Xóm Cổ Đít-Xơ-Mít
Trước 1954, đường Dixmude (Đề Thám) có tên dân gian nghe buồn cười là đường Đít-xơ-mít. Còn xóm Dixmude là cái xóm nằm trong khu vực giữa đường Dixmude (Đề Thám), Galliéni (Trần Hưng Đạo) và đường Colonel Grimaud (Phạm Ngũ Lão), sát bên khu ngã tư quốc tế, tức khu phố Tây Phạm Ngũ Lão – Bùi Viện thuộc quận I ngày nay. Xóm chỉ gồm những căn nhà thấp, nhỏ. Ngay góc đường Galliéni – Dixmude (Trần Hưng Đạo – Đề Thám) khi ấy có một vườn chơi bình dân khá rộng. Ban đêm người dân ở đây đốt đèn dầu lửa, nhưng ai cũng thích đèn điện nên thường quây quần ra vườn hoa công cộng ngồi ngó nhau.
Xóm Dixmude, tương tự như những xóm nằm sát trung tâm như xóm Cầu Muối, xóm Chữa lửa (đường Trần Hưng Đạo, gần Sở cứu hỏa cũ) bắt buộc phải dùng nước máy vì không có giếng và cũng chẳng đổi nước dưới ghe được. Ở đây không thể đào giếng do trước kia là vùng đất thấp, nhà nước thuộc địa đôn cao bằng cách đưa rác đến, nên đào xuống toàn là rác, chưa kể nước ngầm đã bị ô nhiễm từ nước rác.
Để giải quyết nhu cầu nước dùng cho dân, nhà nước đặt hai phông-tên nước máy ở đường Galliéni (Trần Hưng Đạo) và đường Colonel Grimaud (Phạm Ngũ Lão), nhưng cầu nhiều hơn cung nên ở các vòi phông-tên này người ta chen lấn và đánh nhau để lấy nước. Từ đó, nảy sinh nạn đầu cơ nước, từ chỗ nước công cộng được miễn phí, đến nhà người tiêu thụ thì giá đã lên rất cao. Giá một đôi nước máy lên đến hai đồng thời đó.
Về mặt nước sạch, cái xóm trung tâm này thua xa những xóm cổ vùng ngoại ô Sài Gòn khi ấy như Phú Nhuận, Chí Hòa. Ở đó dân dễ thở hơn vì có nước giếng hoặc có thể đổi nước dưới ghe như ở xóm Vĩnh Hội thuộc quận 4 bây giờ. Ở Phú Nhuận, nước thoải mái nên người Tiều còn lập rẫy trồng cải dọc theo đường Nguyễn Trọng Tuyển ngày nay.
Năm 1944, có mấy gia đình về thuê nhà ở khu sáu căn của thầy Đội Lu, trong hẻm chùa Bửu Hoa đường Dixmude, nay là hẻm 182 đường Đề Thám, quận I. Mỗi căn nhà ở đây bề ngang 3 mét, nhỏ như mọi căn nhà trong vùng. Trước năm 1945, khu đất có sáu căn nhà này vốn là tài sản của ông Hui Bon Hoa, còn gọi là chú Hỏa, đại gia giàu nhất đất Sài Gòn. Thời loạn lạc sau 1945, một người Pháp là ông Ba Đe (không ai biết tên đầy đủ là gì, chỉ gọi là ông Ba Đe) chiếm miếng đất này. Ông Đội Lu người Việt xin thuê lại của ông Ba Đe và xây lên sáu căn nhà để cho thuê. Trước đó, trong cuộc chiến Nhật – Pháp có mấy căn nhà trong hẻm Sáu Lèo phía đường Bảo Hộ Thoại (Bùi Viện) gần đó bị đánh sập, ông Đội Lu qua dỡ cây gỗ từ đám nhà sập, có cây còn dính máu, mang về cất lên sáu căn nhà của ông, che bằng nẹp tre, vách ván. Từ sáu căn nhà này, hình thành hẻm Ba Đe, sau gọi là hẻm chùa Bửu Hoa cho đến bây giờ.
