← Quay lại trang sách

Góp Thêm Mảnh Vụn Về Một Ngôi Sao

Dịp Tết 1954, soạn giả Nguyễn Phương gặp soạn giả danh tiếng Tư Chơi trên đường phố Sài Gòn. Nguyễn Phương nói: “Anh là ngôi sao sân khấu, dù có lúc bị mây che mờ, nhưng ngôi sao vẫn là ngôi sao. Tài năng của anh vẫn có thể giành lại cho anh một vị trí xứng đáng trên vòm trời nghệ thuật” . Ông Tư Chơi lắc đầu: “Những nghệ sĩ khác… những ngôi sao kia dù có xa rời sân khấu nhưng vẫn còn hình dáng của những vì sao. Còn tôi bây giờ là một cái khối nát vụn chẳng còn hình thù gì rõ rệt của một vì sao” . (Trích Soạn giả Tư Chơi, mảnh vụn của một vì sao – Nguyễn Phương)

Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua từ ngày soạn giả Huỳnh Thủ Trung, tức nghệ sĩ Tư Chơi ra đi, năm 1964. Ông đã từng có một thời lừng lẫy, “là một vì sao sáng chói nhất trên bầu trời nghệ thuật sân khấu cải lương trong các thập niên 30, 40, 50” như soạn giả Nguyễn Phương mô tả. Ông cũng là người kiến tạo nhiều vì sao sân khấu, từng là chồng và cũng là người dìu dắt hai nữ nghệ sĩ sân khấu cải lương có nhan sắc và danh tiếng một thời là nghệ sĩ Phùng Há và nghệ sĩ Kim Thoa vào con đường nghệ thuật.

Nhưng không đợi đến hôm nay, mà chỉ mười năm sau khi ông mất, hầu như tên tuổi ông đã bị người đời cho vào lãng quên, đó là nhìn nhận chua chát của những người trong gia đình ông. Mãi đến sau này, khi báo chí viết về nghệ sĩ nhân dân Phùng Há, cái tên Tư Chơi mới được nhắc lại nhiều, chủ yếu vì ông là người chồng đầu tiên của bà. Danh tiếng lừng lẫy nhưng bị quên lãng mau chóng, phải chăng đó là số phận hẩm hiu của một nghệ sĩ từng tỏa sáng một thời nhưng không có hạnh phúc trong cuộc sống riêng và thường chìm đắm trong men rượu, nhất là giai đoạn cuối đời? Vài câu chuyện hiếm hoi về ông Tư Chơi chỉ xoay quanh những tháng ngày cuối đời bất hạnh của ông, nhưng đời người nghệ sĩ tài danh này còn những ẩn tình sâu kín mà từ góc nhìn phía gia đình, có những điều vẫn chưa bộc bạch.

Trong những ngày hè 2016, nhạc sĩ Huỳnh Hữu Thạnh, cháu nội đích tôn của soạn giả Tư Chơi và nghệ sĩ Kim Thoa ôn lại ký ức về người ông nổi tiếng và vô cùng độc đáo của mình. Anh Hữu Thạnh là con trai duy nhất của nhạc sĩ Huỳnh Thủ Hiếu. Ba anh là con cả và là con trai duy nhất của soạn giả Tư Chơi, là nghệ sĩ đánh trống, sáng tác và chơi nhiều nhạc cụ của nhiều ban nhạc từ các thập niên 1940 đến 1990. Thừa hưởng tố chất của cha và ông nội, năm 14 tuổi (1973), Hữu Thạnh đã bắt đầu làm quen với việc chơi guitar ở nhà hàng Vân Cảnh. Sau 1975, anh học Nhạc viện, từng học chương trình Cao học ở đây và là trưởng ban nhạc của vài đoàn nghệ thuật cho đến khi nghỉ để hoạt động âm nhạc tự do sau này. Anh còn giữ cẩn thận nhiều kịch bản viết tay, một số thư từ của nghệ sĩ Tư Chơi. Sống với cha từ lúc bốn tuổi khi cha mẹ đã ly dị, anh quanh quẩn bên cha, chứng kiến nhiều lần ông Tư Chơi qua thăm con cháu, nghe được những câu chuyện về người thân trong gia đình nghệ sĩ của mình.

Theo cuốn gia phả Họ Huỳnh Văn hay Huỳnh Khắc do ông Nguyễn Tấn Long soạn xong năm 1997 lưu truyền trong dòng họ (ông Nguyễn Tấn Long là đồng tác giả bộ sách nổi tiếng Việt Nam Thi nhân Tiền Chiến , có mẹ là chị em họ của nghệ sĩ Tư Chơi), thân phụ của nghệ sĩ Tư Chơi là Huỳnh Khắc Thông, không rõ ngày sinh ngày mất, thân mẫu là bà Cao Thị Thanh. Hai ông bà sinh ra nghệ sĩ Tư Chơi năm 1907 (Đinh Mùi) ở Bến Tre. Theo gia phả, nội tổ họ Huỳnh ở Bến Tre là Huỳnh Văn Báu, có hai con trai là Huỳnh Văn Hòa và Huỳnh Văn Hơn đều giữ chức Lãnh binh triều đình nhà Nguyễn. Thời vua Tự Đức, sau khi Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây, phong trào kháng chiến chống thực dân của Trương Định nổi lên ở vùng này. Khi nghĩa binh Trương Định thắng được một số trận, triều đình Huế cử ba vị Lãnh binh tiếp viện. Đó là các ông Huỳnh Công Tấn (giữ trung quân), hai anh em Huỳnh Văn Hòa và Huỳnh Văn Hơn giữ hữu và tả quân. Huỳnh Công Tấn làm phản, lực lượng này tan rã. Sau một thời gian cầm cự, ông Hòa lánh vào một ngôi chùa ở vùng Bình Đại còn ông Hơn rút về làng An Hóa, cù lao Phước Thạnh, đều thuộc Bến Tre. Ông Tư Chơi – Huỳnh Thủ Trung là cháu đời thứ 4 của ông Huỳnh Văn Hòa.

