← Quay lại trang sách

Sài Gòn Xưa Trong Mắt André Maire

Họa sĩ André Maire chào đời tại Paris vào ngày 28 tháng 9 năm 1898. Từ 13 đến 18 tuổi, ông theo học các khóa hội họa và tạo hình ở trường nghệ thuật, quảng trường Vosges ở Paris. Trong thời gian đó, ông gặp họa sĩ nổi tiếng Émile Bernard. Những lời khuyên của người thầy trong thời gian này để lại dấu ấn sâu sắc trong sự nghiệp của ông. Sau khi ra trường, ông làm việc cho một công ty gia đình rồi chuyển sang làm cho một chuyên viên trang trí nhà hát và cảnh quan. Năm 20 tuổi, ông nhập ngũ và đó là bước ngoặt lớn trong cuộc đời và sự nghiệp của ông.

Khi vừa đến Sài Gòn, André Maire đã lập tức viết thư cho chị gái: “Trước đây em không có ý định đến Saigon nhưng nay em đã đổi ý và sẽ lưu lại đây vĩnh viễn. Trại lính rất to, thoáng khí, giường có mùng (để khỏi muỗi), rất sạch sẽ và bữa ăn thì tuyệt vời (…). Em đã nói là em chơi violon theo cảm xúc, không theo một bản nhạc cụ thể nào, và hòa mình vào dòng âm nhạc cùng cảm xúc đó (…). Em làm quen ông Duchateau (…), nhớ viết thư cho em, gửi cho em các báo và tạp chí văn học, các phiên bản tranh của bảo tàng Louvre.

Người em luôn thương nhớ chị!

André Maire, Sư Đoàn bộ binh thuộc địa 11, Đại đội 14, Tiểu đội 1, Saigon Đông Dương”.

Ở Sài Gòn, ông quan sát đường phố với góc nhìn trào phúng, điều có thể thấy rõ trong một số tác phẩm của ông.

Năm 1920, André Maire trở thành giáo sư dự khuyết dạy hội họa tại trường Chasseloup Laubat ở Sài Gòn nhờ sự ưu tiên giúp đỡ của ông Duchateau – Giám đốc Cảng Sài Gòn và là một người bạn của họa sĩ Émile Bernard. Tất nhiên còn do ông có bằng cấp của trường Vosges ở Paris. Trong thời gian này, ông dành thời gian rảnh rỗi để vẽ và du hành, đặc biệt là sang Cambodge (Campuchia). Một điều chắc chắn, thành phố Sài Gòn là nơi thu hút sự quan tâm của André Maire, con người và khung cảnh sống ở đây đã làm ông thấy hứng thú.

Sau hai năm, ông trở về Pháp để học tiếp học viện Julian ở Paris rồi theo Émile Bernard sang Ý bắt đầu chuyến hải hành đầu tiên. Dừng chân tại Venise, ông cưới Irène Bernard, con gái của thầy mình. Từ Venise khoảng năm 1924, ông thường xuyên quay lại Paris, xuất bản Saïgon là bộ sưu tập 40 bức khắc trên gỗ với lời mở đầu của Émile Bernard.

Tiếp thu lời khuyên của thầy, ông thực hiện một số tranh sơn dầu cho việc trưng bày ở lần quay lại này. Dựa vào các lá thư của Émile Bernard, người ta biết rằng cuộc trưng bày diễn ra tại khách sạn Continental, là nơi lui tới của giới thượng lưu.

Vào năm 1930, những tác phẩm về Đông Dương của André Maire, mà ông giới thiệu nhiều năm trước cùng với các tác phẩm về nước Ý đã giành được sự quan tâm. Vì vậy ngày 28 tháng 3, cơ quan kinh tế Đông Dương ở Paris đề nghị ông trưng bày tám bản vẽ bằng mực tàu. Vào tháng Tư năm đó, có một lá thư của chính quyền Đông Dương, gửi tới Giám đốc Cơ quan kinh tế, trong thư viết: “Ngài có thể vui lòng giao phó cho tôi một số bản khắc gỗ, tranh, tranh in… để trang trí gian hàng về Đông Dương thuộc khu thuộc địa của Phòng tranh dành cho các nghệ sĩ Pháp?”. Phòng tranh này được tổ chức ở Grand Palais. Trong số khách mời danh dự có toàn quyền Albert Sarraut và các nhân vật quan trọng khác, các học giả và thành viên các học viện. Nhiều giải thưởng được trao cho những tác phẩm hội họa cũng như các môn nghệ thuật khác về văn học, khảo cổ, kiến trúc, nghệ thuật trang trí và sân khấu.