Căn cớ xuất hiện chùa Bửu Hoa ở đầu hẻm này cũng khá ly kỳ. Chuyện kể rằng hồi năm 1945, người Pháp và Việt Minh đánh nhau ở Lái Thiêu, thây phơi trắng đồng. Khi đó, thầy Thích Giác Hoa đang tu ở chùa Thiện Bửu miệt Lái Thiêu, thuộc Bình Dương, thấy thương xót nên đợi vắng người thì mò ra chôn xác. Ai ngờ, lính Tây bắt được giải về bót vì nghi ông đang hoạt động cách mạng. Lúc đó hai bên đang đối đầu nhau dữ dội nên ai bị khép vào tội chống nhà nước đều bị đem bắn không cần xét xử. Thầy Giác Hoa bị đưa về Phú Lâm giam giữ rồi bị đem xử bắn ở đây. Lúc ra pháp trường, vị linh mục Tây đến làm lễ theo quy định của chính quyền thực dân hỏi thầy Giác Hoa vì sao người tu hành lại đi làm chính trị chống nhà nước Pháp. Thầy tình thật mà nói: Tôi vì lòng trắc ẩn mà chôn xác người, bị bắt oan chứ không hoạt động chính trị. Linh mục kia nghe vậy tin lời, bèn xin tha cho thầy. Được tha, thầy không dám trở về Lái Thiêu nữa mà ở lại Sài Gòn lập am tiếp tục tu hành. Chỉ vài năm sau, cái am nhỏ của thầy phát triển dần thành chùa Bửu Hoa, xây hẳn cổng chùa ở đầu hẻm.
Chùa Bửu Hoa, số 182 Đề Thám, thuộc xóm Dixmude xưa. Ảnh: Nguyễn Đình.
Tuy nhiên trước khi có cái tên hẻm chùa Bửu Hoa thánh thiện hiện nay, nó có cái tên khiến người trong xóm rất bực bội: xóm Điếm! Số là trước năm 1954 có hai nhà đầu hẻm làm nghề chứa gái giang hồ. Đó là nhà bà Ba Én và nhà bà Sáu Sói. Thật ra, đó là hai cái chòi nhỏ chứ không hẳn là căn nhà nhưng cũng đủ cho mấy cô gái hành nghề. Người dân lao động trong xóm không thích nhưng không ai dám làm gì. Thôi thì mạnh ai nấy sống cho xong. Con hẻm khá dài, thông tuốt ra chợ Cầu Muối, rạch Bến Nghé, đường Cô Bắc nên từng là nơi ẩn náu rất tốt của những người theo Việt Minh. Hễ có động thì nhiều đường trốn, Tây rất khó tìm bắt người. Đến khi Tây rút, hai cái chòi của bà Ba Én, Sáu Sói cũng biến mất, trả lại con hẻm chùa Bửu Hoa không khí yên tĩnh.
Anh Nguyễn Anh Kiệt chào đời trong một ngôi nhà thuộc khu sáu căn nằm trong con hẻm này. Bà ngoại anh là dân Sài Gòn gốc, sinh ra vào khoảng thập niên 1870 ở khu Bùi Viện, đi làm ăn bên Miên đến đầu thế kỷ lại quay về Sài Gòn, sinh ra má anh. Năm 1946, ba má anh thuê căn nhà của ông Đội Lu và cho đến năm 1968 thì mua đứt. Nay đã hơn 60 tuổi, anh vẫn đang ở trong căn nhà đó, từ nhỏ đã chứng kiến bao nhiêu thăng trầm của xóm cổ Đít-xơ-mít như cách gọi của đám trẻ lâu nay.
