← Quay lại trang sách

Sống Giữa Tim Thành Phố

Sài Gòn đối với chú bé Phú Nguyễn của những năm trước và sau 1945 là thành phố thời lụi tàn của chế độ thực dân. Nhà Phú nằm trong con hẻm số 4, đường Espagne (Lê Thánh Tôn), chỉ mấy bước đi bộ là đến cửa hàng của mẹ ở chợ Bến Thành. Từ trước năm 1945, bà đã có một gian hàng chuyên bán giày dép các loại. Hồi đó, một đôi dép gắn hột cườm, trang trí sang trọng được bán với giá 100 đồng bạc Đông Dương, tương đương năm lượng vàng (thời đó còn xài đồng xu, một lượng vàng chỉ khoảng trên dưới hai chục đồng Đông Dương).

Những ngày đó, Sài Gòn còn có những lúc yên bình. Trên đường Espagne gần chợ Bến Thành có quán cà phê và điểm tâm của người Hoa. Sáng sáng, hầu như mọi người ở khu này đều ghé vô trước khi bắt đầu một ngày làm việc mới, gọi tài phú mang đồ ăn ra: bánh bao, xíu mại, dầu cháo quẩy và một ly cà phê xây chừng. Khách ngồi xổm trên chiếc ghế đẩu thô sơ, cầm ly cà phê “ dớ ” cho vô muỗng đường, ngoáy lên rồi đổ cà phê ra dĩa để húp. Húp hết lại đổ tiếp. Tiệm này buổi sáng rất đông khách, nếu người đến trước kêu món mà tài phú bưng ra cho người đến sau, khách cứ thẳng thừng tát bốp vô mặt tài phú rồi mới lên tiếng chỉ cho thấy lỗi của anh ta. Tài phú vừa xoa má vừa xin lỗi không cự cãi và cũng chẳng ai can thiệp. Tuy nhiên, khi có anh Chà và (người Ấn) hay một anh Tây civil (dân sự) ăn uống xong bỏ chạy, chỉ cần tài phú la lên một tiếng, cả chục người sẽ rượt theo nắm đầu tên ăn quỵt đó, nện cho ra trò! Đó là ý thức về sự công bằng và sòng phẳng của người Sài Gòn.

Thời đó, nếu ai có việc cần đi lại trong nội đô thì nên đi vào giờ hành chánh. Sau bữa ăn trưa, khó mà tìm được một chiếc xích lô để di chuyển. Gặm xong ổ bánh mì hay tô hủ tíu, lưng lửng bao tử rồi, các bác tài xích lô đạp hoặc xích lô máy sẽ tìm bóng cây rợp mát, kéo mui lên, ngồi chéo nguẩy trên xe, mở tờ báo ra đọc. Nếu có ai gọi xe đi sẽ được câu trả lời gọn lỏn: “Đủ sở hụi rồi, đang nghỉ trưa, hổng có đi!”. Vào giờ nghỉ trưa, hầu hết chủ các sạp bán báo và sách truyện, quán xá vỉa hè nằm dài bên cạnh hàng hóa của mình đánh giấc ngon lành, chẳng sợ ai đi ngang qua thó món này món kia.

Trước khi Nhật đảo chánh Pháp, gia đình Phú tản cư về Gò Công. Đến khi hồi cư về Sài Gòn tháng 9/1945 thì thấy chợ Bến Thành bị cháy một góc, gian hàng khang trang của mẹ Phú chỉ còn lại đống gỗ hoang tàn. Sau này, chính phủ Nam kỳ của bác sĩ Nguyễn Văn Thinh lên, chợ được xây lại, nhưng ai muốn giữ lại chỗ phải góp số tiền tương xứng với diện tích gian hàng cũ. Toàn bộ tài sản đã cháy sạch, gia đình Phú khánh kiệt nên đành chia tay ngôi chợ này.

