LÁ ĐƠN CỦA MỘT DANH THỦ
Đối với người sống ở miền Nam trước 1975, dù có quan tâm đến bộ môn bóng tròn, cách gọi cũ của bóng đá hay không, thì tên tuổi danh thủ Phạm Văn Lắm vẫn rất nổi tiếng. Khi đội tuyển quốc gia miền Nam đoạt chức vô địch giải Merdeka – Malaysia 1966, cựu trung vệ bóng đá Phạm Văn Lắm được xem là một cầu thủ xuất sắc có đóng góp lớn cho chiến công này. Đội tuyển miền Nam lúc đó được đặt dưới sự dẫn dắt của HLV người Đức Weigang, người sau này đã trở lại huấn luyện đội tuyển Việt Nam vào thập niên 1990. Theo các tài liệu, trước năm 1975, giải Merdeka được xem như giải bóng đá quốc tế Á châu thu nhỏ vì quy tụ nhiều đội tuyển quốc gia tại lục địa này, trong đó có nhiều đội tuyển rất mạnh lúc bấy giờ, như Miến Ðiện (Myanmar), Nam Hàn, Hồng Kông, Nam Dương (Indonesia)... Về sau, Merdeka còn có sự tham dự của các đội bóng câu lạc bộ từ châu Âu, Tây Á và cả Nam Mỹ.
Phạm Văn Lắm xuất thân từ đội Ngôi sao Gia Định là đội bóng lâu đời nhất ở miền Nam. Năm 1961, ông tham gia đội tuyển Thiếu niên Việt Nam Cộng hòa, cùng với cầu thủ Tam Lang, dự giải thiếu niên Á châu kỳ 4 tại Bangkok. Ðến tháng 4 năm 1964, ông có mặt trong đội tuyển Quốc gia Việt Nam Cộng hòa tham dự vòng loại Olympic tại Tel Aviv (Israel). Sau đó là cầu thủ chính thức làm nên chiến thắng Merdeka năm 1966. Trong sự nghiệp bóng đá, ông đã thi đấu rất nhiều nơi tại châu Á. Ngoài thành tích vô địch giải Merdeka, ông cùng đồng đội còn đoạt huy chương Bạc SEAP Games hai lần 1965, 1969, huy chương Đồng SEAP Games 1971 và nhiều giải vô địch ở miền Nam trước 1975 khi tham gia đội Tổng tham mưu và Quan thuế.
Tuy nhiên, cho đến năm 1971, mới 28 tuổi và đang được xem là cột trụ hàng phòng thủ vững chắc, phong độ đang ở đỉnh cao, tuổi còn sung sức lại nhiều kinh nghiệm thi đấu trong và ngoài nước, Phạm Văn Lắm lại có một quyết định gây bất ngờ với làng bóng đá thời ấy, đó là xin rút ra khỏi đội tuyển bóng đá quốc gia miền Nam Việt Nam.
Chúng tôi có may mắn giữ được lá đơn viết tay xin rút lui khỏi đội tuyển của ông được viết từ 44 năm trước, ngày 14 tháng 9 năm 1971. Người nhận là ông Chủ tịch Tổng cuộc túc cầu Việt Nam (tương đương Chủ tịch Liên đoàn bóng đá hiện nay). Bỏ qua phần tiêu đề, nội dung thư như sau:
“Kính thưa ông Chủ tịch,
Tôi rất danh dự được sự chiếu cố của quý Tổng cuộc cho gọi tôi tập dượt trong kỳ chuẩn bị tuyển thủ quốc gia lần này. Tôi xin thành thật cám ơn quý Tổng cuộc đã chiếu cố đến tôi, nhưng vì đứng trước ý đồ trẻ trung hóa của quý Tổng cuộc đã đề ra, tôi tự thấy có bổn phận nhường chỗ cho cầu thủ khác - Vì sau quá nhiều năm đổ mồ hôi và lao lực cho làng cầu Việt Nam nói chung và quý Tổng cuộc nói riêng.
Kính xin quý Tổng cục chấp nhận nơi đây lời cầu khẩn của tôi và xin chúc đoàn đại diện Việt Nam sẽ gặt hái nhiều kết quả hơn.
Kính chào ông Chủ tịch.
Ký tên Phạm Văn Lắm”.
Hơn nửa tháng sau, ngày 3 tháng 10 năm 1971, ông Võ Văn Ứng, Chủ tịch Tổng cuộc túc cầu Việt Nam thời đó có thư phúc đáp với nội dung chính như sau:
“Tổng cuộc túc cầu Việt Nam rất xúc động khi chấp nhận cho Ông giã từ đội tuyển Việt Nam.
Sự vắng mặt của Ông sẽ là một thiếu sót cho Hội tuyển Việt Nam và lưu lại nhiều mến thương cho các bạn đồng đội.
Cầu thủ Phạm Văn Lắm, góc phải. Ảnh T.L.
Thay mặt Ban chấp hành T.C.T.C.V.N, tôi xin gởi đến Ông lời cảm ơn chân thành nhất của chúng tôi về sự tận tụy của Ông trong những năm qua, đã nêu cao màu cờ sắc áo của xứ sở trên khắp vận động trường quốc tế cũng như quốc nội.
Thân ái chào Ông và chúc Ông được mọi sự an lành như ý.
Ký tên Võ Văn Ứng”
Danh thủ Phạm Văn Lắm rời khỏi đội tuyển hoàn toàn không vì xuống phong độ. Mấy năm sau thời điểm 1975, ông tiếp tục đá bóng và là đội trưởng đội Hải quan và đến năm 1981 mới giải nghệ. Ông rời đội tuyển khi chưa tới ba mươi tuổi, vì lòng tự trọng muốn nhường chỗ cho lớp cầu thủ trẻ.
Đọc qua hai văn bản của giới bóng đá Sài Gòn cách nay gần nửa thế kỷ, chúng ta hình dung được phần nào cách thức viết thư hành chính trong một bộ môn đặc thù của thể thao. Đã có những khác biệt trong cách dùng từ ngữ so với hiện nay.
Danh thủ Phạm Văn Lắm mất năm 2012 sau một cơn bệnh kéo dài, thọ 69 tuổi, trong hoàn cảnh sống khó khăn.
BA BỨC TRANH Ở DINH ĐỘC LẬPKhách đến dinh Độc Lập không chỉ để xem và hiểu biết về một tòa nhà làm việc của chính quyền chế độ cũ, mà còn có dịp ngắm nghía một công trình kiến trúc quan trọng và có tầm cỡ, được xem cách bài trí nội thất của một dinh thự cao cấp nhất của một quốc gia, và những tác phẩm mỹ thuật của một thời. Tác phẩm sơn mài cực lớn Bình Ngô đại cáo của họa sĩ Nguyễn Văn Minh bày trong dinh Độc Lập đã được đề cập đến trong tập I cuốn Sài Gòn - Chuyện đời của phố. Ở đây, xin giới thiệu tiếp ba bức tranh hiện đang trưng bày tại dinh thự này.
QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG
Trong phòng Khánh tiết dinh Độc Lập có một bức tranh lớn, có chiều dài 5,4m và chiều rộng 2,34m. Bức tranh có tên là Quốc tổ Hùng Vương . Đây là cái tên thường dùng, tuy nhiên lúc đầu, tác giả đặt tên cho tranh là Việt Nam Quốc tổ . Người sáng tác bức tranh này là họa sĩ Trọng Nội.
Họa sĩ Trọng Nội tên thật là Trần Trọng Nội, được xem là thủy mặc gia Việt Nam. Ông chuyên thực hiện tranh bích họa đắp nổi cho các cơ sở tôn giáo. Ông là tác giả bức Phật đản tại chùa Phổ Quang, hai bức Hội nghị Diên Hồng và Bạch Đằng Giang ở đền thờ Trần Hưng Đạo, bức Hội hoa nghiêm cao 2,5m, dài 8,5m tại chùa Kim Cương, đường Trương Tấn Bửu (Trần Huy Liệu). Bức Bồ tát Quảng Đức tự thiêu cao 2m được vẽ bằng máu của chư Tăng Ni, Phật tử, do ông vẽ năm 1963 giữa mùa pháp nạn đặt tại phòng Khánh tiết của chùa Quan Thế Âm ở Phú Nhuận.