Giống như đám trẻ trong xóm, ngoài giờ học anh lại lo đi gánh nước về xài. Khổ nỗi mấy cái phông-tên đều có đầu nậu canh giữ để bắt chẹt dân. Cái phông-tên góc Bùi Viện – Đề Thám thì có bà Ba Chôm và bà Ba Sách rất dữ tợn. Không ai có thể lấy nước ở đó nếu không nạp thuế cho hai bà này. Các cô gánh nước mướn cho nhà giàu muốn gánh một đôi nước (hai thùng sắt vuông tận dụng từ thùng đựng dầu hôi hiệu Con Gà, mỗi thùng 20 lít) thì phải gánh cho mấy bà hai đôi nước, gánh thẳng đến nhà nào đó được chỉ định. Nếu không muốn, thì lấy tiền đi mua nước sạch của ông Hai Hồ Nước. Ông này là anh em cột chèo với ông Tây Ba Đe nên tự tiện xây một cái hồ hứng nước phông-tên công cộng, chứa nước và bán từng gánh cho dân quanh vùng.
Phông-tên nước thủy cục là nguồn cung cấp nước quan trọng của các khu vực không đào được giếng. Từ đó, xuất hiện giới thầu nước thủy cục bất hợp pháp và giới người nghèo gánh nước mướn. Ảnh: T.L.
Dân cư thuộc khu sáu căn nhà hẻm chùa Bửu Hoa cũng khá đặc biệt. Gần đình Cầu Quan, rạp hát Nguyễn Văn Hảo là những nơi đờn ca hát xướng nên dân trong xóm nhiều người có máu văn nghệ, thích đờn ca. Đã vậy, trong xóm có căn nhà của nghệ sĩ Chín Trích nổi tiếng chuyên đánh đờn cò cho nghệ sĩ tài danh Năm Phỉ hát. Ông Chín Trích mua lại căn nhà của bà Hai Nhị là vợ ông Tám Thưa cũng là nghệ sĩ đờn ca tài tử. Nhà ông Chín Trích có bầy con ai cũng da ngăm đen, ở nhà mang toàn những cái tên độc đáo là Chà Đực (sau này là kép Thanh Tốt hát cải lương), Chà Cái (nghệ sĩ nổi tiếng Tú Trinh). Anh Kiệt lúc đó chơi với mấy đứa con nhỏ hơn của ông là thằng Cà Ri, Bít Tết, Ra Gu... Kêu tên vậy chứ không biết tên thật của mấy đứa này là gì. Bây giờ thì đứa nào cũng già hết rồi.
Đầu xóm có một tụ điểm mà ai cũng thích lui tới. Đó là cái quán cà phê không có tên, mà cả xóm gọi là quán Sống Chung. Quán này cũng có tiểu sử khá đặc biệt không thua chùa Bửu Hoa. Chuyện được kể rằng, trước 1954 có một ông tên là Hai Thu có xe hơi tham gia hoạt động bí mật, thường lén chở vũ khí tiếp tế cho Việt Minh trong rừng miền Đông Nam bộ. Một lần, ông đang chở vũ khí đầy xe thì bị Tây theo dõi. Sợ quá, ông lủi vào rừng cao su, bỏ hết vũ khí xuống, phóng xe về Sài Gòn. Ông biết xe mình đã bị nhận dạng nên không dám dùng nữa, sợ Tây bắt luôn cả người. Ông đánh xe về đầu hẻm chùa Bửu Hoa, bỏ xác xe lại đó luôn. Một thời gian sau, có đôi vợ chồng gốc Cần Thơ vì chiến tranh liên miên nên bỏ xứ lên Sài Gòn kiếm sống. Thấy cái xe vô chủ, họ chui vô ở tạm, dựng thêm cái chòi tựa vào xác xe để ngủ. Rồi từ cái chòi họ dựng cái nhà nhỏ, đẻ con một hơi chín đứa. Chỗ cái xác xe thành tụ điểm bán cà phê trong xóm, được gọi là quán Sống Chung. Mỗi ngày, từ khoảng 10 giờ sáng là các ông trong xóm tụ lại. Ông Chín Trích mang đờn cò, ông Bảy Búa được ông Chín Trích dạy đờn cũng xách đờn đến. Có thêm ông Bảy Quây, ông Tám Lắm toàn là dân đờn ca tài tử trong xóm đến ngồi, trước là uống cà phê, sau là chiêu vài ly rượu đế tự xách ra, hát hò rất vui... Thỉnh thoảng có ông Trương Ngăm, người Tiều bán dạo món lẻng kẻng (cóc ngâm, ổi luộc ngâm nước đường...) ghé vô, đứng nghe một hồi, tủm tỉm cười rồi lại xách hàng đi bán.