Người quan tâm đến giới cải lương cổ nhạc đều biết soạn giả Tư Chơi là người chồng đầu tiên của nghệ sĩ Phùng Há, có với bà một cô con gái tên là Bửu Trân. Tuy nhiên, người con nổi tiếng nhất của ông là nghệ sĩ Huỳnh Thủ Hiếu, thường gọi là Huỳnh Hiếu hay Huỳnh Háo, con của ông với nghệ sĩ Kim Thoa. Huỳnh Hiếu là một nghệ sĩ đa tài, giỏi nhiều loại nhạc cụ, tham gia biểu diễn trong nhiều ban nhạc hàng đầu ở Sài Gòn thập niên 1940 cho đến 1990, được mệnh danh là “tay trống số một Đông Dương”, là thầy đào tạo nhiều tay trống ban nhạc hiện nay, trong đó có nhạc sĩ Tùng Giang, nhạc sĩ Dũng râu (là người đào tạo nhiều tay trống hiện nay như Khắc Triệu, Công Thanh, Kiên Hoài...). Rất nhiều nhạc sĩ quý trọng, hâm mộ và vẫn còn nhắc đến ông với tình cảm quý mến.

Nghệ sĩ Huỳnh Hiếu từng trả lời con trai Hữu Thạnh về nguyên do ông Tư Chơi trở thành soạn giả sân khấu: “Ba từng ghét hai chữ tự học, vì học gì cũng phải có thầy, nhưng ba biết ông nội con là người tự học để có sự nghiệp như vậy. Ông giỏi chữ Nho, Anh và Pháp văn, đọc sách nhiều, rành nhạc lý và đọc sách, đối chiếu với nhạc lý phương Tây để rút tỉa cho riêng mình những nguyên lý và cách thức biểu diễn” . Soạn giả Nguyễn Phương cũng ghi nhận: “Ông Tư Chơi giỏi chữ Nho, biết tiếng Anh và làm thơ rất hay. Ông cũng là một nhạc sĩ tài danh, chuyên đờn đoản. Bài vọng cổ ‘Tiếng nhạn kêu sương’, nhịp tư của nghệ sĩ Tư Chơi mở đầu cho bản ‘Dạ cổ hoài lang’ của ông Sáu Lầu phát triển dần lên nhịp 8, nhịp 16, 32, 64… Soạn giả Tư Chơi sáng tác nhiều tuồng xã hội như ‘Khúc oan vô lượng’, ‘Lỡ tay trót đã nhúng chàm’, ‘Tôi xin chừa’, ‘Hai mặt còn trơ’, ‘Ai là bạn chung tình’, ‘Em muốn tự do’… Các tuồng nầy đã làm mưa làm gió trên các sân khấu Huỳnh Kỳ, Trần Đắc từ Nam chí Bắc, với những ngôi sao sân khấu Phùng Há, Năm Châu, Tư Út, Kim Thoa, Kim Hui, Tư Thạch… Soạn giả Tư Chơi cũng là người đầu tiên đưa nhạc Tây vào sân khấu cải lương. Thời đó các bản nhạc tình của Pháp rất thịnh hành ở Sài Gòn, Hà Nội và các thành phố lớn ở Việt Nam như bài ‘J’ ai deux amours’, ‘Marinella’, ‘La petite Tonkinoise’, ‘Tant qu’il y aura des étoiles’… do nam ca sĩ Tino Rossi và nữ ca sĩ Joséphine Baker ca. Ông đã viết lời Việt nhạc Tây cho diễn viên ca trong tuồng của ông” . Không chỉ dùng nhạc Tây, ông còn sáng tác nhiều bài tân nhạc cho tuồng cải lương ông soạn.

Tuy là người thành công trong nghề, lấy được người vợ đầu là ngôi sao sân khấu Phùng Há, ông Tư Chơi không hưởng hạnh phúc với bà lâu. Sau hai năm sống chung, cuộc hôn nhân tan rã, ông rời gánh hát Tái Đồng Ban, bà Phùng Há về thăm quê nội Trung Hoa, gửi con gái chung của hai người là Bửu Trân cho em ruột nuôi dưỡng. Ông mất vợ, xa con và cô con gái của ông cũng không mang họ cha mà lấy họ Lý của dưỡng phụ. Theo Hữu Thạnh, vết thương lòng của ông nội anh khi chia tay bà Phùng Há lớn hơn nhiều người nghĩ. Sau này khi lấy được nghệ sĩ Kim Thoa, một nghệ sĩ hát hay, xinh đẹp và tài danh, ông Tư Chơi vẫn không nguôi nhớ đến bà Phùng Há, thậm chí trong lúc ngủ và những lúc riêng tư vợ chồng, ông còn gọi tên bà.

Bức ảnh chưa từng công bố về một gia đình nghệ sĩ danh tiếng: Soạn giả Tư Chơi (Huỳnh Thủ Trung), nghệ sĩ sân khấu cải lương Kim Thoa và con trai 10 tuổi Huỳnh Thủ Hiếu, sau này là nhạc sĩ Huỳnh Hiếu (còn gọi là Huỳnh Háo). Ảnh chụp năm 1939.

Ảnh các trang 119 –120 là tư liệu của ông Huỳnh Hữu Thạnh.

