← Quay lại trang sách

LÊ VĂN KHOA VÀ “THẾ GIỚI CỦA TRẺ EM”

Thế hệ trung niên trên dưới 50 tuổi ở Sài Gòn chắc hẳn còn nhớ niềm nô nức đợi đến 7 giờ tối để được xem các chương trình thiếu nhi trên ti vi băng tần số 9. Điểm lại các chương trình đó, họ nhớ nhiều về chương trình Thế giới của trẻ em, chương trình truyền hình mang tính tổng hợp, vừa có đố vui, ca nhạc, múa rối, thực hành khoa học... Nhớ hơn cả là nụ cười trong trẻo, giọng nói sang sảng, đôi mắt sáng tươi vui hiền hậu lấp lánh sau đôi kính cận của giáo sư Lê Văn Khoa, người sáng lập và điều hành chương trình. Giữa thời tao loạn chiến tranh kiếm ăn chật vật, chương trình này cùng với một số sách báo giáo dục từ những người viết tâm huyết đã thật sự giúp đỡ các bậc cha mẹ dạy dỗ đám con nít, giúp tránh xa thói hư tật xấu, biết sống lương thiện và vệ sinh, mở mang kiến thức khoa học thường thức.

Lúc đó, các khán giả nhỏ trong đó có tôi đều thầm ao ước được tham dự chương trình, gặp được chú Lê Văn Khoa dễ mến. Rồi hơn bốn mươi năm sau, tôi có dịp nói chuyện với ông, nay đã 82 tuổi. Giọng ông qua điện thoại vẫn sang sảng, vui vẻ, hoàn toàn giống như trong chương trình năm xưa. Nói chuyện được với ông, gần như giấc mơ tuổi nhỏ của tôi đã hoàn thành.

Khi được hỏi lý do thực hiện chương trình Thế giới của trẻ em, ông cho biết: “Lúc đó, đài THVN 9 đề nghị tôi làm một chương trình định kỳ cho đài, bất cứ đề tài nào tùy ý thích. Tôi rất ngạc nhiên và tự hỏi họ biết gì về khả năng của mình khi đề nghị làm một chương trình theo ý muốn. Cánh cửa rộng lớn quá, liệu có đủ khả năng và can đảm bước vào hay không? Tôi xin cho về suy nghĩ rồi trả lời sau."

Thật ra, từ đầu thập niên 1960, tên tuổi giáo sư Lê Văn Khoa đã được biết tới. Là nhà giáo, ông còn là nhà nhiếp ảnh đã đoạt nhiều giải thưởng ảnh nghệ thuật cấp quốc gia. Ông lại là nhạc sĩ dương cầm, soạn hòa âm cho hợp ca và là tác giả của nhiều cuốn sách giáo dục dành cho nhi đồng.

Một tuần sau, Lê Văn Khoa đồng ý nhận lời cộng tác với đài và lãnh vực sẽ chọn là thiếu nhi. Đài THVN 9 do dự, cho biết đã có các chương trình thiếu nhi Kiều Hạnh, Xuân Phát, Nguyễn Đức. Ông giải thích là muốn chọn khía cạnh giáo dục chứ không phải trình diễn. Lúc đó, trên đài đã có chương trình Đố vui để học của Trung tâm Học liệu nên họ vẫn còn e ngại. Ông Lê Văn Khoa tiếp tục thuyết phục: "Chương trình “Đố vui để học” rất hay nhưng dành cho số ít những học sinh xuất sắc, còn những em không xuất sắc, những em không có cơ hội đi học thì sao? Thành phần này không phải là ít trong xã hội đang oằn oại trong cuộc chiến kéo dài" . Họ im lặng một lúc rồi nói: "Hiện tại Đài không có tiền nên không thể trả thù lao cho ông. Chúng tôi sẽ tìm nguồn tiền và khi có được, sẽ gửi thù lao như các ban khác”. Ông đồng ý và may là chỉ sau vài tuần lễ, việc đó đã được giải quyết.

Buổi ban đầu, ông dùng cái tên “Thế giới của em” vì muốn các em được sống trong thế giới riêng của mình. Sau vài tuần lễ, Đài đề nghị đổi tên thành chương trình “Thế giới của trẻ em” để tránh hiểu lầm sang ý khác. Với tên mới, trẻ em trở thành người ngoài nhìn vào thế giới khác chứ không được sống trong thế giới của riêng. Tuy nhiên, ông vẫn cố tạo một thế giới riêng cho các em. Vì chương trình không phải là những màn trình diễn nên Lê Văn Khoa muốn để các em tham gia trong chương trình thật tự nhiên, nhờ đó các em ở nhà xem chương trình qua truyền hình có thể cảm thấy mình cũng là người trong cuộc, cũng có những vấp váp, sơ hở y như các em trên màn ảnh nhỏ.

Điều thôi thúc khiến Lê Văn Khoa muốn thực hiện chương trình này, là vì ông thấy quanh mình có khoảng trống rất lớn khi thời chiến, những vắng bóng người đàn ông trong gia đình và cả trong học đường. Ông cảm được điều này và biết sự thiếu vắng đó không dễ khỏa lấp. Vốn là đứa con mồ côi mẹ từ năm 11 tuổi, ông hiểu được sự thiếu vắng người thân, dù là cha hay mẹ, có ảnh hưởng đến trẻ thơ thế nào. Ông nói: “Tôi chỉ tạm đóng vai một người anh “hờ” để giúp các em. Tôi không dám dạy ai cả, chỉ chia sẻ vài ý nghĩ, vài hiểu biết và giúp các em có thể thành người dù đang ở trong hoàn cảnh khó khăn và bất toàn của xã hội. Tôi chỉ là một gạch nối giữa gia đình và học đường. Những đề tài và phương thức dẫn giải đều do tôi nghĩ ra, không do sự chỉ dẫn hay gợi ý của ai cả. Nhờ không nhận tiền từ bất cứ cơ quan nào nên tôi được tự do làm theo ý mình. Tiền thù lao cho chương trình như là tiền 'mua' chương trình chứ không phải tiền đặt làm chương trình theo sự chỉ đạo của đài. Một lý do khác để tôi thực hiện chương trình "Thế giới của trẻ em" là muốn sự giáo dục hay đào tạo tài năng cho dân tộc được liên tục, không bị chiến tranh làm gián đoạn. Đóng góp cho quốc gia là bổn phận của mỗi người dân chứ không dành riêng cho người được lãnh lương để làm”.

Ông Lê Văn Khoa hướng dẫn cách sử dụng con rối tay cho các em thiếu nhi.

Ông Lê Văn Khoa hướng dẫn các em thiếu nhi sinh hoạt tập thể và vẽ tranh.

Một cảnh trong buổi “Học sử dụng công lộ” của chương trình.

Tiết mục “Thi đố nát óc” rất hấp dẫn học sinh thời đó.

Nhạc sĩ Lê Văn Khoa với các em thiếu nhi.

Ảnh: báo TGTD tập XIX số 3.