Trọng Nội sinh năm 1924 tại Hà Nội. Sở trường của ông là thủy mặc. Ông vẽ tranh về đề tài hoa lá chim muông, cảnh sinh hoạt, các trận đánh cổ xưa trên giấy bản, mực tàu điểm xuyết bằng màu hồng xạ, hoa hiên, chu sa nguyên chất thuần túy dân tộc... Từ năm 1957, ông chuyển hướng thực hiện tranh đắp nổi bằng xi măng. Ngoài ra ông còn khắc chân dung và phong cảnh trên ngà voi.
Ngày 22 tháng 6 năm 1966, họa sĩ Trọng Nội gửi thư đến Phủ Chủ tịch Ủy ban hành pháp trung ương của chế độ miền Nam và kiến trúc sư trưởng Ngô Viết Thụ, tác giả đồ án dinh Độc Lập, xin tặng tác phẩm Việt Nam Quốc tổ để trưng bày trong dinh mới xây xong. Trong thư ông nêu: “Tác phẩm kể trên tượng trưng ý nghĩa đề cao dân tộc Việt Nam, tôi ước mong được góp phần bé nhỏ vào công trình kiến trúc dinh Độc Lập, nhân dịp khánh thành...”. Ngay hôm đó, ban trang trí Công trường dinh Độc Lập sau khi nhận thư, đã có ý kiến ngay với các vị được nêu trong thư: “Nhận thấy đây là một tác phong cao đẹp của một nghệ sĩ chân chính, nghèo tiền nhưng không nghèo lòng, sẵn sàng đóng góp phần mình vào kho tàng nghệ thuật quốc gia bằng một hy sinh lớn lao. Ban tôi trân trọng xin quý vị sớm cho biết tôn ý về vấn đề nêu trên, để việc sử dụng bức tranh, trong trường hợp thuận lợi, khỏi bị chậm trễ”.
Bốn ngày sau, kiến trúc sư Ngô Viết Thụ gửi một bức thư đến quản đốc công trường dinh và Phủ Chủ tịch Ủy ban hành pháp cho biết là ông “hết sức hoan hô nghĩa cử đó của họa sĩ” và đề nghị ra lệnh đóng gấp một cái khuôn dành cho bức tranh.
Bức tranh này được họa sĩ Trọng Nội hoàn thành đúng bốn tháng sau ngày viết thư đề nghị hiến tranh, ngày 22/10/1966, và kịp trước khi khánh thành chín ngày. Tranh ghép gồm tám tấm cốt gỗ, dán giấy xuyến chỉ phủ bề mặt. Họa sĩ Trọng Nội thể hiện tranh bằng chất liệu màu nước, diễn tả nhân vật và không gian theo lối đồ họa, chủ yếu diễn tả bằng nét, điểm màu có tiết chế. Nhân vật trung tâm được vẽ lớn hình ảnh đức Quốc Tổ Hùng Vương đang ngồi rất uy hùng giữa hai hàng văn võ bá quan, tay phải ông đang cầm bút viết hai chữ “Văn Lang”(bằng chữ Hán) – quốc hiệu đầu tiên của nước Việt Nam, tay trái ông cầm mũi tên. Hậu cảnh vẽ cách điệu hoa văn sóng nước và mây. Mặt trước bệ gỗ đặt ghế ngồi có chữ “VIỆT NAM QUỐC TỔ”. Góc trái của bức tranh có đề tên tác giả “Trọng Nội” bằng chữ Hán ở trên, chữ Việt ở dưới, giữa là dấu triện màu đỏ. Góc phải của bức tranh có chữ “31–10–1966”, dưới là chữ “VIET NAM”.
Sau đó, khuôn bức tranh đã được đặt chính họa sĩ Trọng Nội thực hiện với chi phí trị giá 106.000 đồng (trị giá 1 USD năm 1966 khoảng 80 đồng). Khung thể hiện bằng sơn mài màu vàng và đen, màu đen nhạt và đậm dần ra mép khung. Bản khung rộng một tấc, dày nửa tấc, phần đỡ khung tranh rộng 4cm. Tranh được bo trên và dưới, bọc vải tơ tằm màu vàng nhạt và đỏ sậm.
Hiện nay, tranh vẫn được treo ở vị trí cũ, màu đã bị bạc theo thời gian. Bức tranh với phong cách, màu sắc và hình tượng cổ điển, gợi lên không khí cổ xưa đầy huyền thoại.
SƠN HÀ CẨM TÚ
Trong buổi lễ khánh thành ngày 31 tháng 10 năm 1966, kiến trúc sư Ngô Viết Thụ khi trình bày về những điểm chính của đồ án dinh Độc Lập đã dẫn bức tranh Sơn hà cẩm tú do mình vẽ để nói lên quan điểm về kiến trúc của ông: “Như bức tranh 'Sơn hà cẩm tú' mà chúng tôi đã vẽ để trang trí phòng đại yến của dinh này để nói lên sự cố gắng dùng một chất liệu, và kỹ thuật kim thời nếu không nói là Âu Mỹ để diễn tả một tâm hồn Việt Nam mà quý vị sẽ thấy trong phòng ăn lớn, tóm tắt các khuôn phép mà chúng tôi đã dùng khi nghiên cứu phối hợp dinh này. Chúng tôi muốn đánh dấu trang sử giành độc lập của dân tộc trong các công trình có tánh cách văn hóa bằng cách thực hiện tác phẩm bằng vật liệu đương thời với tất cả phương thức của nó...”.
Bức tranh sơn thủy thể hiện phong cảnh đất nước Việt Nam đồng hiện với các sắc thái riêng của ba miền Bắc – Trung – Nam. Phía bên trái là phong cảnh miền Bắc với núi non trùng điệp, giữa là miền Trung với cảnh Ngọ môn Huế và bên phải là đồng bằng và sông ngòi miền Nam. Phía trên bên trái của tranh có hai câu thơ bằng chữ Hán: “Cẩm tú sơn hà, thái bình thảo mộc”, tạm dịch: “Non sông gấm vóc, cây cỏ thái bình”. Bộ tranh đồ sộ không kém các họa phẩm khác trong dinh, ghép lại từ 7 bức nhỏ, mỗi bức dài 2m và rộng 1m. Toàn tranh dài 7m, rộng 2m. Bức tranh hoàn thành năm 1966, được treo trước khi khánh thành dinh.
Tuy được vẽ theo lối thủy mặc, bức tranh này lại được kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thực hiện bằng chất liệu sơn dầu hiện đại, chất sơn pha loãng hoặc đặc tùy theo nhu cầu vẽ khu vực phóng túng hay công bút. Có lẽ đó chính là điểm mấu chốt ông nhắc tới khi phát biểu như trên ( dùng một chất liệu, và kỹ thuật kim thời nếu không nói là Âu Mỹ để diễn tả một tâm hồn Việt Nam ). Khung tranh bằng gỗ phủ sơn xanh lá mạ, sau đó thếp vàng, viền khung bên trong màu cánh gián. Ở góc dưới bên phải của tranh có bút tích của tác giả: “Ngo Viet Thu 1966”.
Bức Sơn hà cẩm tú do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ sáng tác trưng bày trong dinh Độc Lập. Ảnh: Đức Trí.
Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, năm 1967.
Hàng chữ "Cẩm tú sơn hà, thái bình thảo mộc" ở góc trái bức tranh.
HAI NÀNG KIỀU
Bức tranh này xuất hiện tại dinh Độc Lập khá muộn, do họa sĩ Lê Chánh hoàn thành vào năm 1974 và được treo tại đầu hành lang lầu 3 của dinh. Hiện nay, tranh vẫn được treo ở vị trí như ban đầu.
Không có tài liệu nào cho biết bức tranh này được đặt mua hay được hiến tặng cho dinh Độc Lập và duyên cớ xuất hiện bức tranh này tám năm sau khi khánh thành. Tranh được vẽ bằng chất liệu sơn dầu trên toan. Kích thước tranh nhỏ so với các bức trên, chỉ dài 3,85m và cao 1,75m. Tính cả khung là 3,89m x 1,79m. Thành khung dày 9,2cm. Tranh được lồng khung bằng gỗ, sơn vẹc ni màu nâu sậm. Góc trái của tranh có ghi tên tác giả và thời điểm sáng tác: “Lê Chánh 74”.