Giữa đường Bonard, trong công viên có tượng Francis Garnier nhìn thẳng vào Nhà hát thành phố, bên phải là tiệm bán đủ loại xe hơi, bên trái là tiệm Pancrazi thường mở tới khuya, giữa hình bên phải là mấy người phu kéo xe hướng mắt về nhiếp ảnh gia. Ảnh: T.L.

Con đường Catinat (Đồng Khởi) để lại trong ký ức chú bé Phú những kỷ niệm đẹp và cả đau buồn. Về lại Sài Gòn năm 1946, gia đình khó khăn quá, thấy Phú lang thang thất học, người dì đón về nuôi. Nhà dì ở số 119 Legrand de la Liraye (nay là Điện Biên Phủ), một biệt thự khá huy hoàng thuở đó. Dì có cửa hàng trên lầu 3 gần góc đường Catinat và Bonard, bán các loại áo đầm và mũ thời trang cho giới quý tộc, chủ yếu là người Pháp và dân nhà giàu Sài Gòn. Ngày ngày, Phú phải đi bộ từ nhà dì ở Đa Kao đến cửa hàng để học may nón, còn dì thì có xe ô tô do tài xế riêng đưa đón. Phú được một người thợ đưa cho kim may nón và tấm vải, suốt ngày ngồi may từng mũi, từng mũi. Trưa không được ăn gì, chỉ ăn bữa sáng ở nhà rồi chiều cuốc bộ từ đường Catinat (Đồng Khởi) qua Norodom (Lê Duẩn), quẹo vô Massiges (Mạc Đĩnh Chi) rồi tới Legrand de la Liraye để về nhà. Những tháng ngày đó, chú bé vẫn hằng mơ ước được trở lại cuộc sống trước 1945 để chiều chiều cùng mấy anh em đi bộ từ nhà ở đường Espagne tới Charner (Nguyễn Huệ) để chơi đùa, đi trên vỉa hè cũng thấy vui. Vì quá khổ cực và tủi thân, nên ở với dì được khoảng một tháng thì Phú cùng gia đình trở về ngã ba Cây Thị (thuộc Xóm Gà, Gò Vấp).

Sau đó, cha dượng của Phú đi thuê rồi mua được một căn kiosque ở số 2 đường Lacotte (Phạm Hồng Thái) nên cả nhà trở lại khu trung tâm. Phú được mẹ cho 100 đồng làm vốn mua mấy chục bao thuốc lá các hiệu Bastos, Camelia, Cotab... ngồi bán trước cửa nhà ga Sài Gòn, cách kiosque chừng 50 mét. Một ngày tháng 5 năm 1949 hay 1950, lính lê dương thẩy một trái lựu đạn vô trước cửa “ nhà ” (kiosque) của gia đình Phú rồi ào vô cướp phá. Hôm đó, chúng được chính phủ Pháp cho tự do phá phách một ngày ở Sài Gòn. Chúng đập cửa tiệm vàng nổi tiếng Nguyễn Thế Tài ngoài mặt tiền đường Espagne, hốt hết đồ nữ trang rồi ra bồn binh (xưa gọi là bồn binh, không gọi bùng binh) trước cửa chợ Bến Thành trải báo ra bán từ một đến năm, mười đồng một món nữ trang. Đêm đó chúng đập chết một anh xích lô ngay sau căn “nhà” của Phú.

Khoảng thời gian đó, suốt từ đầu đến cuối con đường Amiral Courbet (Nguyễn An Ninh) là xóm điếm được chính quyền cho phép hành nghề. Số gái làng chơi ở đây được kiểm tra sức khỏe hàng tuần. Cứ mỗi đầu tuần, chủ chứa thường đặt một cái chậu thau khá lớn đựng một loại nước màu xanh đậm sánh trên chiếc ghế đẩu và điểm danh. Từng cô cầm cái chén ăn cơm múc một chén uống hết tại chỗ, để chén xuống cho người tiếp theo. Nghe đâu đó là loại thuốc ngừa thai hay chống bệnh gì đó.

