← Quay lại trang sách

Chương Trình Ngâm Thơ Tao Đàn

Không phải đêm nào radio cũng phát cải lương cho cả nhà cùng nghe. Trong những đêm như vậy, chỉ có mỗi mình ba tôi nghe ngâm thơ Tao Đàn. Trước khi có chương trình, ông trải cái ghế bố dài ra, thay bộ đồ pyjama trắng, ngồi bên mép ghế bố đã trải tấm vải lót trắng, tay cầm cái radio đặt trên đùi. Ông rà đài và bắt đầu ngồi yên khi có giọng giới thiệu chương trình trong tiếng đàn, tiếng sáo. Ông không nằm dài, không co duỗi chân, mà ngồi trong tư thế nghiêm cẩn đó với lưng thẳng băng, lắng nghe tiếng nỉ non trong suốt gần một giờ đồng hồ.

Đó là những buổi tối sau trận Mậu Thân năm 1968 và kéo dài đến mấy năm sau. Lúc đó, đèn trong nhà dùng đã là đèn ống sáng sủa chứ không dùng bóng đèn vàng ệch âm u treo lơ lửng giữa nhà nữa. Nhưng tiếng ngâm thơ trong cái radio Philips vọng ra vẫn cứ buồn nẫu ruột đối với tôi. Ba tôi mê thơ Nguyễn Bính nên ông luôn nhắc bài Hành Phương Nam do Tô Kiều Ngân ngâm. Những lúc đó, ông bảo ông nhớ quê, nhất là những ngày cận Tết. Ông nhớ con sông Đồng Nai mùa nước lớn ở Cù lao Phố xinh đẹp. Ông nhớ những cái đình, cái chùa, cái đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh ở đó. Riêng lòng tôi chỉ thấy rằng: Cải lương mà nghe ban đêm đã buồn, ngâm thơ nghe càng buồn muốn chết, gieo cảm giác xốn xang trong lòng đứa trẻ hơn mười tuổi.

Đến năm tôi bắt đầu mê đọc sách, hay nghĩ vẩn vơ, khoảng 13 hay 14 tuổi, trong một đêm cúp điện tối thứ Sáu, tôi chẳng biết làm gì, nằm kê đầu lên cái thành giường thấp. Tiếng ngâm thơ giọng Bắc của một nam nghệ sĩ bỗng nghe lồng lộng cảm xúc, mạnh mẽ, sang sảng mà sao ngọt ngào quá. Người ngâm được giới thiệu là Nguyễn Thanh, diễn ngâm một bài thơ về Hà Nội của Tạ Tỵ, một họa sĩ có làm thơ, viết sách:

Hà Nội, chao ôi Hà Nội/ Hà Nội với những con đường đọng tím/ Những con đường câm nín/ Những con đường chết lịm ở tim tôi.

Tuổi hoa niên từng hát khúc yêu đời/ Và nhảy múa khắp nẻo đường Hà Nội/ Bao thương mến với bao nhiêu bối rối/ Trôi về đây tàn phá cõi tâm linh/ Trắng đêm thâu, trắng cả khối chân tình/ Từng xác lá thu về vàng lối cỏ/ Mùa úa héo dâng đầy đôi mắt nhỏ/ Em ơi em! Có biết thuở nào khuây/ Nhớ thương nhau qua những cánh đêm gầy/ Nhìn gương mặt hãi hùng sau giấc ngủ.

Tôi muốn chép cả bài thơ, chỉ vì nó hay đến nhức nhối, gọi về cả một trời chớm mơ mộng của đứa con nít nhạy cảm ngày xưa. Hà Nội hiện diện trong trang sách của Tự Lực Văn Đoàn, của Nhật Tiến, Vũ Bằng và của một nền văn nghệ ở miền Nam mà những người gốc Bắc góp phần tạo nên sắc thái riêng biệt và sâu sắc.