Nội dung tranh vẽ hai thiếu nữ trong trang phục áo dài chiếm khoảng lớn vị trí phía bên trái bức tranh, lớp cảnh giữa có hai nhân vật nam cùng hai tiểu đồng và một con ngựa trắng. Toàn thể là cảnh thiên nhiên, cận cảnh vẽ hoa cỏ, chim, hậu cảnh xa vẽ núi và trời, thể hiện trọn vẹn đoạn thơ tả cảnh hai chị em nhà họ Vương gặp Kim Trọng trong Truyện Kiều.
Tác giả đã Việt hóa cảnh này bằng cách cho hai nhân vật nữ mặc trang phục áo dài.
Họa sĩ Lê Chánh sinh năm 1940 tại Sài Gòn, học trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn từ năm 1959 đến năm 1964.
Qua thời gian, bức tranh Hai nàng Kiều đã bị rạn sơn, nhiều đường gập mặt sơn là dấu tích của tranh từng bị gấp lại.
Họa sĩ Lê Chánh, tác giả bức Hai nàng Kiều.
Ảnh: Niên giám Văn nghệ & Hiệp hội Văn hóa Việt Nam 1969-1970.
GẶP NGUYỄN CAO NGUYÊN, NHỚ HỘI HỌA SĨ TRẺ
Bức ảnh đen trắng ở trang bên được chụp nửa thế kỷ trước, khoảng năm 1966. Trong ảnh, ngồi thứ hai từ phải qua là nhà văn nổi tiếng thế giới, John Steinbeck, người đã đoạt giải Nobel với tác phẩm”Chùm nho uất hận”. Người đứng bên trái bận complet đen với dáng dấp lịch lãm là họa sĩ Nguyễn Cao Nguyên. Hôm đó, ông cùng những người trong giới nghệ thuật miền Nam tiếp nhà văn John Steinbeck tại Sài Gòn khi ông ta đến để tìm hiểu về cuộc chiến Việt Nam. Bức ảnh là một hoài niệm đẹp và là vinh dự cho người trong ảnh. Sau đó hơn một năm, John Steinbeck từ trần và có thể lần đến Sài Gòn đó chính là chuyến phiêu lưu cuối của ông.
Tấm ảnh nhắc nhớ cho họa sĩ Nguyễn Cao Nguyên thời tuổi trẻ tươi đẹp và thời hoạt động nghệ thuật hăng say nhất của ông, ở những năm giữa thập niên 1960. Lúc đó, ông cùng bạn bè vừa mới thành lập Hội họa sĩ Trẻ vào tháng 11 năm 1966 và đã được bầu làm chủ tịch của hội này.
Tôi gặp họa sĩ Nguyễn Cao Nguyên tại Sài Gòn trong một buổi chiều nhiều nắng vào cuối tháng 10 năm 2015 và còn gặp vài lần sau đó nữa. Đã lớn tuổi, sống nhiều năm ở nước ngoài, dù dấu thời gian đã hằn sâu trên dáng vẻ của ông nhưng nét lịch lãm của một chàng trai Hà Nội xưa từng học trường Albert Sarraut vẫn còn. Ông vẫn vẽ tranh ở tuổi trên 80, sử dụng kỹ thuật mới trên bàn vi tính hay tìm cách cải tiến kỹ thuật tranh màu nước để diễn tả cảm xúc trong sắc thái mới. Bây giờ ông đã lấy lại tên thật thay vì bút danh Ngy Cao Nguyên như hồi xưa.
Họa sĩ Nguyễn Cao Nguyên (đứng) trong buổi tiếp nhà văn John Steinbeck.
Ảnh: Báo TGTD tập XVI số 1.
Câu chuyện có đi tới đâu cũng quay về chuyện thành lập Hội họa sĩ Trẻ, cho dù tuy là người gầy dựng nên tổ chức này từ thuở ban đầu, họa sĩ Nguyễn Cao Nguyên không đi cùng các chặng đường hoạt động của Hội qua thời gian dài như các họa sĩ khác. Ông nhớ lại, giữa thập niên 1960 là khoảng thời gian có nhiều đoàn nghệ thuật nước ngoài đến thăm Sài Gòn. Cả thành phố lúc đó không có một hội đoàn mỹ thuật nào để ra tiếp đón họ cho ngang bằng. Sẵn thấy các họa sĩ có nhu cầu tập hợp với nhau để cùng thúc đẩy việc phát triển nghệ thuật, ông và bác sĩ Nguyễn Tấn Hồng, một người am hiểu hội họa tính đến chuyện thành lập một tổ chức riêng như là một sân chơi nghệ thuật cho giới họa sĩ trẻ Sài Gòn. Cả hai đã đứng ra thành lập dựa vào những mối quen biết và thanh thế sẵn có. Buổi họp bàn việc chính thức thành lập hội tại nhà bác sĩ Nguyễn Tấn Hồng có nhiều họa sĩ và điêu khắc gia mà hầu hết đều thành danh sau này như Hiếu Đệ, Cù Nguyễn, Nguyễn Trung, Nghiêu Đề, Nguyễn Phước, Nguyễn Lâm, Mai Chững, Đinh Cường, Hồ Thành Đức, Trịnh Cung cùng Nguyễn Cao Nguyên và chủ nhà Nguyễn Tấn Hồng. Lúc đó là tháng 11 năm 1966. Một ban lãnh đạo Hội được bầu ra và họa sĩ Nguyễn Cao Nguyên được bầu làm Chủ tịch lâm thời, họa sĩ Nguyễn Trung và họa sĩ Mai Chững là Phó Chủ tịch, họa sĩ Trịnh Cung làm Tổng Thư ký.
Việc trước mắt là phải có trụ sở để làm việc. Bác sĩ Nguyễn Tấn Hồng do mối quan hệ quen biết đã mượn được của chính quyền thời đó một khu đất để tạo dựng trụ sở ngay trung tâm thành phố tại góc đường Công Lý (Nam Kỳ Khởi Nghĩa) và Lê Thánh Tôn. Tận dụng mối quan hệ quen biết của họa sĩ Nguyễn Cao Nguyên, Hội tìm được một căn nhà phế thải trong sân bay Tân Sơn Nhứt và sau khi trao đổi với giới Không quân trong đó vài bức tranh mang tính tượng trưng, căn nhà trên được dỡ ra để tận dụng vật liệu. Họa sĩ Hồ Thành Đức chủ trì thiết kế và xây dựng ngôi nhà này cùng sự góp sức của anh em họa sĩ.
Họ dựng lên một căn nhà khá đẹp, hiện đại bằng gỗ thông và sơn trắng.
Có trụ sở khá đẹp lại ở trung tâm thành phố nên Hội trở thành nơi thu hút đông đảo giới nghệ sĩ. Trụ sở gần quán Văn phía Đại học Văn khoa thường trình diễn ca khúc Trịnh Công Sơn nên các nhạc sĩ như Trịnh Công Sơn, Vũ Thành An vẫn thường lui tới và ngủ lại. Thỉnh thoảng, có ca sĩ Khánh Ly ghé qua chơi. Trụ sở Hội đã thành một nơi lý tưởng để tụ họp giới nghệ sĩ trẻ đang tưng bừng không khí sáng tác hội họa, âm nhạc. Đã có nhiều cuộc triển lãm tổ chức ở đây, những buổi trao đổi và đàn hát và có khi là bắt đầu một cuộc tình… Là chủ tịch Hội, họa sĩ Nguyễn Cao Nguyên đứng ra thay mặt anh em tiếp phái đoàn, tổ chức triển lãm. Thỉnh thoảng có những bức tranh được khách đến mua. Thời đó, tranh hầu hết là vẽ sơn dầu của Nguyễn Trung, Trịnh Cung, Nguyễn Phước, Nguyễn Lâm, có tranh lụa của Nghiêu Đề, Lâm Triết, tranh dán giấy của Hồ Thành Đức, v.v… Có những cuộc tiếp khách quốc tế do chính phủ đưa đến. Hội có thêm các họa sĩ đến tham gia như Hồ Hữu Thủ, Đỗ Quang Em, Nguyên Khai, Hoàng Ngọc Biên, Dương Văn Hùng, Nguyễn Đồng, Rừng, Lâm Triết…
Sau Tết Mậu Thân 1968, anh em họa sĩ quay trở lại khi cuộc chiến yên ắng và nhận ra ngôi trụ sở màu trắng của họ đã bị san bằng. Không ai biết do ai và lý do nào nó đã bị như vậy. Ngôi nhà xinh đẹp đầy chất nghệ thuật đó chỉ tồn tại trong vòng hai năm, ngắn ngủi nhưng đủ để tạo nên không khí sáng tạo của nhóm họa sĩ nổi tiếng, hiện đại nhất và có nhiều thành tựu rực rỡ nhất của hội họa miền Nam hiện đại lúc đó. Các họa sĩ thuở ban đầu sau này hầu như chói sáng, trở thành những họa sĩ có tên tuổi.