Chương trình Thế giới của trẻ em chính thức phát hình lần đầu tiên vào tối thứ năm ngày 26 tháng 10 năm 1967. Lúc đầu, chương trình thiên về phần âm nhạc cho trẻ em vì giáo sư Lê Văn Khoa vốn là nhạc sĩ. Tuy nhiên, ông nhanh chóng chuyển chương trình sang phần khám phá khoa học, vạn vật, thủ công. Hình thức thể hiện các nội dung đó là các tuồng múa rối, trò chơi khoa học, chiếu phim tìm hiểu khoa học, vệ sinh y tế... khuyến khích các em nhỏ phát triển năng khiếu nghệ thuật bằng cách thi vẽ, thi nắn tượng, kể chuyện phim, tập làm văn, đố nát óc... Chương trình được định hình là vừa có tính giáo dục vừa có tính giải trí. Trên báo Thế Giới Tự Do, ông đã tâm sự về ý định của mình: “Tôi muốn nói giáo dục âm nhạc, chớ không phải trình diễn âm nhạc, là vấn đề cấp thiết nhưng còn nhiều vấn đề khác cần thiết cấp bách hơn, nên chưa thực hiện được giáo dục âm nhạc cho thiếu nhi...” . Ông nói thêm: “Tôi muốn đem tiếng cười thơ ngây gắn trở về gương mặt hồn nhiên của trẻ thơ. Bom đạn, hỏa tiễn đã phá nát thiên đàng tuổi thơ rồi. Bây giờ mình cố giữ một chút gì còn lại để thấy thế giới này còn... biết cười thật lòng”. Với tư duy thực tiễn như vậy, ông tìm cách trang bị cho trẻ em kỹ năng sống trong thời buổi đầy khó khăn. Ngoài những tuồng múa rối, ông dùng phần còn lại của chương trình để tiếp sức cho phụ huynh và giáo viên chuẩn bị cho trẻ em vào đời, mà theo ông đó là “một cuộc tranh sống cam go chớ không phải thế giới của tiên thánh xa lạ” . Ông dạy cho các em nạn nhân chiến tranh làm ly bằng giấy báo cũ để dùng tạm, học luật lệ giao thông và những hiểu biết cần thiết khi ra đường. Ông phát động chương trình Khóm phường sạch sẽ ở khu 21 đường Nguyễn Thông nối dài, vốn rất phức tạp và kém vệ sinh do bên cạnh ga xe lửa Hòa Hưng ngày 11 tháng 11 năm 1970 giúp trên 300 em tham gia chiến dịch hiểu được niềm vui giúp đỡ cộng đồng cư dân ở đây...

Ở tuổi 82 (2015), ông Lê Văn Khoa vẫn hoạt động âm nhạc tại Hoa Kỳ.

Trong Thế giới của trẻ em , tiết mục múa rối do nữ sĩ Hợp Phố và vài cộng sự viên của bà đảm trách cuốn hút thiếu nhi thời đó nhất vì tuổi nào cũng xem được. Kỹ thuật rối lúc đó còn đơn sơ, con rối may bằng vải, trùm lên ba ngón trong một bàn tay để điều khiển đầu và hai tay nhân vật, lắc qua lắc lại trên sân khấu, nói bằng giọng người bên trong. Vậy mà các vở kịch rối diễn lại tuồng tích Việt như Bánh chưng bánh giầy, Ăn khế trả vàng, Sự tích trầu cau, Thạch Sanh Lý Thông... lại hấp dẫn vô vàn và không đứa con nít nào ở Sài Gòn muốn đi đâu xa cái ti vi khi chương trình phát hình. Các tuồng rối đó đã hỗ trợ môn sử, môn văn trong nhà trường, khéo léo và sinh động dạy trẻ em những bài học về sự trung thực, tình anh em, tình yêu Tổ quốc quê hương, ở hiền gặp lành... Cứ như vậy, mỗi chương trình như một tiết học vui, sinh động, thực tế, có tương tác giữa thầy và trò, độ lan tỏa thì rất lớn cả khu vực miền Nam (Đài Cần Thơ, Huế, Pleiku phát lại). Chương trình cuốn hút cả người lớn, giới phụ huynh thưởng thức chương trình mê say không kém con em mình. Họ đã ít nhiều học được cách trao đổi, tạo hứng thú cho con em mình hiểu các bài học nhà trường bằng những cách thức đơn giản và sinh động.

Chương trình còn giúp phát triển năng khiếu của trẻ em và lan tỏa ra ngoài xã hội, không chỉ trên màn hình. Năm 1968, giáo sư Lê Văn Khoa tổ chức cuộc thi Bé vẽ cho vui . (Ông thường xuyên tổ chức thi vẽ tranh thiếu nhi, sau đó là gửi tranh của các em đi dự thi với UNICEF quốc tế, năm nào cũng chiếm giải thưởng). Trong số tranh dự thi, có 100 bức được chuyển qua Mỹ bán đấu giá giúp trẻ em tàn tật vì chiến tranh đang chữa trị bên đó. Một trăm bức tranh cùng một số tác phẩm khác trong cuộc thi Nắn tượng cho vui tham dự cuộc triển lãm lưu động trên toàn nước Nhật mang tên Việt Nam quê hương mến yêu được khán giả khen ngợi.

Nhìn lại buổi ban đầu, khó khăn vô vàn. Chương trình không có chi phí đưa các em thiếu nhi đến đài truyền hình và đón về. Cũng may, trong xã hội còn có những người chia sẻ ý tưởng tốt đẹp này và ghé vai gánh cùng với ông. Một vị đã tình nguyện đưa đón thường xuyên các em bằng xe hơi riêng. Rồi xuất hiện thêm những vị tình nguyện khác. Đến khi chương trình có thù lao, Lê Văn Khoa có tiền trả cho người trang trí phòng thu hình mà không phải xuất tiền túi nữa, vì nếu tự trả thì chắc chắn ông không thể trụ lâu. Có chút tiền dư ra, ông để dành làm phần thưởng cho các cuộc thi vẽ, nặn tượng và hỗ trợ cho chương trình Tiếng nhạc trầm tư , đại hợp ca và hòa tấu duy nhất của miền Nam Việt Nam. Đó là chưa kể đến việc giúp các em bụi đời, tổ chức những chuyến đi chơi cho trẻ bụi đời chung với các em từ gia đình có địa vị, để các em tìm hiểu nhau.

Ông Lê Văn Khoa điều khiển dàn nhạc The Royal Melbourne Philharmonic Orchestra và ban hợp ca Cộng đồng người Việt ở Úc, năm 2005.

Ông Lê Văn Khoa chỉ huy Kiev Symphony Orchestra and Chorus, hợp cùng ban hợp ca người Việt vùng Washington trình diễn nhạc phẩm do ông sáng tác tại Thủ đô Hoa Kỳ, năm 2010. Ảnh từ trang 163 - 166: nhân vật cung cấp.

Nhật báo Đuốc Nhà Nam, ra ngày 2 tháng 2 năm 1970 trong mục tổng kết thành tích một năm chương trình văn nghệ của Đài Truyền hình Sài Gòn đánh giá chương trình Thế giới của trẻ em là chương trình thiếu nhi hay nhất. Bài báo viết: “Khán giả chỉ nhận thấy chương trình Lê Văn Khoa bổ ích cho thiếu nhi hơn cả, với người hướng dẫn chương trình có nhiều sáng kiến đáng kể. Phần văn nghệ được đặt sau phần giáo dục thiếu nhi, có tính cách giáo dục hơn là thương mại”.

Toàn bộ tâm huyết, lý tưởng vì thiếu nhi của giáo sư Lê Văn Khoa dồn cho toàn bộ chương trình trong suốt tám năm, từ 1967 cho đến khi chương trình kết thúc năm 1975. Một mình ông cùng vài cộng sự đã làm nên một chương trình thiếu nhi đầy tâm huyết và có dấu ấn rất sâu trong lòng người xem.