Tháng Mười 1948, Maire trở lại châu Á. Lúc này ông mang chức danh Giáo sư hội họa và tạo hình tại trường Cao đẳng Kiến trúc Hà Nội. Trường Mỹ thuật Hà Nội được thành lập 1924 và đến năm 1926 đã có thêm phân khoa Kiến trúc. Học sinh muốn vào đây học phải có bằng Tú tài ban toán hoặc tương đương, sau năm năm được đào tạo sẽ ra làm kiến trúc sư hoặc chuyên viên phụ trách các công trình công cộng. Lúc đó, trường không còn chịu sự quản lý của chính quyền Pháp ở Hà Nội, mà Paris sẽ quản lý. Các bài thi trong trường sẽ được gửi sang thủ đô nước Pháp để chấm. Tuy nhiên, duyên phận khiến ông không ở Hà Nội lâu. Vì lý do chiến tranh, trường phải di dời vào Đà Lạt, một thành phố nhỏ có khí hậu mát dịu ở miền Nam. Tất nhiên, Maire di chuyển theo nơi làm việc của mình. Ông giảng dạy thay cho một giáo sư vừa thiệt mạng vì bị lọt vào ổ phục kích trên đường ra phi trường Đà Lạt.

Bản tính không quan tâm lắm đến thời cuộc, André Maire đến Đà Lạt vào tháng Mười năm 1948. Ông sống với vợ trong một biệt thự đối diện Viện Pasteur, với tâm thế như không hề có chiến tranh. Ông dành thời gian cho việc chuẩn bị bài giảng và các chuyến đi dạo, cùng các buổi vẽ tranh phong cảnh với học trò. Với tập giấy vẽ cặp ở nách, ông đi xuyên các khu rừng, vòng quanh thành phố, hoặc khu vực Langbiang. Nơi đây ông say sưa khám phá cao nguyên cùng văn hóa của người Thượng ở cao nguyên trung phần. Đà Lạt là nơi đủ lớn để có thể quan sát các sắc tộc Kinh, Thượng sống hòa quyện với nhau, đặc biệt là vào các buổi chợ sáng. Cùng đi với các kỹ sư công chánh, ông tới thăm Ban Mê Thuột, nơi trị vì của vị tộc trưởng Gia Rai, rồi cùng với vị này tham gia các buổi săn bắn, viếng thăm làng mạc người Gia Rai và các khu vực phụ cận như thác Gougah, hoặc ra miền duyên hải như Nha Trang, Đà Nẵng, nơi có viện bảo tàng mà ông dành thì giờ để nghiên cứu nghệ thuật Chăm.

Đà Lạt là trung tâm của đời sống trí thức thời đó, có bác sĩ, giáo sư, công chức nhà nước, tạo nên một thế giới cởi mở. Học trò của Maire thường xuyên lui tới thăm viếng. Ông và người láng giềng là hoàng đế Bảo Đại đôi khi cũng qua lại với nhau.

Có vị trí tuyệt diệu, Đà Lạt được bao phủ bởi khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, là nguồn cảm hứng cho một tâm hồn nghệ sĩ. Khi André Maire quay trở lại những nơi ông đã từng viếng thăm lần đầu tiên vào năm 1919, ông đã là một nghệ sĩ đầy khát vọng và có nhiều trải nghiệm. Ông đã vượt qua những khó khăn về mặt kỹ thuật, giờ chỉ là việc thể hiện ý tưởng của tranh qua hình tượng chứ không còn là những nét vẽ, ý tưởng được thể hiện qua đường nét đặc trưng, tầm nhìn, trong một bộ khung mà ở đó chủ đề của bức tranh tuân theo những cảm xúc của người nghệ sĩ.

Dự định sống vĩnh viễn ở đây, Maire có nhiều thời gian để nghiên cứu sâu hơn về dân tộc học, các tộc người. Ông cũng nghiên cứu động vật hoang dã. Các phong cảnh được thể hiện trong bản vẽ của ông thường được thực hiện vào ban sáng. Buổi trưa dành cho việc thực hiện tranh màu nước kích cỡ lớn. Người Gia Rai đa nghi và rất khó tiếp cận nên ông tranh thủ vẽ họ nhanh chóng khi họ đi chợ, ở Đà Lạt hoặc trong làng mạc của họ. Ông cũng nghiên cứu thái độ, cách ăn mặc, những vật dụng hàng ngày, môi trường sống của họ và những cảnh săn bắn.

Vào năm 1950, trường học được chuyển về Sài Gòn. Rất nhanh chóng, Maire tạo dựng các mối quan hệ và gặp gỡ bạn bè, để trở thành một họa sĩ của thành phố này. Ông thường xuyên trưng bày các tác phẩm. Đến tháng 12 năm 1953, ông có dịp trưng bày 10 bức tranh sơn dầu, 29 tranh màu nước, 20 bản vẽ và 3 pa-nô trang trí cho tổ chức l’Alliance française (Liên minh Pháp) tại Sài Gòn.