Có lẽ còn nặng tình với nghệ sĩ Phùng Há, nên soạn giả Tư Chơi vẫn viết nhiều vở tuồng “hương xa” cho đoàn Phụng Hảo của Phùng Há, bên cạnh những vở tuồng xã hội cho đoàn Kim Thoa của vợ mình. Tuy có người vợ sắc vóc đẹp, hát hay, danh tiếng, khi ra đường, ông không mấy khi nắm tay vợ, đi đâu cũng chồng đi trước, vợ lẽo đẽo theo sau. Con cháu của ông hiểu trong lòng ông còn mối vương vấn người vợ trước và nặng tình thương cô con gái đầu lòng. Dần dà, ông chìm đắm vào men rượu. Năm 1952, nghệ sĩ Huỳnh Hiếu đang diễn ở Nam Vang gửi thư cho người chú họ hỏi thăm: “Ở nhà bây giờ ra sao? Ba cháu có bớt uống rượu không?”.

Tất cả những điều đó góp phần làm rạn nứt mối quan hệ giữa ông và nghệ sĩ Kim Thoa, dẫn đến cuộc chia tay vào khoảng thời gian trước năm 1954. Đến năm 1959, cô con gái Bửu Trân qua đời khiến ông suy sụp hẳn.

Sau này, bà Kim Thoa sống đến cuối đời với một bác sĩ ở cư xá Chu Mạnh Trinh. Hữu Thạnh nghĩ rằng bà nội mình có nhiều buồn hận với ông chồng quá nặng tình người cũ, nên bà cũng không gần gũi con trai Huỳnh Hiếu, chỉ vì ông Hiếu quá giống cha từ diện mạo đến tài năng.

Trong trí nhớ của Hữu Thạnh, hình ảnh của ông nội những năm cuối đời thật buồn. Lúc đó, ông sống với người vợ cuối ở Thủ Thiêm, thỉnh thoảng về thăm con trai và các cháu nội ở căn nhà số 809/47 đường Trần Hưng Đạo, quận I. Ông luôn xuất hiện bất ngờ trước nhà, dáng người tầm thước, tóc hoa râm, bỏ áo vô quần tươm tất. Có lúc tỉnh, nhiều lúc say, không mấy khi thấy vui.

Người trong xóm cũng rất quý ông Tư Chơi vì ông soạn tuồng hay, lại thân tình với bà con. Thời gian cuối thập niên 1950, đầu thập niên 1960 tuy không còn làm thầy tuồng, ông vẫn được trả tiền khi có đoàn hát nào diễn vở của ông. Nhận được khoản tiền nào, ông cầm đến hai quán cà phê quen thuộc của ông Tám Nhỏ và ông Sáu Đức trong hẻm, gửi lại một số tiền. Rồi mỗi lần đến thăm con cháu, ông ra ngồi quán, uống trừ dần. Ông còn bảo chủ quán trừ vào tiền cà phê của những người ông quen trong xóm. Đó là kiểu sống hào sảng phong lưu của một nghệ sĩ luôn yêu quý bạn bè, chòm xóm nhưng thu nhập thất thường lúc có lúc không có đồng nào, luôn muốn chắc rằng mình có thể đãi đằng bạn bè. Kiểu xài tiền này không chỉ dành riêng để ông uống rượu dài dài như mọi người vẫn nghĩ. Hai quán cà phê trở thành chỗ ấm áp tình chòm xóm. Mỗi lần đến quán, ông Tư Chơi kêu cà phê vợt, đổ vào dĩa cho cháu nội húp, thêm chút bơ Bretel cho thơm. Quán quen thuộc như ở nhà, đến độ một lần năm 1957, khi ra quán cùng với Huỳnh Hiếu, ông nói chuyện phải quấy với con về một chuyện gì đó. Huỳnh Hiếu khi đó đã 28 tuổi, có con lên ba nhưng vẫn bị ông bắt quỳ ngay tại quán để chuộc lỗi và Huỳnh Hiếu làm ngay không dám cãi lời. Có lẽ ông muốn mọi người thấy gia đình mình dù thế nào vẫn giữ phép tắc, trên dưới.

Vì là người phóng khoáng, một phần do còn thương người vợ từng sinh ra cho mình năm người con nên dù chia tay vợ, Huỳnh Hiếu vẫn nuôi cả gia đình rất đông gồm mẹ vợ, mấy người dì cậu, mấy người em vợ từ Nam Vang về tất cả hơn chục người, nuôi ngay trong nhà và trong căn nhà kế bên. Một lần, nghệ sĩ Tư Chơi thấy Huỳnh Hiếu buồn rầu nhắc đến người vợ đã theo người khác thì nổi cơn giận, gào lên: “Đó, bây giờ mày đã rơi vào hoàn cảnh của tao, mày có hiểu đàn bà chưa? Mày còn xao xuyến bởi cái hình bóng cũ. Tao tin mày còn xao xuyến như tao, nên mày đừng cười nhạo tao...” .