Xóm này thường chỉ có lính Tây hay lui tới. Ban ngày, các cô ngủ vùi, đến 5, 6 giờ chiều mới bắt đầu trang điểm, ra đứng đón khách dọc hai bên đường. Đúng ngày lính lê dương được tự do phá phách ở nội thành Sài Gòn, lúc xế chiều, sau khi say bí tỉ, bọn lính tấn công vô xóm điếm này. Các chủ chứa gọi điện thoại cầu cứu hiến binh (gendarme). Lúc sau, một chiếc GMC (loại xe quân đội 10 bánh) của hiến binh chạy đến đậu ngay đầu đường, cỡ một tiểu đội hiến binh người Pháp và Việt ùa vào xóm. Một tên quan ba (Capitaine) chuệnh choạng chạy ra. Các hiến binh tiến lại gần, đứng nghiêm giơ tay phải lên chào, rồi đột ngột thò tay trái giật phăng cái lon ba gạch (quân hàm đại úy) bỏ túi rồi quây tên quan ba vô giữa, mỗi anh tặng cho hắn một quả đấm hết sức mình, sau đó cùng nắm hai tay, hai chân nhấc tên quan ba lên đánh võng lấy trớn và quăng hắn lên thùng xe GMC chở về đồn. Lúc đó kiosque của nhà Phú ở số 2 Rue Lacotte (Phạm Hồng Thái) ngay đầu đường Amiral Courbet (Nguyễn An Ninh) nên cậu nhóc chứng kiến từ đầu, khoái chí hết sức khi thấy “ông” quan ba người Pháp bị các anh lính trơn nện cho một trận về tội phá rối trật tự công cộng.

Thời đó, các cửa hàng buôn bán vẫn chưa rầm rộ như sau này, lưu thông cũng rất êm đềm. Trên đường phố chủ yếu là xe “ máy ” (xe đạp), một vài chiếc VéloSoleX, xích lô đạp, xe ngựa, chưa có xe Lambretta, rất ít xích lô máy. Taxi cũng có nhưng chưa nhiều, chỉ có xe điện chạy trong nội thành suốt ngày. Việc đi lại trên con đường này chủ yếu là đi bộ, thói quen mặc complet hay áo dài cũng chỉ giới hạn ở các thầy cô, giới trí thức, dân thượng lưu. Không khí buôn bán không nhộn nhịp như ở chợ Cũ, dù rằng đã có chợ Mới, tức chợ Bến Thành. Chợ Cũ nằm trên boulevard de La Somme ( đại lộ Hàm Nghi), thu hút giới tiểu thương và bình dân, mọi thứ thượng vàng hạ cám đều tập trung vào chợ này.

Năm 1936, có một người đàn ông từ làng Lai Xá, tỉnh Hà Tây vào Sài Gòn, mở tiệm ảnh lấy tên Mỹ Lai ở số 48 đường Bonard, đoạn giữa Pasteur và Mac Mahon (Nam Kỳ Khởi Nghĩa). Hầu như những đồng hương miền Bắc của ông nếu vào Sài Gòn đều đi qua con đường này, nên thỉnh thoảng ông vẫn gặp người quen ngoài quê. Hai con đường Vienot (Phan Bội Châu), Schroeder (Phan Chu Trinh) hai bên hông chợ Mới (chợ Bến Thành) lúc ấy toàn là cửa hiệu của người Tàu và Tây đen (người Ấn) Bombay. Hàng quán trong chợ, người Tàu chiếm hầu hết. Khu buôn bán của người Pháp ở đường Catinat (Đồng Khởi) và Charner (Nguyễn Huệ). Ở hai con đường này, người Bắc thời đó đã có nhiều cửa hàng hơn người Tàu rồi. Những con đường Espagne (Lê Thánh Tôn), Bonard (Lê Lợi) là chỗ mà người Tàu và người Việt chen lấn nhau mạnh mẽ. Người Việt đây có cả dân ba xứ nhưng người Bắc vẫn mạnh đường buôn bán ở đây hơn.