Giọng ngâm của Nguyễn Thanh quá cuốn hút. Xen vào những đoạn ngâm là tiếng hát của danh ca Thái Thanh hát ca khúc Giấc mơ hồi hương của Vũ Thành. Rồi lại vang lên giọng Nguyễn Thanh, âm sắc miền Bắc xưa kia rất quen thuộc mà bây giờ không còn mấy khi nghe nữa:

Ôi, Hà Nội/ Ôi những con đường cũ/ Đâu Hàng Bông, Hàng Trống với Hàng Khay/ Đâu Hàng Đào khoe nõn những bàn tay/ Những đôi mắt nhìn nhau sầu ly cách/ Nước Hồ Gươm còn xanh màu cẩm thạch?/ Tà áo ai còn đẹp buổi hoàng hôn?/ Nhớ thương xưa nhạt nắng những khung tường/ Nghiêng nghiêng xuống mặt hồ ôm bóng nước...

Tập thơ Mê hồn ca ở nhà tôi giúp tôi biết về Đinh Hùng, người lập ra chương trình Tao Đàn. Ông làm thơ nhưng có khi vẽ cả những bức tranh bút sắt nhìn rất quái. Ông có giọng nói sắc lẻm, hơi the thé. Đinh Hùng, nổi danh từ khi còn ở ngoài Bắc, có các tập thơ nổi tiếng như Mê hồn ca, Truyện lòng , các vở kịch như Tiên và tục, Phan Thanh Giản... Vào Sài Gòn, ông được Đài phát thanh Sài Gòn mời tổ chức một ban thi văn vô tuyến và ông cùng bạn bè lập ra chương trình Tao Đàn năm 1955. Hẳn khi tạo dựng chương trình này, ông không nghĩ nó lại được đón nhận nồng nhiệt ở một thành phố có không khí làm ăn sôi động nhất cả nước như vậy.

Đinh Hùng (áo trắng) và Tô Kiều Ngân phụ trách chương trình Tao Đàn hai thời kỳ 1955 – 1967 và 1967 – 1969. Thời kỳ cuối (1969 – 1975) do nhạc sĩ Thục Vũ (ảnh phải) phụ trách.

Mỗi tối thứ Hai, Tư và Sáu trong tuần, từ 9h15 đến 10h, thính giả Sài Gòn, người trung niên trở lên và cả người trẻ yêu thơ lại chìm đắm trong thế giới của thơ ca trong những đêm yên tĩnh nhưng cách không xa các cuộc giao tranh.

Tao Đàn trở thành diễn đàn chung của thơ ca cả kim lẫn cổ, thơ Đường luật của Vũ Hoàng Chương bên cạnh thơ tự do của Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa. Ông được sự hỗ trợ của nhà văn, nhà thơ Thanh Nam, Tô Kiều Ngân, Huy Quang, Thái Thủy trong ban biên tập và diễn đọc. Về ban ca ngâm, theo báo Trẻ số 7 tập I năm 1960, các giọng ngâm, phía nam thì nổi tiếng là Hoàng Thư, có mặt từ buổi phát thanh đầu tiên của Tao Đàn. Hoàng Thư có giọng nam say sưa, khỏe và ấm, có biệt tài ngâm diễn giải những vở kịch thơ và những bài thơ tự do như vào vai Phạm Thái trong vở kịch Quỳnh Như của Thanh Nam, hoặc Bài ca ngư phủ của Vũ Hoàng Chương. Thanh Hùng, tức là Nguyễn Thanh đã ngâm bài thơ Những con đường Hà Nội nói trên, với giọng thổ pha kim trong các tác phẩm bi hùng. Tiếng sáo nổi tiếng trong ban là của Tô Lang tức Tô Kiều Ngân, ông cũng tham gia ngâm thơ, giọng Trung hay giọng Bắc đều hay. Giọng ngâm Quách Đàm nổi bật với các bài thơ thất ngôn và lục bát.