Ông Huỳnh Hiếu từng nói với Hữu Thạnh: “Ông nội con muốn ba giữ chữ hiếu, nên đặt tên ba là Thủ Hiếu!”. Ông được ông Tư Chơi dạy dỗ rất kỹ lưỡng. Quan niệm về cách lập thân của ông Tư Chơi truyền cho con, và từ Huỳnh Hiếu truyền tiếp tục cho Hữu Thạnh là: “Học và không chơi. Có học mới thay đổi cuộc đời” , cho dù là hoạt động trong ngành giải trí cũng phải khổ công học hành luyện tập. Hữu Thạnh cho biết ba của anh không được đến trường ngày nào, nhưng có thể nói tới năm ngoại ngữ, vốn kiến thức khá rộng nhờ thường đọc sách tiếng Pháp, tiếng Anh, rất mê đọc tạp chí Reader's Digest. Trong suốt thời gian học đánh trống với các nhạc sĩ người Philippines ở Campuchia, ông dùng tiếng Anh. Ông biết tiếng Pháp, tiếng Khơ-me nhờ sống hai năm bên Campuchia, biết tiếng Quảng Đông và Quan Thoại... Trong thời gian Tư Chơi và Kim Thoa lập gánh Kim Thoa trước 1945, Huỳnh Hiếu tuy còn nhỏ vẫn đi theo cha mẹ lưu diễn khắp nơi trên ghe bầu. Ông được cha dạy tiếng Pháp, tiếng Anh và dạy đàn, hát. Mỗi sáng, nếu đêm trước không uống say, ông Tư Chơi dạy chữ cho con. Buổi chiều, Huỳnh Hiếu tập nhạc với nhạc công người Phi, ông Bénito, mà Huỳnh Hiếu gọi là “ông Nội Bê” vì rất thân thiết. Khi ghe trên đường tới nơi diễn, tiếp tục tập nhạc trên ghe mỗi tối.

Ông Tư Chơi nghiêm khắc với con, thấy con lui cui chơi cá cảnh, ông bắt đem liệng đi. Bà Kim Thoa mua cho chiếc xe đạp, ông cũng không cho con chơi vì phải lo học. Ý chí của ông mạnh đến nỗi trong thời gian đoàn lên bờ, không lưu diễn bằng ghe, ông Bénito tuân thủ đến mức tát vào mặt Huỳnh Hiếu chỉ vì mới tắm xong, Hiếu đứng trước gương săm soi chải đầu xức brillantine mà chậm trễ việc tập đàn. Huỳnh Hiếu nói với con: “Ba không có tuổi thơ!”.

Sau này, Huỳnh Hiếu dạy học trò nghề trống rất tận tâm, không lấy tiền ai và luôn yêu cầu cao đối với học trò, như “ông Nội Bê” đối với anh ngày xưa.

Thương cha, Huỳnh Hiếu lớn lên tuy không gần gũi với ông nhưng thấu cảm được nỗi lòng cha mình. Họ đều là những nghệ sĩ nếm trải nhiều vinh quang trong nghề, nhạy cảm và được người đời thương yêu nhưng hiểu được những cay đắng của đời nghệ sĩ ăn quán ngủ đình, lang thang trên đường lưu diễn ở một đất nước nghèo khó và chiến tranh liên miên. Ông Tư Chơi theo Nho học, luôn giữ khoảng cách, thậm chí lạnh lùng với con để dễ bề dạy dỗ. Ông dạy con: “Có tài nhưng đừng đi xa quá, chỉ vượt lên người khác một chút thôi. Vượt xa quá, người ta không hiểu mà còn đánh cho tơi tả!”.

Về chuyện người ta viết trên báo rằng ông Tư Chơi thuê hẳn một chiếc xích lô cho cây gậy của mình, ông giải thích với con: “Ở đời, tao thân nhất là cây gậy, vì là chỗ dựa. Quý nhất, thương nhất là đứa con gái Bửu Trân, bằng chứng của tình yêu với Phùng Há. Cái tao quý nhất không giữ được bên mình. Cái tao gần nhất là cây gậy, nên cho nó ngồi riêng một chiếc xích lô cũng xứng đáng...”. Tuy vậy, Tư Chơi hiểu rằng cái gì mình cần, có lúc cũng không giữ được, nên ở tuổi già ông dứt khoát không dùng gậy.

Khi đã già yếu, ông thường nói “Lão lai, tài tận” . Ông hiểu luật đời, không muốn phiền con cháu. Bệnh hoạn, ông rút về Thủ Thiêm sống với người vợ cuối. Nhiều lần Huỳnh Hiếu muốn đưa ông về nhà nuôi nhưng ông cương quyết từ chối. Có lần nhớ con, ông viết thư cho Huỳnh Hiếu, trách con từ ngày đi Nam Vang chơi ban nhạc bên đó, cha con ít gặp nhau, trách xong rồi căn dặn: “Về gặp nhau, tao đưa cái nhà cho mày...”.

Sau khi nghệ sĩ Tư Chơi mất năm 1964, có một người đàn ông đến gặp Huỳnh Hiếu, tự giới thiệu là Huỳnh Thủ Tâm, con riêng của soạn giả Tư Chơi với người vợ cuối, rất giống cha. Anh ta nói: “Ba biểu em nếu gặp khó khăn thì đến gặp anh nhờ dạy nghề!”. Huỳnh Hiếu đã hướng dẫn tận tình người em cùng cha khác mẹ. Huỳnh Thủ Tâm học đờn guitar, giỏi nghề, tự kiếm sống bằng chơi nhạc ở các nhà hàng nhỏ, bar rượu ở Sài Gòn trước 1975 và đã mất sớm.

NHỚ VỀ ANH TƯ CHƠI

Trong số giấy tờ kỷ niệm về nghệ sĩ Tư Chơi gia đình còn lưu giữ, có một bài viết đăng báo khá thú vị của nhạc sĩ nổi tiếng Lê Thương (1914 – 1996), tác giả bộ ba ca khúc Hòn vọng phu bất hủ. Năm 1941, từ Hà Nội, Lê Thương vào hẳn miền Nam sống, dạy học và sáng tác. Hồi ức ngắn này, ông viết trước khi mất năm năm, lưu lại những ký ức đẹp và hào sảng về nghệ sĩ tài danh Tư Chơi và tình bạn giữa hai người từ nhiều năm trước khi còn hoạt động văn nghệ tại Sài Gòn.