Sau 1975, chỉ sau một tháng đặt chân đến nước Mỹ, giáo sư Lê Văn Khoa đã tổ chức chương trình nhạc đầu tiên ở trường Đại học Loma Linda, California. Vài tháng sau, ông tiếp tục tổ chức chương trình nhạc ở thủ đô Washington và triển lãm ảnh ở đó. Ông làm việc cho một cơ quan giúp người Việt Nam mới đến đất Mỹ ở San Francisco. Khi sắp mãn giao kèo của cơ quan với chính phủ, họ làm một dự án mới để xin tiền. Trong dự án có câu mà ông không đồng ý khi nói về người Việt đến Mỹ: “...không biết gì hết và nghèo đói nên cần được hướng dẫn để xin trợ cấp...” . Ông lý luận rằng: "Tại sao không nói người Việt Nam có khả năng lớn nhưng cần được giúp đỡ lúc đầu để họ có thể tự túc và đóng góp vào xã hội” . Họ bảo nếu nói vậy thì không xin tiền được. Không đồng quan điểm, ông từ nhiệm, đi San Diego để làm thợ nhà in. Sau đó, ông hoạt động theo sở trường của mình trong hai lãnh vực âm nhạc và nhiếp ảnh. Ông tiếp tục viết hòa âm cho hợp ca và viết nhạc cho dàn nhạc giao hưởng trình diễn. Về nhiếp ảnh, ông là nhiếp ảnh gia người Việt duy nhất trong cuộc tuyển chọn để triển lãm ảnh do Bảo tàng Nghệ thuật Baltimore thực hiện, lấy tên là 5 From the Eastern Shore . Bốn người kia là họa sĩ Hoa Kỳ. Hiện viện bảo tàng này còn lưu giữ 6 tác phẩm nhiếp ảnh của ông. Về âm nhạc, ông viết nhạc cho dàn nhạc giao hưởng, cho piano solo, violin solo, cello solo. Là người Việt Nam duy nhất phát hành 5 CD nhạc giao hưởng do Kiev Symphony Orchestra and Chorus thu thanh. Nhạc piano của ông được dạy ở Hoa Kỳ và Ukraina, được trình diễn ở nhiều nơi, kể cả tại Trung tâm Văn hóa Nga ở Vienne, nước Áo. Để phổ biến dân ca Việt, ông viết lại cho đàn Bandura, nhạc cụ dân tộc của Ukraina, được Viện Cao học Ukraine nhìn nhận là một trong ba nhạc sĩ trên thế giới viết nhạc cho đàn Bandura hòa tấu với dàn nhạc giao hưởng.

Đến nay đã 82 tuổi, giáo sư Lê Văn Khoa vẫn còn hoạt động âm nhạc tại Mỹ. Ông vẫn tự lái xe đi khắp nơi, nói chuyện về âm nhạc trên đài phát thanh hằng tuần. Đã có một cuốn sách xuất bản tại Mỹ 700 trang với tiêu đề Lê Văn Khoa, một người Việt Nam mô tả toàn bộ sự nghiệp của ông, đặc biệt về lãnh vực âm nhạc. Ông vẫn tiếp tục sống một cuộc đời sôi nổi, và luôn tự hào mình là người Việt. Nước Việt cũng tự hào đã có một người con giỏi giang và đầy tâm huyết với cộng đồng như ông, Lê Văn Khoa.

Quang cảnh mặt tiền chợ Bến Thành năm 1966. Ảnh: Nguyễn Gia Liên.

HÀNG KHÔNG DÂN DỤNG & PHI CẢNG TÂN SƠN NHỨT

Sân bay Tân Sơn Nhứt (hiện nay gọi là Tân Sơn Nhất) được xây dựng từ năm 1914 và phát triển dần cho đến đầu thập niên 1950 đã là sân bay quốc tế, nối Sài Gòn tới Hồng Kông, Tokyo, Paris, Thượng Hải, Nouméa, Calcutta... Tần suất máy bay lên xuống đã có thể so sánh với sân bay Paris bấy giờ.

Qua tư liệu báo chí và lời kể của người trong cuộc, chúng tôi cung cấp cho bạn đọc một số thông tin, số liệu để biết thêm về tổ chức của ngành hàng không dân dụng miền Nam cách nay trên dưới nửa thế kỷ.

Tính đến năm 1964, nhà ga hàng không Tân Sơn Nhứt đã có 3 lần được nới rộng. Lần thứ nhất vào năm 1956–1957, từ tổng diện tích 1.790 mét vuông được chỉnh trang, mở rộng lên 2.470 mét vuông. Lần thứ hai trong năm 1960–1961, nhà ga được sửa chữa và nới rộng thành 2.822 mét vuông. Lần thứ ba, trong những năm 1963–1964, nhà ga đã có diện tích lên tới 6.000 mét vuông, tức là gấp hai lần diện tích cũ và khánh thành tháng 10 năm 1964.

Cần nhắc lại là cho đến thời điểm đó, dù quân đội Mỹ chưa đổ vào miền Nam, và chiến tranh chưa lan rộng, nhưng lưu lượng vận chuyển ở đây đã rất cao. Năm 1959 là 30.000 chuyến và đến năm 1963 đã lên đến 122.374 chuyến, tức là tăng hơn gấp ba lần. Trung bình cứ hai phút rưỡi có một chuyến cất cánh hay đáp xuống. Phi cảng Tân Sơn Nhứt đã được xếp vào loại phi cảng có sức chuyển vận vào bậc nhất trên thế giới. Số hành khách theo đó cũng cao dần. Năm 1957, số hành khách quốc nội là 39.300 người, đến năm 1963 đã tăng lên 173.769. Hành khách quốc tế từ 65.000 người năm 1959 đã tăng lên 119.915 người vào năm 1963. Tổng số hành khách đi, đến và transit tăng ở hai mốc thời gian trên từ 116.100 lên 294.400 người. Đến năm 1964 là 360.000 người. Đó là lý do nhà ga liên tục được mở rộng.

Đại sảnh nhà ga Hàng không trong Lễ khánh thành nhà ga mới được chỉnh trang năm 1964.

Trên ngực áo chiêu đãi viên hàng không năm 1961 có thêu một bông hoa sen, tương tự bây giờ.

Sảnh làm thủ tục lên máy bay

Đại sảnh sân bay Tân Sơn Nhứt được chỉnh trang thêm đẹp và tiện nghi trong năm 1964.

Mái hiên dài 82 mét được xây dựng để che nắng mưa cho khách đến sân bay khi lên xuống xe.

Ảnh: Báo TGTD tập X số 1.

Việc nới rộng và chỉnh trang lần thứ ba giao cho kiến trúc sư Nguyễn Văn Hoa nghiên cứu, lập dự án và giám sát xây dựng. Lần đó, nhiều hạng mục trong nhà ga đã được cải tiến. Khu kiểm soát hành lý và sân thượng được nới rộng gấp đôi. Đại sảnh dành cho công chúng đưa đón thân nhân dài 72m, ngang 15m được xây cất và trang bị hoàn toàn mới. Từ lần tu sửa này, ga quốc tế và ga quốc nội tách bạch chứ không dùng chung như trước. Ngoài ra, mái hiên dài 82m được xây cất phía mặt ngoài để che nắng mưa cho khách vừa đến ga. Tổng chi phí cho lần tu sửa sân bay này tổng cộng là 13 triệu 400 ngàn đồng thời đó, cộng với 3 triệu đồng đã ghi vào tài khóa 1965 về điện, quạt, ghế ngồi tại đại sảnh và ở phòng đợi thì chi phí lên tới 16 triệu 400 ngàn đồng. Tuy nhiên, sau khi tu sửa xong trong gần hai năm, sân bay đã có hiện tượng quá tải, nhà ga đã cảm thấy chật chội, trong đó có nguyên do là số người đưa đón ở nhà ga quá đông.

Từ năm 1951, ngành Hàng không miền Nam được thiết lập dưới hình thức công ty hàng không thuộc chính phủ đương thời. Lúc đầu, chỉ có ba chiếc máy bay DC3 và ba chiếc DC4 để chở khách cùng với ba chiếc Bristol chở hàng hóa, hàng ngày nối liền hai trung tâm Hà Nội, Sài Gòn, chở gia súc từ Lào đến Việt Nam và từ vùng biển Việt Nam đến Lào. Sau 1954, đất nước bị chia cắt, ngành Hàng không miền Nam bị thu hẹp trước khi phát triển trở lại. Tính đến năm 1971, Công ty Hàng không Việt Nam tại Sài Gòn đã có một phi đoàn gồm hai máy bay phản lực Boeing 727 (lấy tên là Thanh Long và Ngọc Phụng), hai máy bay DC6, tám máy bay DC4, hai chiếc Cessna C.185 và hai chiếc Cessna U.206C. Với số máy bay trên, năm 1970 Hàng không miền Nam chuyên chở được hơn 1,5 triệu hành khách và 8,8 triệu ký lô hàng hóa.

