn, theo khẩu vị ở Sài Gòn, Chợ Lớn họ thấy quen thuộc. Các món đó đã được Việt hóa qua năm, qua tháng và đã nằm trong ký ức thân thương của người Sài Gòn từ hồi còn bé thơ, phần nào tương tự như món tempura đối với người Nhật. Riêng với tôi, cục lạp xưởng ăn với cơm trắng chan một chút nước mắm y, hay tô mì Xẩm Ba Xẩm Tư là những món ăn tuyệt vời tuổi nhỏ, góp phần tạo nên những điều đẹp đẽ khiến tôi luôn thấy yêu thương thành phố này. Bao lớp hậu duệ của người Minh Hương, tiếp theo đó là di dân người Hoa và cư dân Việt đã góp phần tạo nên diện mạo một thành phố đa dạng về văn hóa sống, nhất là trong ẩm thực. Đó là điều cần ghi nhớ và trân trọng.
Hàng ăn rong. Trích trong bộ tranh “Monographie dessinée de l’Indochine” (Chuyên khảo có minh họa về Đông Dương) do học sinh trường Mỹ thuật Gia Định thực hiện năm 1935.
Tiệm nước người Hoa, bán các món điểm tâm như há cảo, xíu mại, bánh bao, trà và cà phê, là nơi ăn uống và cũng là nơi trao đổi thông tin của cộng đồng người Hoa.
Trích trong bộ tranh “Monographie dessinée de l’Indochine” (Chuyên khảo có minh họa về Đông Dương) do học sinh trường Mỹ thuật Gia Định thực hiện năm 1935.