“Lâu lâu chợt nhớ anh Tư Chơi, trong tâm trí tôi lại như một cuốn phim với những khung cảnh, và như lại văng vẳng cả âm thanh tiếng đờn giọng ca.

Quê quán anh Tư, xã Phước Thạnh (Bình Đại, Bến Tre) xanh ngát bóng dừa; cách sông Ba Lai mấy chục bước chân, nếp nhà cổ, mái ngói vách ván, nơi anh Tư cất tiếng khóc chào đời. Tôi chỉ ghé Phước Thạnh có một lần, nhưng không thể nào quên vì anh Tư đã gây cho tôi cái ấn tượng qua nhiều câu chuyện và kỷ niệm của anh thuở nhỏ. Do chính quyền thuộc địa đưa cụ Nguyễn Quyền từ Côn Đảo về an trí tại Phước Thạnh mà anh Tư có được cái vốn chữ Nho. Cụ Huấn Quyền dạy anh Tư chữ nghĩa, làm thơ bằng chữ Nho và viết bút lông.

Tôi nhớ chỗ bờ sông Ba Lai, nhớ chiếc ghe của gánh hát Tái Đồng Ban đậu ở Vàm Kinh. Nhưng nhớ nhiều hơn hết, là ngôi nhà của anh Tư ở Sài Gòn. Có lẽ cũng cần nói thêm là những năm ấy ở Sài Gòn, tôi thường qua lại với anh Tư cũng như các anh Bảy Nhiêu, Ba Vân, Năm Châu, Duy Lân. Nhưng giữa anh Tư và tôi có phần nào tương đắc hơn là bởi hồi ấy tuy mới ngoài hai mươi mà tôi đã sáng tác được ít bài như ‘Thu trên đảo Kinh Châu’, ‘Tiếng đàn âm thầm’, ‘Mộng ngày xanh’ trong khi anh Tư không kể cái vị trí một soạn giả nổi tiếng với các vở ‘Sấm sét’ (chuyển thể ‘Lôi Vũ’), ‘Chàng và nàng’ (nhạc kịch)... Một diễn viên đóng chung với chị Kim Thoa, anh còn là một thầy đờn. Cho nên ở lại ngôi nhà ở gần đường Calmette, mỗi lần gặp nhau, anh Tư cùng tôi, anh em trò chuyện hết sức ăn ý và uống thả dàn.

Bấy giờ chiến tranh bên châu Âu khắp nơi đã nổ bùng, các nguồn hàng cung cấp cho Đông Dương đều trở nên khan hiếm, đặc biệt là rượu. Nhưng trong nhà anh Tư, những Martel, VSOP hoặc Bisquit trên tủ rượu thường thường là một hai chai.

Anh Tư tửu lượng rất khá, và rất nhiều bữa đang uống, đang nói chuyện, anh Tư lại bỗng dưng cao hứng nâng cây kìm lên đờn chơi một bản. Ngón đờn của anh Tư, không thể dùng chữ gì khác hơn hai chữ tuyệt diệu để nói về cái nhấn, cái vuốt, cái rung, cái mổ, cái búng, cái bịt. Nhấn rồi vuốt, tiếng đờn nghe như nỉ non, đặc biệt là khi vuốt nông, vuốt lướt khiến phát ra hư âm, đêm khuya ngồi gần nghe thấm thía lắm. Thành ra nếu không mắc bận đi các tỉnh với công việc làm ăn, còn đang ngồi nhà mà anh Tư cho người gọi, bất kể giờ nào tôi cũng tới liền. Bao nhiêu bữa, bao nhiêu lúc chuyện trò đằm thắm mặn mà, không sao kể xiết. Và có lẽ ở đây cũng cần nói sơ sơ về cái tinh tế trong khẩu vị của anh Tư, nghĩa là anh xài món nào ra món nấy. Với anh Tư, Martel là Martel, đế thì ra đế. Như cái bữa Tất niên năm Ngọ ấy (1942), trời đất, chẳng biết thứ đế từ lò nào ở Hóc Môn, ở Lái Thiêu hay từ dưới Sa Đéc mà ngon ác. Bữa Tất niên gồm có một chai đế, chai lít, một tô cá kèo chưng, và trái cây thì dưa hấu, vú sữa và quít, tất cả bấy nhiêu món thôi à.

Có lẽ sẽ có bạn không khỏi đôi chút ngạc nhiên khi thấy ăn Tất niên mà đơn giản như vậy. Sao không các món bò, dê, gà, heo? Xin thưa rằng anh Tư vốn không mấy ưa món thịt dù là tiềm, là hấp, là nướng hay chiên xào, mà sở thích của anh là cá kèo hoặc cá chốt chưng. Và cũng đừng tưởng cứ ít món mà thấy đơn sơ giản dị. Trái cây đối với anh vừa để lai rai vừa để ngắm, ví như quít phải là quít Xuyên Mộc, múi dòn, vị dôn dốt chua lại ngòn ngọt, vỏ mỏng mà đỏ thắm. Cái đỏ thắm của quít phải nổi bật lên giữa màu xanh sậm của dưa Cầu Đúc (Rạch Giá) và màu ngọc thạch của vú sữa Bình Nhâm, Lái Thiêu.

Đúng là anh Tư trau chuốt trong nghệ thuật sáng tác, đờn ca, và trau chuốt cả trong cuộc sống ”.