Cũng thời điểm 1971, công ty đã khai thác thường xuyên chặng đường dài 26.474km. Trong đó, đường bay quốc nội chiếm 15.468km nối liền Sài Gòn với Ban Mê Thuột, Cần Thơ, Cà Mau, Đà Lạt, Huế, Kon Tum, Long Xuyên, Nha Trang, Phan Thiết, Phú Bổn, Phước Long, Phú Quốc, Pleiku, Quảng Đức, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Rạch Giá, Sóc Trăng, Tam Kỳ, Đà Nẵng, Tuy Hòa, Vĩnh Bình.

Học viên ngoài phần học lý thuyết (hai ảnh trên) còn thực tập trong thời gian ba tháng tại Trung tâm Kiểm soát Không lưu và Đài Kiểm soát Không lưu sân bay Tân Sơn Nhứt.

Ảnh: TGTD tập XI số 2.

Đường bay quốc tế (11.006km) từ cuối năm 1964 đến 1971 đã bắt đầu khai thác các tuyến Sài Gòn – PhnomPenh – Bangkok, Sài Gòn – Hồng Kông bằng máy bay phản lực Caravelle. Đến đầu năm 1965 mở thêm đường bay Sài Gòn – Kualar Lumpur – Singapore. Ngày 3 tháng 12 năm 1966 đường bay Sài Gòn – Đài Bắc – Sài Gòn. Ngày 30 tháng 7 năm 1968 đường bay Sài Gòn – Hồng Kông – Đài Bắc – Osaka – Tokyo được khánh thành và Sài Gòn – Manille ngày 10 tháng 4 năm 1968. Tất cả đều bằng máy bay phản lực Boeing 727.

Trước năm 1961, ở miền Nam có vài lớp không vận viên được mở ra để đào tạo một số chuyên viên đủ trình độ để đáp ứng nhu cầu cấp thời ở sân bay. Tuy nhiên, các chuyên viên này vẫn phải ra nước ngoài như Pháp, Mỹ để được tiếp tục huấn luyện.

Đến ngày 10 tháng 4 năm 1961, khóa học kiểm soát viên không vận trình độ cao, đúng tiêu chuẩn quốc tế ngang với trình độ Pháp, Mỹ và theo khuyến cáo của Tổ chức Hàng không Dân sự Quốc tế đã được mở ra lần đầu tiên tại miền Nam với 22 học viên được tuyển chọn sau một cuộc thi tuyển khắt khe. Kỹ sư Dương Thiệu Dụng, chỉ huy trưởng Phi cảng Tân Sơn Nhứt điều khiển lớp học này. Học viên được học hỏi theo điều kiện khai thác đặc biệt tại chỗ, những luật lệ, quy tắc áp dụng ngay tại địa bàn thực tế, điều này thuận lợi hơn khi học ở nước ngoài rồi sau đó mất thời gian thích ứng lại thực tế ở Việt Nam.

Chương trình giảng dạy gồm 665 giờ lý thuyết và 610 giờ thực hành cùng với ba tháng thực tập tại Đài Kiểm soát Tân Sơn Nhứt và trung tâm Kiểm soát Không lưu. Về lý thuyết, học viên được học 28 môn, bao gồm các kiến thức tổng quát của ngành hàng không, luật lệ phương thức không lưu, phi cụ trên phi cơ, khí tượng và phương thức viễn thông... Ngoài ra, còn học về luật lệ hành chánh, quản trị phi trường, ngoại ngữ Anh và Pháp. Các chuyên viên giảng dạy hầu hết là người Việt, chọn lựa từ những người có kinh nghiệm nhất trong ngành tại Nha Hàng không dân sự, Nha Khí tượng và Công ty Hàng không Việt Nam của miền Nam. Bên cạnh đó, có mời thêm các chuyên viên nước ngoài như ông Ferry, ông Trauchessec của phái đoàn viện trợ kỹ thuật Pháp, ông Guy Parker của phái đoàn CAAG, Mỹ.

Poster giới thiệu về du lịch qua đường hàng không của hãng Hàng không Air Vietnam.

Sau 10 tháng học tập, có 19 học viên tốt nghiệp kỳ thi mãn khóa đầu tháng 2 năm 1962. Sau khi được cấp bằng, lứa kiểm soát viên không lưu đầu tiên của miền Nam này đã đến làm việc tại đài kiểm soát tại các sân bay trong nước, một số làm việc khai thác ở các công ty hàng không.

TỪ ĐÂU CÓ CHIẾC XE ÔM?

Xe ôm ở Sài Gòn có từ khi nào? Lục tìm qua sách báo, trước 1954 hầu như không thấy nhắc đến chiếc xe ôm. Lúc đó, các phương tiện công cộng chở người trong thành phố là xe kéo, xích lô và taxi. Lúc đó đã có xe gắn máy lưu hành nhưng không dùng làm dịch vụ chở người.

Năm 1969, một nhà văn đoạt giải nhất phóng sự ở Sài Gòn là ông Lê Hương với cuốn sách Chợ trời biên giới Việt Nam - Cao Miên. Khi viết về chợ trời Gò Dầu Hạ ở Tây Ninh, ông cho biết ngoài xe lam và mô tô lôi chở đông người mỗi chuyến thì năm 1967 “xuất hiện bốn loại xe mới: Honda ôm, Suzuki ôm, Mobilette ôm, Yamaha ôm”. Ông đánh giá “thật là một nghề chóng phát tài hơn hẳn các anh em chở Mỹ ở Sài Gòn”.

Như vậy, phải chăng xe ôm ở Sài Gòn bắt nguồn từ dịch vụ chở người sau sự kiện người Mỹ đến miền Nam năm 1965?

Từ câu chuyện kể dưới đây của một dược sĩ gốc gác ở quận 4 cho tác giả cuốn sách này bổ sung cho nhận định trên. Năm 1965, khi người Mỹ bắt đầu tham chiến ở Việt Nam thì xuất hiện một lớp người làm việc trong các công sở của người Mỹ. Họ biết nói tiếng Anh ít nhiều tùy theo công việc, làm nhân viên đánh máy hay sửa chữa bảo trì xe cộ, lái xe. Được người Mỹ trả lương nên đồng lương của họ khá khẩm, giúp họ sống thoải mái và dễ dàng mua xe máy. Tuy vậy, ít nhiều họ bị những người ngoài ngành nghề này không ưa, nhất là đối với nhân viên nữ. Nhưng đó là câu chuyện khác. Ở đây là câu chuyện một anh đi làm sở Mỹ.

Chiến cuộc lúc lên lúc xuống, công sở Mỹ có lúc mở ra và có chỗ đóng cửa tùy theo nhiệm vụ. Phút huy hoàng nào cũng có lúc trở thành điêu tàn và những người quen lãnh lương bằng đô-la ở Sài Gòn bắt đầu lo lắng. Nền kinh tế chung đang xuống, việc duy trì mức sống cao như trước kia không đơn giản.

Tại một cơ quan của người Mỹ ở trung tâm Sài Gòn có một ông nhân viên tên là X. tuổi vào lứa 50, con đông nheo nhóc. Làm việc với người Mỹ, ông mua được một chiếc xe Lambretta dùng để đến sở làm mỗi ngày. Xe Lambretta hai thì, khỏe, yên thon dài nên ngồi rất thoải mái, thích hợp với vóc dáng cao ráo của ông.

Đùng một cái, sở làm của ông thu hẹp số nhân viên và ông X. phải nghỉ làm. Sau một thời gian chới với vì “bể nồi cơm”, ông trấn tĩnh lại và ráo riết nghĩ đến việc kiếm sống nuôi con. Trong thời gian nghe ngóng, ông X. vẫn thỉnh thoảng lui tới thăm chỗ làm cũ, gặp bạn bè người Mỹ đã cùng làm ở đó.