Đó là chuyện vui ngày thường. Ngày Tết, ngoài chuyện múa lân, đi coi cải lương thì vui nhất vẫn là tình làng nghĩa xóm của những cư dân Sài Gòn cũ ở đây, tuy không phải thuộc giới có chữ nghĩa nhưng khá sành điệu vì sống ngay khu trung tâm thành phố. Xóm làng chộn rộn đi chợ Cầu Muối, chợ Cầu Ông Lãnh hay ra chợ Bến Thành sắm Tết, í ới chỉ nhau chỗ nào bán mứt ngon, bán dưa hấu to. Riêng ở nhà cô Ba Lầy, em vợ của ông Ba Đe, vì nhớ chị và ông anh rể mũi lõ đã về Pháp năm 1954 nên lo làm đủ thứ mứt như mứt ổi, mứt chùm ruột, mứt bí gửi qua đó cho anh chị ăn lấy thảo.
Giáp Tết, ông Bự, một người vóc dáng to lớn, con một mái-chín (người giàu có gốc Hoa) ra ngồi ngay quán Sống Chung chờ sẵn, mang theo một cái lon. Thế là bà con trong xóm tự mang tiền đến bỏ vô lon. Ông Bự thu tiền cho cả xóm đi cúng Đình Cầu Quan hằng năm, rất có uy tín, ai cũng nể cũng tin. Các anh trai trẻ trong xóm thì ra khu Phạm Ngũ Lão mua báo Tết. Quanh năm đọc nhật báo in đen trắng, bây giờ có giai phẩm xuân mới ra, ai có tiền mua mấy tờ để ngắm bìa báo sao mà đẹp quá sức.
Anh Kiệt mỗi ngày vẫn đi về con hẻm chùa Bửu Hoa ở xóm cổ Đít-xơ-mít. Hầu như bây giờ không ai còn nhớ cái tên ngộ nghĩnh đó nữa dù mới hơn sáu mươi năm trôi qua. Mà cũng đúng thôi, dài bằng cả đời người rồi còn gì, đúng như bài hát Sáu mươi năm cuộc đời mà những người bán băng đĩa đi qua xóm bắt nghe hoài. Cái quán cà phê Sống Chung không còn sau năm 1975 khi cả nhà hồi hương. Mấy ông đờn ca tài tử đã quy tiên cả. Khi ngang qua chỗ mấy cái phông-tên nước hồi xưa, anh nhớ như in cảnh cãi vã lấy nước và giọng thét lác dữ dằn của bà Ba Chôm, bà Ba Sách. Phòng trà Anh Vũ ở đường Bùi Viện mà các ông trong xóm tấm tắc khen có các tiết mục ca nhạc hay, múa đẹp đã không còn từ thời ông Diệm. Ở tuổi mới lớn, anh mê thế giới của dãy tòa báo và nhà in đường Phạm Ngũ Lão, nên mong sau khi học xong trường Mỹ thuật Gia Định sẽ về làm việc ở một tòa soạn nào đó. Nhưng vật đổi sao dời, đất nước thống nhất năm 1975 và các tòa báo, nhà in ở đó hoàn toàn biến mất. Bây giờ, đó là khu phố Tây với đầy dẫy khách sạn, quán ăn và dân Tây ba lô. Có lần uống chút bia, anh lâng lâng đi trên lề con đường cũ, thấy nhớ đến nao lòng những mái nhà ngói đỏ trên đường Đít-xơ-mít, có cái đám cưới đi vào xóm trên đường đất gập ghềnh. Anh đã sinh ra, lớn lên ở đây và chắc là sẽ sống trọn đời trên cái xóm cổ mà anh yêu quý này.