Anh Đức Vượng, con trai lớn của chủ tiệm ảnh Mỹ Lai, sống ở khu trung tâm cho đến khi tiệm ảnh dời đi năm 1973 và có một thời tuổi trẻ ở con đường vui nhất Sài Gòn, con đường mà nhiều người tứ xứ mơ sẽ có lần đi “ bát phố Bonard ” . Sài Gòn lúc đó đã khoác một diện mạo khác hẳn, nhộn nhịp hơn rất nhiều.

Khi xem một đoạn phim về phố xá New York, anh Vượng nhớ lại những ngày còn sống trên đường Lê Lợi. Tuy không hào nhoáng như đường phố nước Mỹ, nhưng Lê Lợi thật sự đông, rất đông giống như vậy với từng nhóm người lũ lượt đổ về mỗi chiều thứ Bảy và ngày Chủ nhật, đi dọc đường phố và băng ngang từng tốp để sang đường. Hầu hết ăn mặc rất diện, phụ nữ bận áo dài rất phổ biến, nhiều người đàn ông bỏ áo vào quần, đeo kính mát, trẻ em bận đầm hay quần soọc có dây đeo. Một số phụ nữ bán hàng, nhất là các bà người gốc Bắc cũng bận áo dài. Ở ngay trung tâm, đi đâu cũng chỉ cuốc bộ, vừa đi vừa ngắm người đẹp tứ xứ đổ về, mùi nước hoa trong nắng trưa thơm nồng...

Khu bán hoa tươi chợ Tết đường Hàm Nghi năm 1954. Ảnh sưu tầm: Lê Hoan Hưng.

Cảnh nhộn nhịp trên đường phố ngã tư Catinat – Bonard (Đồng Khởi – Lê Lợi) thập niên 1950. Ảnh sưu tầm: Lê Hoan Hưng.

Tiệm ảnh Mỹ Lai số 48 Lê Lợi có mặt ở đây từ năm 1936 đến 1972. Ảnh tư liệu gia đình của anh Đức Vượng.

Đoạn đường Lê Lợi phía từ thương xá Tax đến rạp Vĩnh Lợi có nhiều cửa hàng nhỏ, nhớ nhất là một quầy bán bánh mì gà rô-ti trổ ra từ cửa hông nhà hàng Thanh Bạch, bên trong tủ kính bày bánh mì, các dĩa gà vàng tươm mỡ, các thứ gia vị, rau thơm... Bánh mì rất ngon, ăn nhớ mãi đến giờ. Trên lề đường là dãy kiosque bán sách nằm trước khu nhà vệ sinh công cộng, bên cạnh các xe đẩy bán sách “chạy” (bất hợp pháp, cảnh sát đến là ôm chạy đi chỗ khác kẻo bị tịch thu).

Phía đối diện, từ rạp Rex đến chợ Bến Thành cũng có các cửa hàng bán đồ bazar, hộp quẹt gas, ống pipe, khăn mù xoa... Các quầy hàng trên vỉa hè chỉ được phép bày ra từ đường Pasteur đến chợ vì ở khu vực rạp Rex có cơ quan viện trợ của Mỹ đóng ở đó. Thỉnh thoảng, đường Lê Lợi sôi động hơn vì các cuộc biểu tình kéo từ nhà Quốc hội (nhà hát thành phố) xuống đến chợ Bến Thành, có khi bị giải tán bởi lựu đạn cay...