Một buổi chiều, ông X. được một anh nhân viên Mỹ hỏi thăm về một snack-bar trên khu Kho 18 thuộc quận 4, gần cầu Tân Thuận. Hôm đó là cuối tuần và anh Mỹ này định nhờ ông cho quá giang xe đến đó để giải trí. Ông X. vui vẻ nhận lời. Trên xe, anh chàng người Mỹ cho biết anh ta cảm thấy khi được chở trên chiếc xe có thân dài này, người ngồi sau thoải mái cho đôi chân hơn là ngồi trên những chiếc xe máy yên nhỏ của người Pháp hay Đức chế tạo đang có ở Sài Gòn. Khi dừng xe, ông X. giơ tay từ biệt thì anh chàng Mỹ rút túi tặng ông một ít tiền và ngỏ ý vào cuối tuần nhờ ông chở đi vòng vòng Sài Gòn chơi. Ông X. nhận lời và từ đó, ý thức rằng có thể kiếm tiền bằng những lần chở người ở yên sau, ông tìm cách tăng lượng khách. Ông chở thêm những người Mỹ khác và nhận ra rằng tiền kiếm được còn nhiều hơn trước kia đi làm nữa.

Lúc đó, khu Kho 18 có hai snack-bar là Rạng Đông và Thúy Phương. Thấy ông X. làm ăn được, mấy ông từng làm sở Mỹ đang thất nghiệp bắt chước theo và thấy có ăn. Họ mua toàn là xe Lambretta vì xe khác người Mỹ lắc đầu. Từ đó hình thành đội ngũ xe ôm đầu tiên ở Sài Gòn đậu dài dài ở hai bar rượu này, đi cùng một loại xe và chủ yếu phục vụ cho các nhân viên dân sự Mỹ. Họ không chỉ đi uống rượu mà bằng xe ôm, có thể vô các khu hẻm nhỏ tìm người quen, tìm bạn gái, tìm bạch phiến. Còn người dân Sài Gòn bình thường không ai quan tâm đến loại xe này. Ai không có xe máy thì đi taxi, xe bus hay xích lô máy, xích lô đạp, xe Lambro...

Căn cứ vào câu chuyện trên, có thể coi là xe ôm có từ giai đoạn đầu khi người Mỹ mới vào miền Nam Việt Nam. Nhưng có thể nó trở nên phổ biến hơn sau khi nhập cảng xe Nhật, năm 1967. Một tác giả đã mất ở hải ngoại là Lưu Nhơn Nghĩa trong bài “Lải nhải đời tôi 1959–1969” có viết: “Dân công chức lương thấp nghĩ cách kiếm sống, dùng xe mình đưa khách kiếm thêm... Lần đầu tiên, nhóm xe taxi, xích lô máy, xích lô đạp xô xát với nhóm xe ôm vì quyền lợi. Lúc đó tương đối còn sống được, sau nầy đời sống chật vật, cả đến quân nhân, cảnh sát ngạch thấp, công an chìm cũng chạy xe ôm. Rõ ràng là chỉ có xe Nhựt, yên liền rộng, thấp, vừa tầm người Á châu, chỗ gác chân thoải mái mới sử dụng được trong việc kiếm ăn nầy. Xe Nhựt lại hết sức bền bỉ, ít hao xăng, chạy suốt từ Sài Gòn ra Vũng Tàu không nằm đường. Xe Pháp như Mobilette, Sachs (Thật ra xe này của Đức – TG), Puch chạy không nổi, yên xe nhỏ, chông chênh”. Ông còn kể thêm: “Hình như giới xe ôm cũng có luật riêng giúp đỡ lẫn nhau khi có trường hợp bị khách giựt xe. Khi đưa khách trả tiền đến vùng đáng sợ, anh xe ôm đưa tay ra một hai dấu hiệu gì đó cho đồng nghiệp, một hay hai người sẽ chạy theo kín đáo bảo vệ nhau, tiền chia chác sau đó”.

Có thể hình dung theo trục thời gian như sau: Xe ôm có từ khi người Mỹ đến, với những chiếc Lambretta làm dịch vụ chuyên chở ban đầu. Sau đó, xe Nhật xuất hiện, trở thành phương tiện chủ yếu của giới xe ôm Sài Gòn và khách là người Việt qua lại. Xe Lambretta không còn tiện dụng nữa nên bị đào thải dần trong dịch vụ này.

Xe Lambretta được quảng cáo trên báo Sài Gòn Mới xuân Giáp Ngọ năm 1954.

Sau năm 1973, người Mỹ rút hẳn về nước, kinh tế miền Nam đi xuống, giới chạy xe ôm lại một phen khó khăn. Sau 1975, nhất là khi kinh tế khá dần lên sau đổi mới, nhiên liệu xăng nhớt thoải mái hơn thì xe ôm hồi sinh. Lúc này người Việt thích đi xe ôm nhờ tính tiện lợi có thể len lỏi vô các hang cùng ngõ hẻm, chợ nhỏ của Sài Gòn – Gia Định. Xe ôm lúc đó tiếp tục dùng các loại xe như Honda Dame, Suzuki nam, Yamaha...

Câu chuyện lịch sử xe ôm này do ông X. kể lại cho anh dược sĩ hồi sau 1975, trong lúc trà dư tửu hậu. Khi xưa, nhà anh ở khu Kho 18, quận 4 và có chứng kiến nhóm xe ôm kỳ lạ thuở ban đầu, toàn là những người đi Lambretta, đúng như lời kể của ông X.

Dạo chơi Thảo Cầm Viên năm 1971. Ảnh: Nguyễn Gia Liên.

HÀNG TRUNG QUỐC Ở SÀI GÒN XƯA

Đầu năm 2015, giới mộ điệu thời trang toàn cầu sửng sốt với kiểu váy được thiết kế từ loại vải có họa tiết giống loại “chăn con công” từ Trung Quốc. Người không sành thời trang như tôi khi nhìn hình cô Hồ Xã Quang bận bộ váy này lại nhận ra một điều gì đó rất gần gũi. Vải có nền đỏ, in hình những bông hoa mẫu đơn xòe nhiều cánh, lá xanh. Ký ức thuở nhỏ lại ùa về từ cuộc sống cách nay gần nửa thế kỷ. Họa tiết quen thuộc này tôi đã thấy khi còn nhỏ, trong lần vải lót của bình ủ ấm trà ở nhà và trên cái khăn trải bàn.

Từ cuối thập niên 1960, trong nhà tôi xuất hiện những món đồ có lý lịch khá lạ. Đó là bộ chén hạt dưa bằng sứ trắng viền xanh nhạt, lòng chén có những chấm hình hạt dưa bằng cao lanh mờ mờ có thể nhìn xuyên qua. Đó là loại chén sang trọng do một người cháu đi lính Cộng hòa đóng quân ở biên giới Tây Ninh mua tặng má tôi. Lúc đó, hàng chén dĩa cao cấp từ Pháp nhập về không có mấy, hàng PX tuồn ra ngoài thường là đồ Arita, Noritake của Nhật khá mắc tiền. Những chén hạt dưa đó là niềm tự hào của má, chỉ dùng khi nhà có giỗ. Trong nhóm đồ này, có vài cái thau, dĩa bằng sắt tráng men, họa tiết sặc sỡ và không phải là hàng Nhật.

Những món đồ đó là hàng hóa của nước Trung Hoa lục địa (phân biệt với Đài Loan). Người bà con tặng má bộ chén hạt dưa khẳng định như vậy. Anh đóng quân gần chợ trời Gò Dầu Hạ, bên kia là tỉnh Svay Rieng. Ở chợ trời đó có đủ loại hàng hóa, từ hàng trong nước sản xuất được mang lên bán cho người Campuchia, và hàng nước ngoài nhập vào Campuchia bày bán cho người Việt. Chỉ vào chai rượu Ngũ Gia Bì dáng tròn trong tủ buýp-phê mà ba tôi bảo là “Rượu của Hồng Kông” , anh mỉm cười đoan chắc: “Đây là hàng Tàu lục địa, bác ơi!”.