Trong thời gian cư trú ở Đông Dương, ông theo đường mòn vạch ra bởi Auguste Pavie vào đầu thế kỷ XX, đặt chân đến Lào và ở lại Luang Prabang để nghiên cứu cách tạc tượng đặc biệt ở đó. Ông còn dành nhiều thời gian để thăm viếng Angkor với sự dẫn đường của người bạn Henri Marchal – một nhà bảo tồn và là thành viên nổi tiếng của trường Viễn Đông Bác Cổ. Nhãn quang thẩm mỹ của ông phát triển bột phát nhờ vào việc quan sát các di chỉ, qua đó tạo niềm cảm hứng hơn hẳn những nơi khác và sức ảnh hưởng của chúng theo ông đến cuối đời. Thời gian lưu ngụ của ông ở Đông Dương bị ngắt quãng hai lần vào năm 1951 và 1954 khi ông trở về Pháp. Ông cũng khám phá đồng bằng sông Cửu Long, nơi ông đặc biệt thích thú việc phản ánh những làng nổi đông dân, những con thuyền nổi.

Năm 1954, Pháp chấm dứt chế độ thuộc địa ở Đông Dương. André Maire quay về Pháp rồi được hàng loạt giải thưởng về nghệ thuật. Năm 1984, ông qua đời đột ngột tại Paris ở tuổi 86, ngay trong xưởng vẽ với người thân xung quanh.

Sài Gòn trong tranh của André Maire là một thành phố thuộc địa đã hoàn toàn bị áp đặt xong chế độ thực dân. Có vẻ như trong những ngày sống ở đây, ông tách bạch hẳn giữa công việc và thú quan sát, vẽ tranh kiểu “cưỡi ngựa xem hoa”. Không quá sắc sảo và có lúc cay đắng như André Joyeux, cũng là một họa sĩ – quan chức thuộc địa khi vẽ tranh châm biếm và phê phán xã hội thực dân, André Maire như một người nhàn tản hay là khách du lịch ngày nay, đi vòng quanh đô thị, xuống bến tàu, ra đường phố, vào Chợ Lớn xem múa lân, chui vào tiệm hút xem các “tiên ông” đi mây về gió. Ông có đôi mắt hiếu kỳ, thích nhìn thấy những nét lạ của một vùng đất mới, hơi duy mỹ trong thể hiện các hình tượng (có thể do ứng dụng vào tranh khắc nên thể hiện hình tượng khá cô đọng).

Cũng như nhiều người phương Tây đến Sài Gòn từ cuối thế kỷ 19 đến nay, ông chú ý quan sát đến sinh hoạt của người Hoa và tập trung mô tả về sinh hoạt của họ rất nhiều, một phần do văn hóa truyền thống của người Hoa Chợ Lớn rất đậm đà và sự tham gia sâu vào hoạt động mua bán trên đường phố của họ. Tuy nhiên, tranh của ông đẹp, gợi lên một thứ hương xa vắng của một thành phố còn ngây thơ, rụt rè với văn minh đô thị, rất gần gũi nông thôn chung quanh. Điều này khác với tranh của André Joyeux với những hoạt động của người Việt bên cạnh ông Tây bà đầm trên đường phố, trong phòng riêng. Sài Gòn của André Maire cũ kỹ hơn, hiền hòa, uể oải và dân dã hơn. Ông mô tả hầu hết người lao động Việt – Hoa lam lũ như nhau trong hành trình kiếm sống, và sự có mặt của giới trung lưu điểm xuyết thêm. Hình ảnh những người thực dân trong tranh của ông hoàn toàn mờ nhạt, như mặc nhiên được chấp nhận. Ông không đặt ra bất cứ dấu hỏi hay dấu chấm than nào về sự hiện diện của họ.

Dù sao, tranh của André Maire là những bức tranh đẹp và có sức truyền cảm. Từ hình ảnh một phụ nữ nhà giàu ăn bận kiểu phụ nữ Sài Gòn xưa, nửa nằm nửa ngồi đón hàng trái cây cho đến những người bán hàng trên phố. Tên thực dân ngồi chễm chệ trên xe kéo chạy trên đường nắng. Phụ nữ che nắng bằng khăn. Người đàn ông bán dạo hạ gánh nghỉ chân, đội nón cời-lối ra dáng người Tàu nhập cư. Những chú bé lang thang không quần áo hoặc bán quà bánh bằng mâm đội trên đầu. Từ dáng còng lưng của anh thợ làm lồng đèn, đến hình ảnh người phụ nữ trùm khăn cầm nhang khấn vái. Từ dáng đứa con nít bán bánh đặt cái mâm trên đầu đến một đám người lao động nghèo túm tụm ăn cơm. Sài Gòn của những năm đầu thế kỷ 20 thể hiện từ tranh của ông khiến người xem mênh mang nghĩ và cảm về những bước đi của tổ tiên ông bà mình sống trên thành phố này.

Tết Rồng. Tranh khắc trên gỗ hai mặt.