Mùa hè 2015, họa sĩ Nguyễn Cao Nguyên trở về Việt Nam với ý định nghỉ ngơi cùng gia đình. Nhưng từ duyên cơ ngẫu nhiên, ông tổ chức một cuộc triển lãm nhỏ tranh màu nước thể loại trừu tượng với kỹ thuật thể hiện do ông sáng tạo, gọi là “âm họa” (negative painting). Cuộc triển lãm không quảng bá rộng rãi, cốt yếu lưu dấu để ghi nhớ những ngày tươi đẹp của tuổi trẻ nửa thế kỷ trước, khi ông cùng bạn bè cho ra đời một tổ chức của những họa sĩ dồi dào sức sáng tạo nhất của Sài Gòn một thời.
Tác phẩm mới nhất của họa sĩ Nguyễn Cao Nguyên triển lãm tại Sài Gòn năm 2015.
Ảnh: Nguyễn Đình.
CON ĐƯỜNG RIÊNG CỦA HỒ HỮU THỦÔng được gọi là “thuật sĩ của sơn mài”. Trên báo Journal d’Extrême Orient người ta so sánh ông với Chagall, với Henri Rousseau [1] . Những bức tranh treo ở nhà ông đậm chất lãng mạn, bay bổng nhưng cách trò chuyện của họa sĩ Hồ Hữu Thủ lại có phong thái tỉnh táo, khoan hòa và dung dị của một người từng trải, thích nghiền ngẫm, suy tư về bộ môn nghệ thuật mà ông gắn bó cả đời.
Trong phòng tranh rộng của ông trên đường Nguyễn Văn Thủ, khách đến thăm ngồi giữa các hình tượng thiếu nữ bay lơ lửng, hoa sen nở e ấp và những mảng màu trong các bức tranh như lững lờ trôi chung quanh. Cả nền gạch và đá lót cầu thang cũng nằm trong tông màu ông biểu hiện trên các bức tranh, hồng ngọc và màu lam, chút nâu đỏ, màu hạt lựu, đỏ son, xanh úa... Hội Họa sĩ Trẻ, cái tên đã trở thành một huyền thoại của hội họa Sài Gòn, hội họa miền Nam một thời, có ông trong đó, và Hồ Hữu Thủ cũng đã là một tên tuổi lớn của hội họa Việt đương đại.
Họa sĩ Hồ Hữu Thủ quê gốc ở Nghệ An nhưng sinh ra ở Bình Dương, cái nôi của thủ công mỹ nghệ miền Nam. Lớn lên, ông theo học trường Mỹ nghệ Bình Dương về trang trí nội thất, ngành mỹ thuật ứng dụng còn rất non trẻ lúc đó, từ 1955 đến 1959. Năm 1960, khi 20 tuổi, ông vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định để học vẽ sơn dầu. Trước đó, năm 1959, ông đã đoạt giải Nhì sáng tác hội họa ESSO, một giải hội họa có uy tín do Công ty ESSO tổ chức.
Trước 1975, hầu như các họa sĩ đều vẽ bằng sơn dầu, được coi là chất liệu “vua”. Cũng có một số họa sĩ vẽ bằng phấn tiên, màu nước hay thủ ấn họa như họa sĩ Tú Duyên. Họa sĩ Nguyễn Gia Trí, cây đại thụ sơn mài của mỹ thuật Đông Dương vẫn trung thành với sơn mài và đi theo hướng đi riêng, có nguồn khách hàng riêng. Các tác phẩm sơn mài trên thị trường hầu hết là sơn mài mỹ nghệ ở những lò nổi tiếng lúc đó như Trung tâm mỹ nghệ Mê Linh của họa sĩ Nguyễn Văn Minh, hãng sơn mài Thành Lễ hay hãng Trần Hà. Ngoài ra, không có mấy người sáng tác tranh sơn mài.
Khác với giới họa sĩ lúc đó, niềm yêu thích chất liệu sơn ta vẫn âm ỉ trong lòng Hồ Hữu Thủ cho dù ông không học sáng tác chuyên về chất liệu này. Suốt thời niên thiếu sống ở Bình Dương, trong cái nôi sơn mài mỹ nghệ truyền thống của miền Nam, ông nhận ra vẻ đẹp đằm sâu của sơn ta trong sáng tác. Lúc đó, tuy hai miền Nam Bắc đang bị chia cắt, sơn Phú Thọ (gọi là sơn Bắc) vẫn vào được miền Nam, có thể qua đường Campuchia. Loại sơn này được dùng phối hợp với sơn Nam Vang (cũng từ Campuchia, được trồng tại chỗ), tạo nên vẻ đẹp riêng biệt của tranh và đồ mỹ nghệ của miền Nam.
Triển lãm cá nhân đầu tiên của ông được tổ chức năm 1972 ở Alliance Francais (viện Trao đổi Văn hóa Pháp) trên đường Gia Long (Lý Tự Trọng). Trong số tranh trưng bày, hầu hết là sơn dầu, có mỗi bức sơn mài lấy tên Cô gái và chim đại bàng khổ một mét và tám tấc. Trong bức này, ông vẽ một cô gái tóc dài, góc phía trên có con chim ó, tông chính màu vàng đất. Trong đợt triển lãm, ông Tùy viên văn hóa Tòa Đại sứ Mỹ đến xem và hỏi giá. Trước giá tranh tương đương hai lượng vàng lúc đó, ông ta xin... trả góp. Cuối cùng việc mua bán không thành. Đó là câu chuyện nhắc lại cho vui, nhưng phần nào khiến Hồ Hữu Thủ tin rằng mình có thể dùng chất liệu sơn ta để làm nên những tác phẩm sơn mài mang tính mỹ thuật thực sự.
Sau 1975, các họa sĩ Sài Gòn dùng sở trường của mình kiếm sống bằng nhiều cách vì lúc đó không có thị trường tranh. Họ vẽ bìa sách, vẽ tranh cổ động, trình bày báo. Lúc đó, nền mỹ nghệ miền Nam thoái trào cũng vì mất thị trường. Các hãng mỹ nghệ danh tiếng như Trần Hà, Thành Lễ sau thời gian phát triển tột đỉnh đã ngưng hoạt động. Họa sĩ Hồ Hữu Thủ tiếp tục dạy học tại Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định, lúc đó đã đổi tên thành Cao đẳng Mỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh.
Chân dung Hồ Hữu Thủ tự chụp.
Đến cuối thập niên 1980, nhu cầu tranh sơn mài bỗng dâng cao từ nước ngoài, trong giới chơi tranh phương Tây và trong cộng đồng người Việt thành đạt tại hải ngoại. Họ là những người từng mơ ước có những bức tranh sơn mài cao cấp nhưng khi xưa không có điều kiện với tới. Một người Pháp tìm đến Sài Gòn và muốn mua tranh sơn mài một số họa sĩ đã từng nổi tiếng tại Sài Gòn mà ông biết tiếng như Nguyễn Phước, Nguyễn Lâm, Nguyễn Văn Rô và Hồ Hữu Thủ. Các họa sĩ này được sáng tác theo ý thích của mình, không bị áp đặt về đề tài, nội dung nhưng điều kiện tiên quyết là phải sáng tác bằng chất liệu sơn ta. Họa sĩ Hồ Hữu Thủ đón nhận cơ hội này, cảm thấy hạnh phúc vì đã quay trở lại thời kỳ sơn mài. Ông nắm bắt chất liệu, hứng thú đi tìm những thể nghiệm mới, những cách biểu hiện khác lạ. Ông trung thành với hội họa ấn tượng rồi nâng lên dần khuynh hướng siêu thực. Đến 1985, ông chuyển qua các đề tài trừu tượng và nhận ra rằng sơn ta có thể biểu hiện tốt điều ông nghĩ, tâm thức ông cảm nhận. Đến một chặng đường trong sáng tác, ông không hài lòng với kỹ thuật truyền thống khi sáng tác bằng sơn ta, đó là mài phẳng để lộ các lớp sơn để thể hiện hình tượng, cảm xúc của tác giả. Ông cảm thấy cách thức đó đã có những hạn chế trong biểu đạt nên mạnh dạn cải tiến trên nền chất liệu sơn ta, vóc. Không nhất thiết phải mài tất cả, có thể không mài hay có khi chỉ một phần. Có thể dùng các chất liệu khác như bao bố, gỗ dán lên mặt tranh… Tất cả đều có thể là phương tiện biểu đạt, miễn hài hòa với nhau trong tranh và diễn tả được điều muốn thể hiện. Ông tự gọi đó là sơn ta tổng hợp cho những bức tranh của ông. Đối với riêng ông, đã qua thời kỳ sơn mài.