Anh Tấn Thành, từng sống cùng gia đình ở đường Thái Lập Thành (Đông Du) hơn ba mươi năm, viết cho tôi: “Nếu đường Tự Do (Catinat) được mệnh danh là một ‘Champs-Élysées’ của Sài Gòn ngày xưa, thì đường Lê Lợi (Bonard) là bản sao thu nhỏ của một Sài Gòn năng động, thân thương và bình dị. Ở đây tập trung mọi sự đối nghịch đôi khi chan chát như một xã hội đang trong cơn chuyển mình để hoàn thiện bản thân. Ở đầu đường là Tòa nhà Quốc hội tượng trưng cho thượng tầng kiến trúc của hai nền Cộng hòa, cuối đường là ga xe lửa nơi cưu mang biết bao cảnh đời tha phương cầu thực của những số phận bị quăng quật vì chiến tranh. Chợ Bến Thành, một biểu tượng sống động của Sài Gòn, nơi đáp ứng những yêu cầu thiết yếu hằng ngày của người dân, là nơi con người hưởng thụ bầu không khí khoáng đạt như cánh chim tự do, phóng khoáng trong tay tượng Trần Nguyên Hãn trên công trường Diên Hồng thì đối diện với nó là những bàn đăng lính nhằm mục đích phục vụ chiến tranh, và bót cảnh sát nơi tự do con người bị giới hạn vì những lý do khác nhau. Đối lập với nhà sách Khai Trí thoáng đãng, sạch đẹp như tượng trưng cho tháp ngà tri thức của ông Nguyễn Hùng Trương là dãy chợ sách tạm bợ cạnh khu nhà vệ sinh công cộng dù mục đích của hai nơi này chỉ là một và rất cao cả, góp phần nâng cao dân trí cho người dân. Nước mía Viễn Đông, bò bía, phá lấu… là những món bình dân của mọi tầng lớp người thành thị thì bên này là kem Bạch Đằng sang trọng. Rạp Mini Rex A, B là đỉnh cao cho sự thưởng ngoạn của những người yêu màn bạc thì cách đó không xa là rạp Vĩnh Lợi phục vụ cho người bình dân cùng chung sở thích. Nếu có “sự thống nhất giữa các mặt đối lập” thì Lê Lợi (Bonard) là một hiện thực cụ thể minh chứng cho khát vọng vươn lên của một thành phố trẻ lúc ấy nhưng số phận sao có lúc quá long đong” .

Phải chăng nhờ là cư dân lâu đời ở đây nên anh bạn cựu học sinh Lasan Taberd này mới viết được những dòng khái quát rất hay về khu trung tâm Sài Gòn như vậy? Tôi không sinh ra và lớn lên giữa trung tâm thành phố, nhưng lớn lên bước vào đời làm báo, không biết bao lần đi trên những con đường này, cùng ăn uống, dạo chơi, mua sắm với người thân, bạn bè. Có một đêm Giao thừa, cùng cả nhà ngủ lại một khách sạn trên đường Nguyễn Huệ sau khi xem bắn pháo hoa, tôi dậy thật sớm sáng mùng Một, đi một mình trên vỉa hè Lê Lợi, vòng ra Hàm Nghi và thấy những câu chuyện cũ chợt hiện về. Hơn tám mươi năm trước, ông ngoại tôi đạp xe mỗi ngày từ Khánh Hội, qua cầu Ông Lãnh để đến sở làm ngay góc đường này. Năm 1944, một người cậu ruột của tôi, 22 tuổi vừa xong Diplôme, đẹp trai vẽ đẹp làm thơ hay, được đưa vào nhà thương Sài Gòn gần đó trị bệnh ban rồi mất vì một quả lựu đạn nổ sát phòng bệnh.

Nhờ khoảnh khắc hiếm hoi trong buổi sáng sớm mát lạnh và yên tĩnh như vậy, ký ức và niềm thương cảm về thân phận một thành phố mà mỗi người, mỗi thế hệ người dân ở đây gắn bó bằng những cách khác nhau, mới se sẽ trở về theo từng nhịp bước chân tôi trên vỉa hè.

Đường Bonard (Lê Lợi) xưa, nhìn từ nhà hát rợp bóng cây xanh. Ảnh sưu tầm: Lê Hoan Hưng

Đường Lê Lợi ngày nay (2016). Ảnh: Nguyễn Đình.