10 – 1991

Lê Thương (Nhạc sĩ)

DI CẢO CỦA SOẠN GIẢ TƯ CHƠI

Trong Hồi ký Năm mươi năm mê hát , nhà biên khảo Vương Hồng Sển có nhắc đến “Huỳnh Thủ Trung, lừng danh Tư Chơi” trong hơn ba trang sách. Ông Sển tiếc nuối vì những sáng tác của soạn giả Tư Chơi đã thất lạc: “Tuồng đặt vững chãi, anh mất mấy năm tao loạn, anh không để lại cuốn nào” . Thật may mắn, gia đình nghệ sĩ Huỳnh Thủ Trung – Tư Chơi hiện nay còn giữ một số vở tuồng do ông soạn, vừa viết tay vừa đánh máy, có thể từ thập niên 1920, 1930. Đây là những tài liệu quý giá vì tác giả là một trong những nghệ sĩ hàng đầu, từng ở đỉnh cao của nghệ thuật cải lương miền Nam trong suốt thế kỷ qua. Có thể nói các tài liệu này xứng đáng được lưu giữ trong một bảo tàng về nghệ thuật sân khấu Việt Nam.

Đó là những vở tuồng:

1) Minh mông thiên hải – Bi hùng ca kịch (Viết cho đoàn ca-vũ-nhạc-kịch Năm Phỉ & Kim Cương).

2) Giấc ngủ trăm ngày.

3) Hai Bà Trưng – Tuồng lịch sử.

4) Một gia đình, hai tổ quốc – Thi ca kịch bi hùng xã hội.

5) Oan cừu – Thoại, thi, ca kịch xã hội.

6) Trung nhân – Kịch.

7) Ly tình kiếm – Tuồng cải lương.

8) Ai là bạn chung tình – Tuồng cải lương.

9) Thịt cầy, rượu đế, nho chùm – Hài kịch một màn một cảnh.

10) Gánh cải Trạng nguyên – Đại hí kịch Trung Hoa.

11) Mộ nhơn công – Hài kịch một màn một cảnh.

12) Bài ca theo bản Tây và vọng cổ điệu mới .

13) Những khúc du dương (ca khúc Pháp, Đức, Trung Hoa đặt lời Việt) phần 1, phần 2 và phần 3.

Và một tiểu thuyết xã hội không có tựa, mất vài trang.

BA CHUYỆN NHỎ Ở GÁNH TÁI ĐỒNG BAN

Tập di cảo của nghệ sĩ Huỳnh Thủ Trung, tức Tư Chơi, có một bài viết vui về ba câu chuyện có thật xảy ra trong những ngày tham gia đoàn hát thập niên 1920. Căn cứ vào chuyện, có thể xác định đó là chuyện xảy ra ở gánh Tái Đồng Ban do ông Hai Cu, ba của kép Hai Giỏi lập ra ở Mỹ Tho.

1. Lần đầu tiên Ba Cương đứng sân khấu với vai Bàng Bưu

Trong tuồng ‘Tam bang Lục hoàng hậu’, vai Bàng Bưu là vai của bạn Năm Long. Không hiểu hợp ý thích của chàng Ba Cương thế nào, mà anh thuộc lòng hết từ lời nói, đến câu ca và cả điệu bộ. Một hôm, vì lẽ bất ngờ chi đó, mà bạn Năm Long không thể làm tuồng đặng. Từ chú Hai Cu đến thầy Năm Mạnh đều rối quýnh lên, vì quảng cáo chương trình đã lỡ phát hành rồi, nếu đổi tuồng sợ e mất tín nhiệm với quan khách. Đương khi hai ông, chủ và thầy tuồng bối rối chưa biết giải quyết bằng cách nào thì có tiếng nói to và đầy cương quyết của anh Ba Cương:

– Thầy Năm, chú Hai đừng lo. Vai Bàng Bưu tối nay để tôi thế Năm Long cho.

Ra vẻ không tin, thầy Năm nói:

– Vai tuồng cũng khá nhiều, chú Ba mầy từ bây giờ đến tối làm sao học cho kịp được, mà đòi hát thế?

Anh Ba Cương mau mắn trả lời:

– Tôi nằm lòng tất cả vai ấy, thầy cứ yên tâm đi.

– Mày học hồi nào đâu, mà mày nói thuộc? – Thầy Năm nói.

– Tôi coi hát nhiều quá thành ra thuộc chớ có học hành hồi nào đâu!

– Thuộc à, vậy mầy đọc lại tao nghe coi!

– Được rồi, thầy lóng nghe đây!

Thế rồi anh Ba Cương đọc ron rót từ đầu đến cuối, không ngượng và sót một câu nào cho thầy Năm nghe. Đọc vừa xong, chú Hai Cu liền nói với thầy Năm: ‘Tuồng nó thuộc làu như thế, thì hát được rồi, chứ gì nữa anh Năm?’

– Tuồng thuộc đành rồi, nhưng hãy còn điệu bộ nữa chớ!!

Ba Cương nhanh nhảu trả lời:

– Điệu bộ tôi có thể làm y như Năm Long.

Vừa dứt lời chàng Cương liền đứng dậy, chơn bước tới sục lui, tay chỉ trỏ ra bộ khơi khơi cho thầy Năm coi.

Thầy Năm và chú Hai đều gật đầu, sau khi chàng Cương ngừng bộ.

– Được chứ hả anh Năm? – Chú Hai Cu hỏi.

– Khá lắm, vậy chúng ta khỏi lo về buổi hát tối nay nữa rồi. – Thầy Năm trả lời với chú Hai Cu.

– Chắc tối nay tôi hát được chớ hả thầy Năm! Và chú Hai? – Anh Ba Cương hỏi.

– Được lắm, nhưng mầy ráng hát hay thêm chút nữa càng tốt và mầy sẽ có hy vọng trở nên một kép hát hay sau này.