Các tác phẩm của Hồ Hữu Thủ.
Tượng nhà thơ Bùi Giáng - tác phẩm điêu khắc của Hồ Hữu Thủ.
Năm mươi năm trước, thời sáng tác trong Hội Họa sĩ Trẻ là thời kỳ hạnh phúc của Hồ Hữu Thủ, một sinh viên xa nhà tắm mình trong không khí nghệ thuật của Sài Gòn đang ở thời kỳ phát triển khoáng đạt nhất, nhiều thành tựu nhất. Đó là lúc các cuộc triển lãm liên tục được tổ chức, sức sáng tạo của ông đang mạnh mẽ, lại được sự khích lệ của bạn bè nghệ thuật. Đến giai đoạn tự một mình đi trên con đường cải tiến nghệ thuật, ông sáng tác bằng sơn ta với phong cách riêng biệt, tự tạo dựng bằng những kỹ thuật riêng biệt. Hẳn ông cũng đơn độc trên con đường đó, nhưng giá của nó là sự thành công khi ta nhìn những bức tranh ấn tượng hay trừu tượng bằng chất liệu sơn ta tổng hợp của ông.
Hồ Hữu Thủ thích kể một câu chuyện cũ. Tại nhà ông, một vị khách là dân kinh doanh vốn mê tranh, sau khi đi một vòng đã chỉ một bức trừu tượng bằng chất liệu sơn dầu và nói với ông: “Tôi thích bức tranh này nhất trong tất cả các bức!” . Nhưng rồi sau đó, ông ta bộc bạch: “Nhưng nói thật, tôi không hiểu anh vẽ cái gì!” . Hồ Hữu Thủ trả lời: “Anh không biết cũng phải, vì tôi cũng không biết tôi vẽ cái gì!”. Ông nhớ câu chuyện đó như một ví dụ, là chỉ có thể hiện bằng tâm thức mới có sức mạnh lớn lao để truyền cảm xúc đến người thưởng lãm tranh. Ông nguyện đi theo con đường đó.
Cách nay đúng hai mươi năm, 1995, tôi thường lui tới Clay gallery của nghệ sĩ người Mỹ gốc Việt Khưu Đức ở đường Trần Cao Vân. Ở đó, tôi xem tranh của Đinh Cường vẽ trên miếng phim, tranh sơn mài bán trừu tượng vẽ bình gốm của họa sĩ Nguyễn Lâm và tranh sơn–không–mài trừu tượng của Hồ Hữu Thủ. Những bức tranh của Hồ Hữu Thủ không dễ cảm nhận lúc đó, nhưng sau hai mươi năm nhìn lại những sáng tác sau này, dễ thấy rằng dù ấn tượng hay trừu tượng, có hình hay không có hình, tranh của ông tươi tắn hơn, trẻ trung hơn, mềm mại hơn, có sức sống hơn cho dù ông đã có tuổi. Đó là cảm nhận của riêng tôi.
Sài Gòn với một nền mỹ thuật có những giai đoạn đáng tự hào, đó là giai đoạn từ đầu thập niên 1960, trong đó có sự đóng góp của Hội Họa sĩ Trẻ, của Hồ Hữu Thủ, một người thích tìm con đường riêng cho mình trong sáng tác, có tài năng lớn. Ông đã sáng tác nên một thế giới mà trong đó “Người, vật, thiên nhiên đều đã được lựa chọn và biểu tượng hóa, không còn hợp lý với cái nhìn bình thường, tất cả đều hiện ra trong một bầu không khí chung đẹp đẽ, tươi mát, hồn nhiên, tổng hòa trong một bút pháp vừa thực vừa siêu thực, để đi tới một cái đẹp tinh túy của nghệ thuật tượng trưng”, như lời nhà phê bình Huỳnh Hữu Ủy đánh giá một cách đầy đủ.
SÀI GÒN QUA KÝ HỌA DICK ADAIRĐó là một cuốn sách cũ bằng tiếng Anh xuất bản cách nay gần nửa thế kỷ, năm 1971. Cuốn sách có cái tên Saigon, sketches and words from the artist’s journal. Bìa 3 có hình chân dung tác giả của tập ký họa này, họa sĩ Dick Adair. Trông ông phong trần, rắn rỏi, đúng như hình dung về các nhà báo quốc tế viết về các cuộc chiến trên thế giới. Đọc qua tiểu sử ngắn gọn của ông ở bìa 3, dễ thấy rằng ông như nguyên mẫu cho một nhân vật tiểu thuyết phiêu lưu hiện đại, hoạt động quốc tế và đi xuyên qua các cuộc chiến tranh. Ông từng là biên đạo múa, vũ công, thủy thủ, lang thang vẽ ký họa ở Nhật Bản... trước khi đến miền Nam Việt Nam, chứng kiến cuộc chiến và thâm nhập vào cuộc sống Sài Gòn thập niên 1960, thành phố vừa đang có chiến tranh vừa sục sôi không khí làm ăn buôn bán.
Người viết lời tựa cho cuốn sách này chính là nhà báo huyền thoại người Mỹ Peter Arnett, tác giả của hơn ba ngàn bài báo về cuộc chiến tại Việt Nam trước 1975. Cảm nhận về những bức ký họa hấp dẫn vì sức mạnh diễn tả sắc bén qua ngòi bút sắt đời sống của một thành phố trong thời chiến, Peter Arnett viết: “Chính những người Việt mà họa sĩ Dick Adair đã khắc họa trong những bức ký họa này, và chính khi ngồi xem những bức ký họa và ghi chép từ nhà xuất bản gửi đến, trong lúc đang ngồi viết lời tựa vào một ngày mùa đông lạnh lẽo này, tôi mới cảm nhận lại một lần nữa những con đường oi bức của Sài Gòn, bầu không khí ngột ngạt và những bước đi luồn lách trên vỉa hè để tránh né những người bán hàng tràn lan mọi ngóc ngách hè phố. Dick Adair đã nắm bắt được nhiều phẩm chất trong các bức ký họa. Một trong những phẩm tính đặc biệt rực sáng đối với tôi là sự chịu đựng của người Việt Nam...”