Vài ông hàng xóm có đi làm sở Mỹ xầm xì với nhau về một loại thuốc uống vào sẽ thấy rất “sung”. Một cô ở chợ Ga gần nhà tôi, có thân hình trước kia gầy nhom nay khoe rằng nhờ uống “thuốc mập” mang từ biên giới về thì da dẻ hồng hào bóng lưỡng, người mập ra tròn lẳn ngon lành.

Hồi còn nhỏ, tôi đã bán tín bán nghi khi nghe những điều ấy và niềm nghi ngờ ấy kéo dài khi đã trưởng thành. Làm sao hàng hóa ở một quốc gia phương Bắc xa xôi, không có quan hệ ngoại giao với chính phủ miền Nam lại được bán ở đây?

Dần dà, tôi hiểu ra đường đi lắt léo của chúng. Điều đó càng củng cố hơn, khi xem giáo trình Đại học Văn khoa Sài Gòn của ông anh, tôi thấy vẫn có những bài viết của một số học giả miền Bắc dù đất nước đang bị chia cắt. Cũng như khi tìm hiểu về tranh sơn mài của miền Nam trước 1975, thì biết rằng chất liệu sơn ta Phú Thọ vẫn được dùng chung với sơn Nam Vang kể cả khi hai miền không thông thương.

Trong cuốn Chợ trời biên giới Việt Nam - Cao Miên – một cuốn sách phóng sự tuyệt vời đã đoạt giải Nhất phóng sự 1969 của Trung tâm Văn bút Việt Nam trước 1975 – nhà văn Lê Hương đã nói khá rõ về xuất xứ loại hàng này ở miền Nam. Theo đó, trước 1970, chính phủ trung lập ở Campuchia do có quan hệ với Trung Quốc nên đã nhập nhiều hàng hóa về và nhiều mặt hàng được đưa đến chợ biên giới hai nước Việt – Campuchia. Ở đó, người Campuchia mua hàng Mỹ mang từ Sài Gòn lên như rượu Whisky, nước ngọt trong hộp, xà bông bột, lịch có hình khỏa thân... Người Việt thì thích lên đó mua hàng Pháp như rượu Martell, Dubonnet, Anis, Gin, nước suối Vichy, xì dầu Maggi, bánh bít quy LU, thuốc trụ sinh... Đặc biệt, hàng Trung Quốc cũng được thương lái mua về Sài Gòn bán. Đó là các mặt hàng như dầu cù là, bình thủy hiệu Kim Tiền đựng trong giỏ tre, chén kiểu, dĩa kiểu, thau đựng nước tráng men, nhãn nhục, rượu Ngũ Gia Bì, rượu Mai Quế Lộ, radio xài bằng dầu lửa, hột quẹt máy, máy may hiệu Gilbert, dầu cù là hiệu Ba con cọp, cao hổ cốt... Bên cạnh đó, còn có những loại hàng quái gở khác như bút máy có hình khỏa thân, thuốc chích cho mập, thuốc trị... ung thư, thuốc trị bệnh phong tình... Các mặt hàng này bán ở chợ Gò Dầu Hạ, tỉnh Tây Ninh, thuộc cây số thứ 1973 quốc lộ 1.

Hàng Trung Quốc cũng có mặt và được tiêu thụ khá mạnh ở chợ trời Thường Phước thuộc huyện Hồng Ngự, tỉnh Kiến Phong lúc đó (nay là Đồng Tháp) để sau đó đưa về Sài Gòn tiêu thụ. Lúc đó, Trung Quốc đã sản xuất nhiều hàng hóa công nghiệp, từ xe tăng, xe tải cho đến hàng hóa phục vụ đời sống và có chất lượng tuy không cao cấp và đẹp như Mỹ, Pháp, Nhật nhưng khá tốt và chưa bị nạn hàng giả hoành hành như bây giờ.

Tác giả cho rằng do đường sá xa xôi nên ở đây không sợ có hàng giả từ Chợ Lớn đổ về (thời đó đang có chiến tranh nên vận chuyển đi về không đơn giản như hiện nay).

Tuy nhiên, điều ít ai ngờ là mặt hàng Trung Quốc bán chạy nhất là các loại thuốc chích, thuốc viên trị ung thư, thuốc trị bệnh qua đường tình dục và thuốc uống để lên cân, ốm hóa mập trong vài ngày.

Thời đó, phong trào bán thuốc mập đã sôi nổi ở chợ trời này rồi lan xuống các tỉnh Châu Đốc, An Giang, Kiến Phong đến Sài Gòn. Giới phụ nữ lao xao nhất vì ai cũng muốn có thêm mỡ cho “có trước có sau” với người ta, bất chấp thuốc làm ra từ chất gì và có hại gì không. Ngoài ra, còn có các loại thuốc chuyên trị... ung thư, là những viên màu trắng, được quảng cáo là do một bác sĩ Trung Quốc nghiên cứu mấy chục năm mới tìm được một loại cỏ mọc bên đó, giá mỗi hộp 30 viên to bằng đầu đũa là 700 đồng, uống 15 ngày, không thấy nói bao nhiêu ngày lành bệnh. Thuốc này giá lên cao dần dù không thấy ai hết bệnh nhờ nó, có lúc lên tới 3.000 đồng, rồi mất tích luôn. Sau đó, chợ trời xuất hiện loại thuốc khác trị bệnh ung thư cũng từ một bác sĩ ở Bắc Kinh chiết xuất từ nhựa trái mù u.

Giữa năm 1966, lại có một loại thuốc cải lão hoàn đồng được tung ra do bác sĩ Trung Quốc bào chế. Dược liệu bào chế thuốc này được quảng cáo là lấy trên cung trăng do phi thuyền Nga mang về (?!). Có người còn nói cụ thể là do bác sĩ Trung Quốc chế, bị đánh cắp công thức mang sang Hồng Kông sản xuất. Thuốc uống vào già hóa trẻ, tóc bạc trở thành đen, điếc sẽ nghe được, tám mươi tuổi có thể cưới vợ bé, trị cả bệnh từ đau tim, phổi, bại thận, sưng gan, cả giang mai... uống vào cũng thấy lên cân ngay.

Hàng hóa Trung Quốc thời đó được đưa về Sài Gòn và các tỉnh miền Nam tiêu thụ. Tuy không nhiều nhưng tai hại nhất là các thứ dược phẩm trời ơi nói trên, không khác gì các thứ thuốc Trung Quốc sau này tuồn về từ biên giới không có địa chỉ nhà bào chế cụ thể, sử dụng hóa chất độc hại để chế biến, không chữa được bệnh như quảng cáo và gây hại cho bao người.

Nhắc lại câu chuyện này để thấy cách nay gần nửa thế kỷ, trong tình trạng không có quan hệ ngoại giao mà sản phẩm Trung Quốc còn tìm được đường để len lỏi vào Sài Gòn, nói chi trái cây thực phẩm ngậm hóa chất, thuốc chữa bệnh không rõ xuất xứ, không được kiểm nghiệm... thời bây giờ. Càng ngẫm càng thấy nhiều hệ lụy không thể nói hết...

QUÁN ĐIỆN THOẠI CÔNG CỘNG

Xã hội càng hiện đại, thông tin liên lạc càng phải tiện lợi, nhanh chóng và phủ càng rộng càng tốt. Sài Gòn cho đến năm 1963 có số máy điện thoại, bao gồm cả nhà nước và tư nhân là 6.000 thuê bao. Số máy đó không đủ đáp ứng nhu cầu của người dân trong một thành phố đang phát triển chỉ mới chín năm sau thời kỳ Pháp thuộc.

Nắm bắt được tình trạng đó, bên cạnh thuê bao tư nhân, chính quyền Sài Gòn đã có chủ trương phát triển mạng lưới điện thoại công cộng trước đó chưa có. Đầu năm 1963, Nha bưu điện Sài Gòn cho khánh thành 50 máy điện thoại công cộng trong kế hoạch tổng thể là trang bị 300 máy trên toàn thành phố. Một nhà thầu đã xây cất các Kiosque điện thoại vuông vức, xinh xắn trên một số con đường, góc phố gọi là Quán điện thoại công cộng. Mỗi Quán có một nhân viên trông nom, đặt một máy điện thoại. Nhân viên phụ trách bán đồng jeton để sử dụng điện thoại. Phần diện tích còn lại nhà thầu được phép bán các loại hàng hóa nhập ngoại, trừ hàng ăn.