Hôm ấy độ bảy giờ rưỡi tối, anh Ba Cương lo sắm tuồng trước hơn tất cả anh em trong gánh, nhưng anh đâu có quen giồi phấn kẻ lông mày, thoa môi son, má hường, v.v... đành phải nhờ anh em lo dùm chuyện ấy và cả mặc đồ, luôn đến giày mũ.

Chuông thứ nhì ré lên, để báo hiệu cho đào kép biết giờ khai diễn sắp đến, bấy giờ anh Ba Cương rất vững vì sắm tuồng đã xong xuôi khỏi lo phần trễ nãi. Loạt chuông ba gần nổi lên thì anh Ba Cương nhà tôi bắt đầu mắc đi tiểu, tiểu xong chốc lát lại mắc tiểu nữa. Chuông thứ ba nổi lên, nghĩa là giờ khai diễn đã đến, anh Ba Cương lại càng mắc đi tiểu nhiều hơn nữa. Miệng vừa nói, chưn vừa đi ra ngoài: ‘Khoan, khoan đợi tôi tiểu một chút đã!’.

Anh sếp-đờ-co nói: ‘Làm ơn đi lẹ đi anh Ba, đã đúng giờ mở màn rồi’.

– Được rồi! Tôi biết mà. Anh Ba Cương nói.

Màn từ từ mở, anh Ba Cương đứng hòm sẵn trong đờ-co, toan bước ra sân khấu nhưng lại ngừng, dợm tới dợm lui hoài mà anh đã đứng đâu vẫn y chỗ ấy.

– Ba Cương ơi! Ra đi! Ra đi! Đừng để sân khấu trống! – Lời thầy Năm Mạnh thúc giục.

Trước kia anh Ba Cương hăng hái bao nhiêu, bây giờ lại thối thần bấy nhiêu, nói đúng hơn nữa là rất nhát sân khấu. Nhờ có trớn, thầy Năm Mạnh xô anh ra. Khi bước ra sân khấu, anh chỉ đứng nép một góc, không dám chồm tới giữa.

– Bước tới! Bước tới! Ra giữa sân khấu. – Lời thầy Năm Mạnh ở trong nói ra.

Nghe lời thầy Năm, anh Ba Cương bước ra, ráng gượng bước tới vài bước, nhưng lối đi không muốn vững, gần như người đau bại mới vừa mạnh. Dưới ánh đèn sáng, thấy rõ sắc mặt anh Ba Cương trong lúc ấy xanh như tàu lá, và mồ hôi túa ra như xối, tay chơn đều run rẩy, hai mắt ngó xuống và mặt không dám quay ra nhìn khán giả. Khổ hơn nữa, vai tuồng ấy bước ra sân khấu là nói liền, nhưng lúc ấy anh ta quýnh quá không nói một tiếng gì cả.

Đứng bên trong, thầy Năm Mạnh thúc giục: ‘Nói đi chớ! Nói đi chớ! Để chay sao!’

Bị hối thúc quá, anh buộc lòng nói, nhưng nói không thành câu gì, chỉ thấy miệng nhóp nhép mà thôi.

Hồi ấy Tư Út thủ vai Lục Phụng Dương, nhìn thấy anh Ba Cương như thế, Út liền xông ra không cần lời chi cãi vã lại qua với anh Ba Cương, chỉ hầm hừ xáp lại thoi bừa đá càn và miệng nhắc nhỏ nhỏ: ‘Té đi anh Ba, té đi anh Ba!’. Anh Ba Cương hồi ấy như hồn bất phụ thể, không còn nhớ tuồng tập là gì cả, chỉ nghe Tư Út biểu té là té ngay, liền đó màn hạ.

Màn vừa che kín sân khấu, tất cả nhơn viên trong gánh hát đều cười lăn cười lộn, cười đến khi màn kế tiếp sắp mở mà tiếng cười vẫn còn khúc khích, chưa dứt hẳn. Hồi ấy, anh Ba Cương vẫn trơ, nói:

– Anh em đừng cười mà, lần này tôi hát như vầy, tin chắc mấy lần sau không có như vầy nữa đâu.

– Trông mong mấy lần sau anh đừng ban cho tụi tôi một trận cười đích đáng như vầy nữa. Sợ e có thằng bị đứt ruột chết, anh tránh không khỏi tội vô ý sát nhơn đa nghe! – Một anh em trong gánh hát nói.

– Khỏi mà! Khỏi mà! Anh em cứ tin tôi đi. – Lời nói của anh Ba Cương có vẻ cương quyết và khôi hài.

Nhưng về sau, câu nói ấy trở nên sự thực là anh Ba Cương đóng được nhiều vai tuồng, chưa mấy xuất sắc nhưng thuộc vào hạng khá lắm.