Ông cho rằng họa sĩ Dick Adair đã hồn nhiên rong chơi vào xứ sở nhiệt đới này để hưởng thú phiêu lưu và tìm cơ hội trổ tài ký họa, một tài nghệ ông đã theo học với họa sĩ thông tín viên John Groth tại Art Students League ở New York. Dick Adair trung thành với mục đích ban đầu đã đưa ông đến Việt Nam: vẽ về chiến tranh. Dick Adair có khả năng kỳ lạ hiếm hoi trong việc nắm bắt tinh thần của chủ thể bằng nét vẽ tối giản mà Peter Arnett cho là “Các bức ký họa của ông hổn hển với chuyển động” . Dick Adair gọi chúng là “hội họa cử chỉ” và chúng cho thấy Sài Gòn của ông – những cô gái quán bar, dân chúng trên đường phố, những người lao động và hàng loạt những con người khác, bình thường và lạ thường. Peter Arnett đánh giá cao các bức tranh về Sài Gòn này và cho đó là những bức đẹp nhất. Chúng sục sôi với đời sống đường phố, có lẽ vì đơn thuần được vẽ vì hứng thú và không chịu áp lực của thời hạn. Trong tranh, tác giả nắm bắt được hình ảnh những cô chiêu đãi viên quán rượu ích kỷ đến mức tàn nhẫn, những nữ hoàng của một thành phố đang bị giày xéo bởi chiến tranh và rất dễ buông mình cho sự tha hóa. Hoặc là tay mua bán chợ đen đang rảo bước trên đường phố, một mắt dáo dác canh chừng đám cảnh sát, một mắt lo ngó nghiêng đám con nít đường phố có thể nhanh tay chộp lấy một miếng xà bông hàng tiếp liệu PX và biến mất dạng trong ngõ hẻm. Và còn hàng trăm nhân vật quen thuộc khác. Dick Adair đã ký họa họ tại chỗ, ngay trên mặt sau của những tờ vận đơn, hóa đơn, những miếng lót ly trong quán rượu và đôi khi trên một tập giấy ký họa. Theo Peter Arnett, phần lớn ký họa của Dick Adair ắt hẳn mang tính trị liệu, cho ta một cái nhìn trí tuệ sâu thẳm vào bên trong những cảnh vật một chiều mà ông đang sống, một chiều là bởi một người nước ngoài sẽ sớm nhận ra ở Sài Gòn anh ta không được phép thâm nhập sâu hơn lớp vỏ ngoài cùng của xã hội... Các nhân vật trong sách này – những người đạp xích lô, những người tỵ nạn, những cô gái giang hồ, thầy tu, trẻ em đường phố, cảnh sát, binh lính, dân chợ trời và các tù binh chiến tranh – đã cho thấy những gương mặt gây ức chế nhiều nhất đối với những ý định quyết liệt nhất của người phương Tây ở Việt Nam. Và không chỉ có thế, không khí của một xứ sở thời chiến đã được khắc họa kỳ tài ở đây. Đối với những ai đã từng sống ở Sài Gòn, những bức ký họa sống động này sẽ làm sống dậy rõ nét mồn một cảm xúc đắng cay, ngọt bùi của những năm tháng đã qua ấy.
Chân dung Dick Adair và bìa cuốn sách của ông.
Đối với họa sĩ và cũng là nhà văn Dick Adair, nơi ưa thích của ông trong những ngày sống ở Sài Gòn thập niên 1960 là khách sạn Continental nằm cạnh quảng trường Lam Sơn ở khu trung tâm Sài Gòn. Ở đó, là nơi quen thuộc để ông có thể thả bộ và gặp gỡ bạn bè, ngồi ở terrace ngoài hiên khách sạn để nhấm nháp một ly gin với tonic. Hầu hết thời gian của ông khi ở Việt Nam diễn ra ở Sài Gòn. Ông kể rằng mình ở trong thành phố và chiến tranh thì ở bên ngoài, mặc dù không xa lắm để có thể giết thời gian buổi tối bằng cách thả mình ở sảnh, trên nóc khách sạn Majestic để theo dõi những chiếc trực thăng nã đạn vào những vị trí tình nghi bên kia sông. Ông hồi tưởng: “Trên đường phố, mọi người dường như lãng quên mọi hoạt động ngoại trừ những gì họ đang uể oải làm. Thỉnh thoảng một làn gió từ sông lại thốc lên mang theo mùi dầu mỡ và rác mục, nhưng ở chỗ ngôi thánh đường ở cuối đường Tự Do (Đồng Khởi ngày nay), chẳng một chiếc lá nào lay động trừ phi bị tác động bởi cái nóng bức trên vỉa hè. Khắp nơi không khí ken đặc vị ngọt đến mức phát bệnh của trái cây và bông hoa đang mục nát. Trừ những người đang lục lọi các đống rác trên đường phố, hầu như khách bộ hành chẳng quan tâm đến mọi thứ đang tồn tại xung quanh, có lẽ bởi mùi hôi đã trở nên một đặc tính của bầu không khí khu này. Ở sâu trong các con hẻm, những cánh cửa cái và cửa sổ của những ngôi nhà gỗ và những căn gác lát tường thạch cao đều mở tung. Ta có thể lia mắt vào và nhìn thấy người ta đang giặt đồ, nghe radio, và ngửi thấy mùi nước mắm đang xào nấu trên bếp”. Tuy không phải luôn cảm thấy thoải mái, ông thật sự thấy thích thú vì được làm theo ý của mình. “Bất chấp bụi bặm và các loại mùi hôi, nơi đây thật tuyệt vời để vẽ” . Ông quan sát cuộc sống Sài Gòn lúc đó chưa diễn ra chiến tranh ngay trên đường phố. Ông ghi nhận: “Tết, ngày lễ Nguyên Đán, là dịp lễ hội lớn nhất trong năm của người Việt. Đó là ngày sinh nhật, Giáng sinh và năm mới của tất cả mọi người, tất cả dồn vào tám ngày trọng đại để vui vầy. Nguyễn Huệ biến thành “chợ hoa” và tất cả xe cộ đều bị chặn lại để nhường chỗ cho những người bán hoa và bán dạo đồ chơi. Suốt cả tuần lễ, cả thành phố nổ vang tiếng pháo từ sáng đến đêm, mà đỉnh điểm là cuộc chè chén suốt ngày đến mức cả lệnh giới nghiêm cũng phải đình hoãn”. Ông tâm sự là vẽ, về mặt nào đó, gần như là để trị liệu đối với một bệnh nhân tâm thần. Các bức họa ông vẽ là tuyên ngôn của riêng ông, lời phàn nàn về cái nóng, về giá cả phòng trà Sài Gòn, và sự vô cảm của những cô gái giang hồ. “Tất cả đều khắc ghi lại một phần quan trọng trong đời tôi. Trong khi cuộc sống đô thị có những khoảnh khắc không thể nào quên, mọi chuyện thường đơn điệu. Thế rồi, như hàng ngàn người khác trong cộng đồng người nước ngoài ở Sài Gòn, tôi tìm vui với những quán rượu và quán ăn trong hẻm, đi picnic và dã ngoại ở những vùng an toàn, tiệc tùng xa hoa và để mắt tìm những thứ giải trí mới. Vẽ ký họa cuộc sống đô thị là một trong những thú vui như thế... Nếu hầu hết những gì tôi đã trải nghiệm không phải là chiến tranh thì chắc chắn cũng cho thấy một sự phản ánh chiến tranh... Nói tóm lại, tất cả những gì tôi quan sát thấy và có liên quan đến tôi. Cuốn sách này là chứng nhân cho những năm tháng tôi sống ở Việt Nam từ 1965 đến 1970”.
Trong cuốn sách, Dick Adair viết một đoạn rất hay với tựa đề Sài Gòn mới và những người thời cũ. Qua những dòng này, tác giả cho thấy khái niệm “thời hoàng kim” thời nào cũng có. Người ta luôn tiếc nuối thời đã qua và không mấy ai biết tận hưởng thời mình đang sống, dù ý thức rằng khoảnh khắc hiện tại sẽ là “thời hoàng kim” của sau này.
“Lúc nào cũng sẽ có một người đâu đó bên cạnh kể lể cho ta nghe – thiên thu bất tận – về Sài Gòn ngày xưa tươi đẹp ra làm sao. Đáng ngạc nhiên thay, những người này không phải lúc nào cũng là những người xưa cũ từ thời Tây... lúc nào ta cũng có thể tìm thấy – hầu như chỉ cần khẽ chạm khuỷu tay trong quán rượu - một, hai gã vẫn còn nhớ về những ngày tháng đường phố được chạy xe hai chiều và con người vẫn còn kham được rác rưới trong thành phố. Những người còn sót lại của thời vàng son xưa này thường tiếc nhớ mùi vị ngọt ngào của ly vermouth ở khách sạn L’Admiral chiều thứ bảy và cảnh tượng đầy nên thơ khi các quý cô vóc dáng nhỏ nhắn tha thướt tà áo dài trên đường Catinat, tóc xõa dài đến ngang hông, đen óng như lông quạ. Trong hồi ức của họ chẳng hề tồn tại tiếng xe Honda gầm rú, chẳng bao giờ có những cô gái mặc váy mini, vừa búng ngón tay vừa nhai kẹo cao su, tóc nhuộm đỏ, trong các quán bar đường Tự Do.