Toàn bộ chi phí của kế hoạch do nhà thầu chịu. Bù lại họ được quyền khai thác trong mười năm nhưng vẫn phải đóng phí khai thác cho Nha bưu điện là 150 ngàn đồng thời ấy. Sau mười năm, các trạm điện thoại này sẽ thuộc quyền sở hữu của Nha bưu điện.

Các máy điện thoại này do hãng L.M. Ericsson sản xuất, chỉ có thể liên lạc với các máy trong các hệ thống Sài Gòn và Sài Gòn – Chợ Lớn. Người có nhu cầu gọi sẽ mua một đồng giơ-tông 5 đồng, tương đương một đơn vị điện đàm trong nội thành, bỏ vào máy trước khi quay số. Gặp trường hợp máy bên kia bận chưa trả lời thì đồng jeton vẫn nằm yên, khi đầu dây bên kia nhấc ống nghe đồng này mới rớt xuống khay, tức đã được sử dụng. Đồng jeton bằng kim khí tổng hợp này được đặt làm từ nước ngoài.

Vị trí các quán điện thoại là một danh sách dài, chúng tôi xin nêu một số nơi tiêu biểu trong số 50 quán điện thoại được lắp đặt:

Công trường Lam Sơn, phía sau trụ sở Quốc hội (nay là Nhà hát TP.HCM), ngang chỗ để xe và gần góc đường Hai Bà Trưng.

Đường Gia Long (Lý Tự Trọng) bên cạnh và bên ngoài cổng Bệnh viện Grall (Bệnh viện Nhi đồng 2).

Đường Nguyễn Văn Thinh (Mạc Thị Bưởi), gần góc đường Tự Do (Đồng Khởi).

Đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, bên trái cổng vào Thảo Cầm Viên.

Bến Bạch Đằng, phía bờ sông, bên cạnh vườn chơi trẻ em, gần cây xăng cột cờ Thủ Ngữ.

Đại lộ Lê Lợi, sau Bộ công chánh, bên cạnh trạm xe buýt.

Bến Chương Dương, gần góc Pasteur, phía trước Ngân hàng Pháp Á.

Đường Hoàng Diệu, gần góc đường Trịnh Minh Thế (quận 4), trước nhà số 3.

Đại lộ Trần Hưng Đạo, trước nhà số 15.

Đại lộ Cộng Hòa (Nguyễn Văn Cừ) gần góc đường Trần Hưng Đạo, bên số lẻ.

Đường Phan Thanh Giản (Điện Biên Phủ), trước Bệnh viện Bình Dân, chỗ để xe đạp.

Đường Lê Văn Duyệt (Cách Mạng Tháng Tám) khu Chợ Đũi, trước quán Mai Đơn, cách góc đường Trần Quý Cáp (Võ Văn Tần) 40 mét.

Đại lộ Chi Lăng (Phan Đăng Lưu, quận Bình Thạnh), gần góc đường Lê Văn Duyệt (Đinh Tiên Hoàng) cạnh trạm xe buýt ngang tòa hành chánh (UBND quận Bình Thạnh).

Đường Võ Tánh (Hoàng Văn Thụ), gần cổng vào Bệnh viện Cơ Đốc, ngang cây xăng Shell.

Đại lộ Khổng Tử (Hải Thượng Lãn Ông), gần sân vận động Lệ Chí, trước nhà số 266.

Đại lộ Thuận Kiều, bên phải Bệnh viện Chợ Rẫy.

Đường Hùng Vương, bên trái cổng vào Bệnh viện Hồng Bàng.

Chợ Trần Quốc Toản, trước sân chợ và sát lề đường Trần Quốc Toản.

Chợ Xóm Củi, giữa sân chợ, đường Tùng Thiện Vương.

Đường Huỳnh Thoại Yến (Nguyễn Hữu Thận), cửa bắc chợ Bình Tây.

v.v...

Hệ thống quán điện thoại này giúp cho cuộc sống người dân Sài Gòn trước đây tiện lợi biết bao trong đời sống thường ngày, hoạt động làm ăn buôn bán. Đến nay, chúng ta không còn thấy bất cứ vết tích nào của các quán điện thoại công cộng những năm xưa, cách nay hơn nửa thế kỷ.

Kiểu dáng chiếc điện thoại của hãng L.M Ericsson gắn ở các quán điện thoại công cộng nội đô Sài Gòn.

Quán điện thoại trên đường Lê Lợi năm 1963. Ảnh trong bài: báo SDMN số 45 tháng 3/1963.

QUÁN CƠM – PHÒNG TRÀ ANH VŨ

Lần đầu tiên tôi nghe nhắc đến tên phòng trà Anh Vũ là qua lời kể của nhà văn Thùy An. Năm 18 tuổi, chị từ Đà Nẵng vào Sài Gòn và được người nhà dẫn đi xem ca nhạc ở đó. Không còn nhớ gì nhiều, nhưng Anh Vũ là nơi tạo ấn tượng ban đầu của chị những năm đầu thập niên 1960, về không khí văn nghệ của một thành phố lớn sôi động và quy tụ nhiều tài năng nghệ thuật bấy lâu nay chị vẫn thường nghe tên.

Không còn nhiều người nhớ đến một phòng trà ca nhạc đã xuất hiện gần nửa thế kỷ trước tại Sài Gòn như vậy. Phòng trà, mô hình không gian khép kín có sân khấu ca múa nhạc, phục vụ giải khát cho khách từ nhiều năm nay không lạ lẫm gì nhưng trước 1960, Sài Gòn và các đô thị miền Nam chưa có xuất hiện mấy, cho đến khi phòng trà Anh Vũ ra đời và có vai trò khá đặc biệt trong đời sống văn hóa văn nghệ ở Sài Gòn xưa. Đây còn là một phòng trà kỳ lạ vì tích hợp cả quán ăn từ thiện và quán giải khát ca múa nhạc sống, cùng tồn tại và hỗ trợ nhau.

Người bạn của tôi, sống ở khu vực gần cầu Trương Minh Giảng, xưa gọi là khu xóm Vẹc (do từ cái tên cũ Eyriaud Des Vergnes thời Pháp thuộc của đường Lê Văn Sỹ, quận 3 hiện nay) kể chuyện chị mình, nay cũng đã hơn 70 tuổi.

Năm 20 tuổi và đang là sinh viên, khoảng đầu thập niên 1960, chị náo nức khi đọc báo và biết có cuộc thi tuyển lựa diễn viên đóng xi-nê-ma ở quán Anh Vũ, đường Bùi Viện. Vốn là cô gái gốc Bắc khá xinh xắn ở khu di cư Bùi Phát, chị tin vào sắc vóc của mình nên đánh liều đi dự tuyển, không xin phép gia đình (vì có xin cũng không được cho phép). Cuộc dự tuyển do hãng Liên Phim tổ chức, quảng cáo là một cuộc tuyển lựa vô cùng vĩ đại. Mướt mồ hôi dự tuyển, tự diễn vài cảnh nho nhỏ, chen vai thích cánh với hàng trăm người, cuối cùng chị ra về, mong có vai diễn trong phim Đò dọc và Tình bạn gì đó nghe nói sắp quay. Về nhà đợi mãi, nghĩ đi nghĩ lại rằng nếu mình trúng tuyển đi đóng phim thì bố mẹ sẽ nói sao! Cuối cùng, không hề thấy ai gọi và cũng không có bộ phim nào có tên như vậy ra đời. Chị thẫn thờ tiếc một cơ hội không biết có hay không, rồi lại mừng vì nếu nó đến thì chả biết ăn nói làm sao với “ông bô bà bô”. Nhưng nhờ vậy, chị biết đến một quán cơm từ thiện rẻ và ngon dành cho sinh viên, và biết thưởng thức ca nhạc ở phòng trà, một thú giải trí rất mới, thanh lịch dù có hơi tốn kém so với túi tiền sinh viên.