2. Hàm râu của Ba Du

Đây đến lượt của anh Ba Du, tay rắn mắt tổ khi anh thiếu thời. Trong khi anh thủ vai Bàng Tư Trung, anh chỉ sử dụng hàm râu của anh mà hại cho đám người đang đóng trò trên sân khấu phát cười đảo cười điên không thể hát xướng gì được. Vì hồi ấy, người hát gắn râu chỉ bằng thứ thuốc dán ‘Con Rắn’, nên anh Ba Du nhà tôi mới tiện bề giở ngón chọc cười anh em chơi. Là khi giữa cao trào, anh ta đang quỳ trước ngai vàng để tâu rỗi về câu chuyện đứa con mình là Bàng Bưu bị Lục Phụng Dương đánh. Khi xoay mặt ra khán giả thì râu ria anh rất đàng hoàng. Khi quay mặt vào ngai vua thì lanh lẹ làm sao, sửa bộ râu trở ngược lên hết làm cho tất cả triều đình, từ vua đến hàng các quan đều cười sùng sục, không ai nói được một lời gì cả. Thấy cười quá, anh Ba Du liệu không êm, liền xoay cách vãn cứu lớp tuồng ấy lại, rồi cũng tay anh vừa mó lên hàm râu vừa xoay mặt ra khán giả thì hàm râu vẫn đàng hoàng như trước. Anh ta lại còn có vẻ đắc ý, theo trong lớp tuồng như mình được phần phải, nên chi không bị nhà vua trách mắng một điều gì. Kế đó, ở trong buồng có tiếng chú Hai Cu nói ra: ‘Mày muốn phá hả Du, hay là mày muốn không cho hát thì mày nói chớ làm cái gì kỳ vậy?’. Thế rồi lớp tuồng tiếp tục diễn được êm xuôi đến khi hạ màn, vì anh Ba Du tuy rắn mắt nhưng rất biết phục thiện.

3. Năm Châu mất râu

Đây đến lượt Năm Châu mất râu. Trong vai Tỷ Can, vừa xong một lớp mệt nhọc ngoài sân khấu, anh Năm Châu bước vào buồng trò gỡ hàm râu ra, để lật ngửa trên chiếc ghế cạnh anh ngồi. Anh lo chậm mồ hôi và quạt cho khỏe để đợi tới lớp sẽ ra tuồng. Trong khi chờ đợi ấy, cô Bảy Phùng Há thấy ghế trống vén vạt áo rồi xề xuống ghế, nói chuyện qua loa với anh Năm Châu một vài câu rồi cô ta đứng dậy đi chỗ khác. Anh Năm Châu vẫn ngồi quạt và đang nghĩ vẩn vơ thì có tiếng một người trong gánh hát: ‘Anh Năm, anh Năm! Gần tới lớp rồi sao không gắn râu vô?’. Anh Năm Châu tỉnh tuồng: ‘À, quên nữa!’. Đứng dậy toan lấy râu gắn vô nhưng kỳ quái hàm râu đã biến mất đâu rồi. Tiếng thúc giục của anh em:

– Tới rồi anh Năm ơi! Tới rồi! – Anh Năm Châu càng rối rít thêm và phát cáu vỗ mạnh xuống ghế: ‘Rõ ràng tôi để hàm râu ở đây mà, anh chơi kiểu này giết tôi rồi!’.

Có một anh em ôn tồn nói:

– Thôi lỡ rồi, anh lấy phấn quẹt đỡ đi, đặng ra tuồng chứ, vì lớp anh đã tới rồi.

Đang cơn tức giận tràn hông nhưng anh Năm Châu cũng cố gắng quẹt lia lịa rồi ra tuồng. Lớp tuồng ấy lại ngay nhằm lớp vua Trụ đòi mổ lấy tim Tỷ Can. Người thủ vai Tỷ Can bấy giờ rất quan trọng về phương diện diễn xuất. Hỉ, nộ, ái, ố, lạc từ lời nói và cử chỉ nhứt nhứt đều phải lột hết cả tinh thần không thể thiếu sót được một điệu bộ và màu mè nhỏ mọn chi cả. Giữa khi đúng dịp cho anh Năm Châu trổ tài thì cô Phùng Há vén vạt áo dài lên, trổ bộ ngồi. Bỗng dưng ngay chính giữa bàn tọa cô Bảy chìa ra một chòm râu trắng xác và dài sọc của anh Năm Châu. Giữa lúc lời qua tiếng lại, tranh lẽ phải chăng với Trụ Vương, thình lình Năm Châu liếc thấy bộ râu cưng của mình đang bị đè bẹp ở một chỗ bất tiện quá. Thế rồi, anh không nói năng gì được nữa cả, chấp cả vua chúa quần thần, chấp cả vai tuồng mình đang đóng, hai môi mím chặt sùng sục cười không ra tiếng, làm cho tất cả anh em có mặt trong lớp tuồng ấy đều khựng bộ, hướng ngay về anh Năm Châu như nhìn sững, nhưng không ai hiểu nguyên nhân gì mà bạn Năm Châu có cử chỉ lạ lùng giữa lúc đóng trò như thế. Người cầm màn lanh trí liền hạ màn ngay cho qua truông ấy đi, rồi sẽ tiếp tục tái diễn.

Qua câu chuyện mất râu của anh Năm Châu, làm cho tôi sực nhớ câu chuyện bay râu của anh Tư Hương – lão chánh gánh thầy Năm Tú ra đời trước T.Đ.B. Đêm ấy, hát tuồng Nguyệt Nga – Bùi Kiệm, anh Tư Hương thủ vai Bùi Ông. Thời ấy anh em còn dùng râu bằng bông gòn, gắn bằng bột mì tinh khuấy đặc, nên hễ có mồ hôi nhiều thì tróc râu liền. Giữa lớp Bùi Kiệm thi rớt trở về, Bùi Ông mắng nhiếc nhún trề. Anh Tư Hương vừa rầy Bùi Kiệm vừa quạt mạnh quá làm cho bộ râu bay tung trên không. Mất râu, anh Tư Hương quýnh quá bèn chạy theo hàm râu đưa quạt lên hứng. Râu bay tới đâu, anh rà quạt theo đến đó. Nhưng khổ rồi, chìa quạt đến đâu thì có gió theo đến đó, làm cho hàm râu cứ bay khơi khơi hoài khắp cả sân khấu, rồi bay tuốt xuống dưới khán giả. Bấy giờ anh Tư Hương đã hết hy vọng hứng bộ râu được nữa, liền ngó nghiêng vào trong, bảo bỏ màn lẹ.