Đáng buồn nhưng thật vậy, những ngày vàng son của Sài Gòn đã mãi mãi không còn – chỉ còn trong ký ức. Những đại lộ danh tiếng rợp bóng cây của Sài Gòn đã được mở rộng để có chỗ cho xe tải, xe jeep và xe Honda đang lấn át các xe xích lô. Cây cối đã bị đốn để làm bàn ghế. Sàn bóng lộn của những ngôi biệt thự bắt đầu in dấu giày lính, rèm màu phấn đã vén lên, trần hạ thấp xuống, những chiếc quạt khổng lồ bị tháo dỡ để nhường chỗ cho máy lạnh đang ngấu nghiến nuốt lấy sản lượng điện đang thiếu hụt.
Mặc dù đầy cảm xúc, câu chuyện buồn bã của những người thời cũ ấy cũng không thiếu sự trớ trêu. Bởi vì những người kể chuyện ấy chính là những thương gia đã đóng góp vào nỗ lực của guồng máy chiến tranh bằng những thứ họ kinh doanh như bia lon, ghế xoay cho quán bar, bồn tắm bằng thép không rỉ, lò hấp, lò nướng barbecue, lò pizza, bàn ping pong, quầy kệ dán formica và những thứ thiết yếu khác như khoai tây chiên Granny Goose, Beanie Weenies và thịt bò khô.
Nhưng Sài Gòn xưa chắc chắn có nét duyên mà thành phố mới thiếu hụt. Trước đó chẳng bao nhiêu năm, người Việt khá giả và người nước ngoài đều cùng hưởng thú ngồi ở nhiều quán café trên vỉa hè thành phố. Nhưng rồi sự xuất hiện của máy lạnh đã quyến rũ một số khách vào trong nhà... Khung cảnh mới an toàn hơn một cách không gì có thể chối cãi được, nhưng quá ảm đạm và mốc meo. Và người ta cũng mất đi thú vui thanh bạch của việc ngồi lặng yên dõi nhìn cảnh vật trôi trước mắt trong khi nhấm nháp một ly nước...” (lược trích)
Khi có trong tay cuốn sách này, trước khi đọc phần bài viết, tôi không khỏi mê say những bức phác thảo bằng bút sắt của ông. Hình ảnh cuộc sống Sài Gòn hiện ra rất sinh động, có khi rất xô bồ, có khi dữ dội của một thành phố miền Nam trước 1975. Nét bút của ông đôi khi cường điệu khi diễn tả một dáng đứng, một tư thế ngồi, một kiểu cách hoạt động nào đó nhưng hiện thực cuộc sống do ông phác họa lại chân thực và sinh động. Là người quan sát, một người nước ngoài đến ghi nhận cuộc sống ở một đất nước xa lạ nhưng Dick Adair không vô cảm. Trong các bức ký họa, cảm xúc về người lao động nghèo trên đường phố của ông là cảm thông, có gì đó chua xót và mỉa mai về những nghịch cảnh đang diễn ra giữa giàu và nghèo, chi phí khổng lồ cho chiến tranh và sự nghèo đói của người dân. Ông cảm nhận tốt về nhịp điệu sống của người Việt trong cái nóng nhiệt đới đầy mệt mỏi vì chiến tranh, ly hương, luôn phải tránh những mối nguy hiểm có thể xảy ra. Tất nhiên ông có cái nhìn đôi khi hạn chế, nhất là khi ông chỉ tiếp xúc với một số tầng lớp nào đó, một số ít phụ nữ thuộc nhóm nào đó. Nhưng cho dù thế nào đi nữa, ngòi bút vẽ của ông chân thật và khách quan.
Sau lần đầu đặt chân lên thành phố này từ cảng Sài Gòn, Dick Adair kể trong sách rằng cho dù cuối cùng ông cũng được ra chiến trường để thực hiện vai trò người làm báo, thì sự hòa nhập của ông với đời sống Sài Gòn mới là câu chuyện thú vị hơn mọi kế hoạch ông đã trù tính. “Trong vai trò một khán giả không can dự, tôi đã có được một ấn tượng phong phú và chân thực về Sài Gòn không dễ gì có được. Điều nuối tiếc duy nhất của tôi là đã không có dịp vẽ lại cái ngày mà tất cả những chiếc ban công sắt uốn kia sẽ phủ đầy hoa nhài và những người phụ nữ sẽ tung hoa xuống cho đám đông đang reo hò trên đường phố - ngày hòa bình trở lại với Sài Gòn và toàn thể Việt Nam” . Cho dù những nét vẽ có lúc cay nghiệt, tôi nghĩ rằng ông có cái nhìn rất nhân hậu, bộc lộ trong câu kết trên của cuốn sách.
Những bức tranh trong bài là một phần nhỏ được trích trong cuốn sách mà người giới thiệu cảm thấy lý thú. Sách được Công ty John Weatherhill (Hoa Kỳ) xuất bản lần đầu năm 1971. Bản dịch tiếng Việt trích ở đây có sự giúp đỡ của Công ty Sách Phương Nam.
ĐÊM THỦY TIÊN
Căn nhà xây dọc đường rầy xe lửa cổng số 7 gần ga Phú Nhuận cũ, không khác mấy những ngôi nhà đúc một tầng ở Sài Gòn trước 1975, ở góc trái sân nhà có cầu thang xoắn ốc để lên lầu mà không cần vào trong nhà.
Khi tôi đến giao bức thư, cô gái ra nhận đứng bên cái cầu thang xoắn và không mời vào nhà. Lần sau, tôi bước vào theo lời mời và nhận ra một mùi hương thoang thoảng từ chiếc áo đầm trắng hơi rộng của cô. Phòng khách có một cái bàn rộng, trên bàn đặt những xấp vải đang cắt dở. Cô gái đọc bức thư của người phương xa với gương mặt bình thản. Tôi ngồi yên, dành những giây phút riêng tư cho cô.
Sau này thân thiết hơn, cô cho biết đó là những lúc cảm thấy bình an khi biết người bạn đáng mến kia đã an toàn đến một đất nước ở nam bán cầu. Người bạn kể về một buổi chiều nhìn sương lạnh phủ lên tòa nhà Con Sò mà nhẩm câu hát: “Đêm chập chờn buông lên giấc mộng/ Em vẫn thường gặp anh như lúc xưa nơi sân trường...”. Lời bài hát khá ủy mị, nhưng khi nhớ lại hình ảnh người bạn mà cả hai chúng tôi đều quý mến, chợt thấy nó gần gũi kỳ lạ. Chúng tôi cùng học dưới mái trường N. những năm đầy khó khăn của đất nước. Khoảng thời gian đó, lớp nào cũng có chuyện mỗi tuần bị rơi rụng vài gương mặt. Có người ra quân trường, có người lên thuyền ra đi. Người ở lại ngồi trong lớp mà thấy bất an tưởng chừng như chiến tranh đến nơi, thấy cảm xúc vội vàng dâng trước dáng áo dài nghiêng nghiêng hay một ánh mắt ấm áp. Cô gái này hồi đi học hay đứng tựa hành lang, khá bình thản trước những lời trêu đùa bóng gió hay mạnh bạo của đám con trai. Tóc cô dài và cành liễu rủ sát ban công lầu một cũng dài. Tôi và nhiều bạn trai khác mong đến giờ ra chơi chỉ để ngắm hình ảnh ấy mà thôi. Những năm trẻ trai hồi mới lớn ăm ắp cảm xúc và đầy rụt rè.
Bây giờ, cô gái ngồi trước tôi, phe phẩy chiếc quạt giấy tím hướng ngọn gió vào cho tôi hơn là cho mình. Chúng tôi kể về dăm kỷ niệm hồi đi học, về người bạn đang ở xa và những câu chuyện trong bức thư. Thư đi cả tháng trời mới tới, có khi hai tháng, tả về mùa đông khi tuyết đã tan và mùa xuân đang đến. Tôi đánh đàn cho cô hát bài Dấu chân địa đàng , và cùng nhau cười rúc rích khi đọc lại cuốn Chú Tư Cầu. Cô đỏ mặt tới những đoạn viết rất thật về tình yêu nam nữ vùng quê. Lúc đó là men say, là cảm xúc rạo rực, là mật ngọt hương trầm. Rồi tôi lấy xe ra về, chạy chậm rãi dọc đường rầy mà thấy đời sao nhẹ tênh.