Quán Anh Vũ là cái tên ban đầu của quán văn nghệ, quán cơm nghệ sĩ và sinh viên Anh Vũ, thành lập từ sáng kiến của ông Võ Đức Diên, một kiến trúc sư và cũng là một nghệ sĩ. Nguyên trước kia vào khoảng 1945 ông có lập ra một ban kịch lấy tên là Anh Vũ và tái lập lại năm 1955, sau đó ông lấy tên này để tiếp tục thực hiện ước vọng của mình là vừa làm việc xã hội vừa tiếp tục theo đuổi hoạt động văn nghệ. Quán Anh Vũ như ông mong muốn là nơi gặp gỡ giới nghệ sĩ sáng tác và biểu diễn, là nơi thí điểm để các tài năng mới thể hiện mình khi chưa có tên tuổi.

Thời điểm cuối thập niên 1950, chỉ các vũ trường mới có trình diễn ca nhạc nhưng chủ yếu để khách khiêu vũ nên khi quán Anh Vũ hình thành phòng trà giải khát và thưởng thức âm nhạc là đã tạo một sinh khí mới trong sinh hoạt nghệ thuật của Sài Gòn. Đặt tại khu vực nội đô sát trung tâm thành phố, Anh Vũ là một phòng trà có bề ngang chừng 10m, sâu khoảng 30m chứa được 300 đến 400 chỗ ngồi và một ban nhạc, nằm phía sau rạp Nguyễn Văn Hảo, số 43 đường Bùi Viện, một con đường nhỏ sát trung tâm Sài Gòn. Quán được mở ra trước Tết Canh Tý 1960, được xem là một quán thanh lịch và có phòng trà lớn nhất Sài Gòn lúc đó. Trong khuôn viên quán có một sân khấu nhỏ phía bên phải, còn quán ăn nằm phía bên trái.

Kiến trúc sư Võ Đức Diên (trái) và nhạc sĩ Phạm Duy.

Ảnh dưới: Phòng trà Anh Vũ là nơi gặp gỡ thường xuyên của nhiều văn nghệ sĩ đầu thập niên 1960. Từ trái sang, hàng ngồi: Nhạc sĩ Lê Thương (phụ trách chương trình ca vũ kịch), nữ ca sĩ Thanh Lan (không phải ca sĩ Thanh Lan đóng phim “Ván bài lật ngửa”), nhạc sĩ Phạm Duy, kịch sĩ Trọng Nghĩa, ca sĩ Lệ Thanh, ca sĩ Mai Trường.

Ban ngày, Anh Vũ từ phòng trà ca vũ nhạc ban đêm biến thành quán cơm xã hội dành cho sinh viên và giới nghệ sĩ.

Ban vũ Phong Lan của Lưu Bình và Lưu Hồng trình diễn vũ điệu “Múa nón”.

Một tiết mục múa Tây Ban Nha sôi động do các diễn viên múa xinh tươi trình diễn. Ảnh trong bài: Báo Trẻ tập I số 8.

Ban ngày, nơi đây là quán cơm. Thời đó, trong giới nghệ sĩ chỉ có một số ít ngôi sao là sống dư dả, phần lớn còn lại kiếm sống từng đêm, ai tiện thì đến quán cơm ăn cùng với sinh viên, học sinh và giới viết lách tỏa ra từ khu các tòa báo trên đường Phạm Ngũ Lão. Mỗi bữa cơm chỉ có hai mức giá là 5 đồng và 10 đồng được xem là rẻ vì tính giá bằng phân nửa giá bán thông thường. Người ăn tự chọn đồ ăn mang ra bàn, cơm ăn không hạn chế, thức ăn ngon, sạch sẽ. Ban quản trị ở đây không chú trọng thu lời nhiều, mà quan tâm đến thái độ đón tiếp khách đến dù tầng lớp nào, vô danh hay đã nổi tiếng. Quán mở đến 7 giờ tối, lúc nào cũng đông nghẹt khách ăn.

Buổi tối, phòng trà mở cửa. Ban đầu, ông Võ Đức Diên mời được nhạc sĩ Phạm Duy về giới thiệu chương trình còn nhạc sĩ Lê Thương phụ trách sân khấu ca vũ kịch của quán. Vì là sân khấu ca vũ kịch, có ban Vũ Phong Lan của hai vũ sư nổi tiếng là Lưu Bình và Lưu Hồng. Số ca sĩ thường trực ở quán là 12 người. Lớp ca sĩ tiên phong của phòng trà này là danh ca Duy Khánh, Việt Ấn và các nữ ca sĩ Nhật Thiên Lan, Lệ Thanh, Thanh Thúy, Minh Hiếu. Ca khúc Hận Đồ Bàn với tiếng hát trầm ấm của Việt Ấn đã làm say mê người nghe. Quán còn được sự góp mặt thường xuyên của các ca sĩ như Bạch Yến, Mai Hương, Duy Trác, Cao Thái… Ca sĩ Phương Dung khi hát ở Anh Vũ được xem là thời hoàng kim của cô với các ca khúc tiền chiến đến các ca khúc đang thịnh hành như Hai kỷ niệm, một chuyến đi; Hoa nở về đêm;…

Không ít ca sĩ đã từ ca hát ở phòng trà và vũ trường mà rực sáng và Anh Vũ là một cái nôi nghệ thuật của Sài Gòn. Theo nhà báo Đoàn Thạch Hãn, tại phòng trà này, nhạc sĩ tài hoa Nguyễn Ánh 9, lần đầu tiên đệm dương cầm cho ca sĩ Thanh Thúy biểu diễn rất thành công tác phẩm đầu tay Ướt mi của Trịnh Công Sơn. Có người cho rằng bài Phố buồn được nhạc sĩ Phạm Duy sáng tác chính trong giai đoạn này.

Năm 1962, Khánh Ly bắt đầu sự nghiệp ca hát tại phòng trà Anh Vũ lúc mới 18 tuổi và chưa nổi tiếng.

Phòng trà và quán Anh Vũ thời gian đầu đã trở thành một địa chỉ sum họp của giới nghệ sĩ, nhà báo, nhà văn Sài Gòn thời đó. Có lúc Anh Vũ cũng tổ chức các hoạt động khác như là nơi tuyển chọn diễn viên như câu chuyện kể trên. Đầu năm 1960, khi ban hòa tấu thính phòng Berlin ở Cộng hòa liên bang Đức đến Sài Gòn biểu diễn hai ngày trong tháng 2, họ đã được ban tổ chức Việt Nam chiêu đãi tại đây trong không khí rất ấm cúng.

Đến cuối năm 1962, do tình hình an ninh, chính phủ lúc đó ban hành giới nghiêm, không cho phép các vũ trường hoạt động nên quán Anh Vũ đóng cửa. Trước đó, từ một phòng trà thanh lịch, quán đã dần biến thành một vũ trường bình dân, mất đi hào quang thuở ban đầu với không khí biểu diễn nghệ thuật đầy hứng khởi và giới ca sĩ chuyên nghiệp không đến hát nữa nên khách vắng thưa dần. Quán cơm Anh Vũ và phòng trà Anh Vũ chỉ còn trong tâm tưởng lớp người sống ở Sài Gòn một thời đã xa, những người lớp tuổi bảy mươi và tám mươi. Họ hoài niệm nó, như trong một đoạn thơ không rõ tác giả:

"Sài Gòn ta gởi cho em

Quán cơm Anh Vũ, phố đèn Tự Do

Nhớ em! Ôi, thuở học trò

Này đường Nguyễn Trãi, con đò Thủ Thiêm..."

“Sài Gòn ta gửi cho em

Quán cơm Anh Vũ, phố đèn Tự Do...”