Một đêm Hai Mươi Tám Tết, tôi được mẹ cô nhờ đến thức canh giúp nồi bánh chưng. Nhà toàn phụ nữ và con nít nên bà lo lắng. Tối đó, tôi đi bộ từ nhà qua, dọc theo đường rầy và hát thầm trong miệng. Trời rất mát và hơi pháo nồng thơm, đời có mấy khi được vui một cách thanh sạch như vậy! Nồi bánh chưng mẹ cô đã nổi lửa từ khi nào không biết, to đùng và đen đúa nhọ nồi.
Chủ nhà sống một mình nuôi con từ nhiều năm nay. Bà còn giữ phần nhan sắc đã có hồi còn trẻ, cả những nét lãng mạn của một phụ nữ đa cảm của Sài Gòn thích nhạc Cung Tiến, Phạm Đình Chương... Ra ngồi bên cạnh nồi bánh chưng, bà đọc mấy câu thơ được in trong Tập san của Hội Việt Mỹ:
“Có những mùa xuân không tiếng pháo/ Quê hương xa cách vạn trùng dương/ Giao thừa về nhớ giao thừa cũ/ Bên những người thân bao mến thương/ Ánh nến lung linh tàn ánh lửa/ Hương thừa năm cũ vọng mười phương/ Hàng lan bên giậu xông ngoài ngõ/ Thơm quần áo mới guốc khua đường...
Bánh chưng đậu đãi nhân đường gói/ Hăm Tám còn ăn đến mùng Năm/ Mùng Ba thang cuốn bàn thờ dọn/ Đầu năm đi lễ bói xin xăm..."
Cô gái hỏi: “Thang cuốn là sao hở mẹ?”
Bà mẹ: “Con vẫn nhớ món bún thang mẹ đã làm cho con ăn?”
Bà kể, sau ba ngày Tết, người ta thường có thói quen làm cỗ cúng tiễn ông bà ông vải. Trong món cỗ đó, thế nào cũng có hai món là thang và cuốn. Thang, là món bún trần nước sôi, trong đó có các món dăm, mắm tôm, tôm he giã bông, giò lụa thái nhỏ, thịt gà nạc xé tơi, trứng muối. Khi ăn phải trần nước dùng nấu bằng xương gà, xương lợn và vỏ tôm. Còn cuốn thì có bún sống, mật trộn với giấm cái, lạc rang giã nhỏ. Thịt rọi, củ cải khô, tôm con nõn hay tôm he, dùng lá rau diếp cuốn lại như cuốn trầu không. Khi ăn chấm với nước mắm cà cuống.
“Tại sao phải cúng tiễn ông bà bằng thang cuốn?”
“Theo tục lệ, khi có người chết đến ngày thứ ba (kể từ ngày đưa ma), người nhà phải làm lễ phục hồn để cho người chết biết rằng mình đã chết và cầu cho linh hồn ấy được lên cõi trên. Trên bàn thờ, ông thầy cúng làm một cái thang bằng bẹ lá chuối, bắc từ bàn thờ lên mái nhà, hồn người chết sẽ leo thang ấy lên trời. Từ nghĩa đó, khi tiễn ông vải, người ta cũng làm cái thang, nhưng không làm thang tre, thang bẹ chuối mà làm một thứ thang có thể ăn được. Chữ thang theo tiếng Tàu là canh, đồng âm với thang dùng để trèo nên người ta cúng món bún thang. Còn cuốn tượng trưng cho bậc thang, càng nhiều cuốn thì càng có nhiều bậc để ông bà ông vải trèo đi cho chóng. Trong ngày tiễn ông vải, các con thứ phải đến nhà con trưởng để làm nhiều thang cuốn cho các cụ lên trời được mau mắn dễ dàng, phù hộ con cháu. Và khi mời đùa nhau ăn thang, người ta thường nói: Mời bác trèo nữa đi, ý là thăng tiến hơn nữa trong năm mới...”
Bà nhắc tới những ngày thơ ấu ở Hà Nội trước 1954. Lúc đó bà chỉ mới hơn mười tuổi, nhà bán tạp hóa, ngày giáp Tết thỉnh thoảng bán phong pháo, chai rượu cho khách. Rượu Văn Điển, rượu Làng Vân, pháo Tường Ký, pháo Mãn Địa Hồng của Tàu... bán chạy. Bà ca ngợi mùi hoa thủy tiên, cái mùi thơm quý phái không sao quên được đến giờ còn lẩn quất trong trí nhớ dù đã hơn ba mươi năm. Thủy tiên được người ta đưa về từ Côn Minh bên Tàu, năm nào có chiến tranh bên đó thì không có mà chơi. Bố bà bảo Tết mà không có thủy tiên thì không phải là Tết. Đến khi vào sống ở Sài Gòn, có người cậu thỉnh thoảng mang từ Đà Lạt về những cành đào hay những chậu cúc vàng sặc sỡ. Ông cầm những cành đào trơ trụi, đem đốt gốc và cắm vào chậu nước, mấy hôm sau hoa đào nở hồng cả thân cây, hoa màu hồng phơn phớt điểm những lá xanh nhỏ đẹp chi lạ. Có năm, ông mang cho một vài chậu thủy tiên trắng khiến bà mừng rưng rưng nước mắt như thấy được tuổi nhỏ của mình. Ông chỉ cho cách gọt củ để đến đúng ngày Tết thì hoa nở, nhưng nhà không có đàn ông, bà lại lo cỗ bàn, không biết chăm sóc nên thủy tiên nở không đúng ngày Tết, bận nào cũng nở trước hay sau Tết.
Xin xăm ở lăng Đức thượng công Lê Văn Duyệt ngày Tết.
Ảnh: Báo Sáng Dội Miền Nam loại III số 3 tháng 3 năm 1961.
Tuy chỉ tạm bợ, hoa thủy tiên Đà Lạt cũng giúp bà nguôi nỗi niềm xa xứ với mưa phùn gió bấc trước Tết nhưng đậm đà tình quê xứ Bắc. Năm nay, dò thủy tiên trên bàn thờ lại ra hoa sớm, nhưng dù sao cũng đã sát Tết rồi.
Trời đêm tháng Chạp càng lúc càng tối mịt dù chưa phải đêm Ba Mươi. Bà mẹ mệt mỏi dặn dò vài câu rồi lên lầu ngủ. Chú em nhỏ ngồi trên sofa cũng lăn ra ngủ tít. Cô gái tư lự nhìn lửa dưới đáy nồi, má hồng lên và mắt đen bắt ánh lửa. Cô lấy một chút muối trong bếp, ném vào lửa để hoa lửa tung tóe. Cô cười phá lên khi tôi bảo ngày xưa có mẹo rằng nếu muốn đuổi ai ra về thì cho muối vào bếp lửa. Đùa vui một chút, cả hai im lặng nhìn vào những hoa lửa tung tóe. Cô gái bảo khi nhìn vào lửa, cô luôn cảm thấy hơi buồn, như khi nhìn cảnh pháo hoa trên bầu trời vậy. Có những vẻ đẹp rực rỡ chỉ lóe lên một lần và tắt ngóm, khiến lòng ta bâng khuâng. Có thể đó là vẻ đẹp của hoa thủy tiên khi còn nhỏ, của cành đào phai trong một ngày Tết xứ Bắc thời tiền chiến của mẹ cô. Ta cố tìm lại vẻ đẹp đó một lần nữa nhưng chỉ là bóng hình không gợi lại nhiều cảm xúc đã trải qua. Như vị miếng mứt gừng một đêm xuân Sài Gòn trở lạnh sao mà thơm ấm, mà nhiều lần không tìm lại được vị ngon dễ chịu như vậy.
Nồi bánh chưng chín khi đêm đã tàn và chỉ còn mình tôi ngồi canh. Tôi ra về khi bà mẹ thức dậy chuẩn bị vớt bánh. Đêm đó, ngồi bên nhau canh nồi bánh, hát nhỏ nhau nghe vài bài vu vơ và tâm sự dăm chuyện vụn vặt, có những điều chớm nở trong lòng mỗi người. Nhưng rồi ai nấy hình như muốn lướt qua, và câu chuyện lại nói về người bạn đang ở xa.
Đó là đêm đầu tiên và duy nhất tôi dự một cuộc canh nồi bánh Tết, một cảnh thi vị tôi đã ?