Nữ diễn viên thì có ba giọng ngâm thường trực là Hồ Điệp, Thái Hằng và Giáng Hương. Trong đó Giáng Hương là kỳ cựu nhất với sở trường thơ mới (thơ tám chữ và thơ tự do) và các vở kịch thơ. Khi trình bày các vở kịch thơ, Giáng Hương đọc nhiều hơn là ngâm nhưng giọng bà lột tả được những nội dung buồn thảm, khiến người ta nhớ nhiều. Nghệ sĩ Hồ Điệp có giọng ngâm mang phong cách cổ điển có âm hưởng ca trù, thành công với các bài thơ thất ngôn và lục bát, chinh phục khán giả với các đoạn thơ trong Truyện Kiều , thơ thất ngôn của Bà Huyện Thanh Quan và thơ T.T.Kh, rất được thính giả gốc miền Bắc hâm mộ. Thái Hằng có giọng ngâm hiền dịu và vô cùng thiết tha, có thể ngâm hầu hết các loại thơ... Giọng bà Đàm Mộng Hoàn cũng đáng nhớ, được gọi là “giọng ngâm đổ hột đặc sắc”. Hoàng Oanh tham gia giai đoạn sau được xem là giọng ngâm “như sương như khói”. Nghệ sĩ Hồng Vân cũng tham gia sau này.

Bên cạnh đó còn có các nghệ sĩ tham gia chơi đờn phụ họa trong chương trình như nhạc sĩ Ngọc Bích, Phạm Đình Chương chơi dương cầm; nhạc sĩ Vĩnh Phan, nhạc sĩ Bửu Lộc chơi đờn thập lục đệm cho phần thơ cổ. Nghệ sĩ Hoàng Oanh trong chương trình của đài SBS Úc châu kể rằng: “Đầu tiên ông Đinh Hùng soạn chủ đề cho chương trình, chuẩn bị sẵn các bài thơ phát ra cho mọi người xem trước. Là dân chuyên nghiệp nên dò qua 5, 10 phút là các nghệ sĩ có thể ngâm được rồi”.

Kể từ khi hình thành năm 1955, chương trình Tao Đàn lần lượt có ba người điều hành. Nhà thơ Đinh Hùng phụ trách trong 12 năm từ 1955, đến 1967 thì ông mất, chương trình chuyển giao cho nhà thơ Tô Kiều Ngân phụ trách trong hai năm 1967 – 1969. Sau đó, từ 1969 đến 1975 do nhạc sĩ Thục Vũ phụ trách. Trong cuốn Ngâm thơ và nghe ngâm thơ Việt Nam nghệ sĩ Thạch Cầm bổ sung thêm các giọng ngâm tham gia Tao Đàn sau này, đó là Đoàn Yên Linh, Hoàng Hương Trang, Vân Khanh, Hà Linh Bảo, Hồ Bảo Thanh, Mai Hiên, Huyền Trân, Hồng Vân...

Hai chị em nghệ sĩ Thái Hằng (trái) – Thái Thanh (phải) cùng tham gia ngâm thơ và trình bày ca khúc trong chương trình Tao Đàn.

Hai năm sau khi bắt đầu nắm giữ Tao Đàn, nhạc sĩ Thục Vũ có sáng kiến phối hợp ngâm thơ với trình bày ca khúc tân nhạc, đặt tên là chương trình Thi Nhạc Giao Duyên. Đó là sự khởi đầu mới mẻ và thu hút lớp thính giả trẻ hơn. Các giọng ca tham gia chương trình cùng các giọng ngâm được tuyển chọn phù hợp với chương trình như Thái Thanh, Duy Trác, Châu Hà, Mai Hương và ca sĩ Thanh Lan. Chương trình trở nên hấp dẫn hơn và vẫn giữ chất lượng những bài thơ ngâm đặc sắc. Thậm chí, thơ và nhạc bổ sung nhau, hỗ trợ nhau. Như trong bài Kề vai hạnh phúc , giọng ngâm của Hoàng Hương Trang tuy không trong trẻo nhưng nhờ đó làm nổi bật giọng ca đầm ấm thanh nhã của ca sĩ Duy Trác khi cùng ca ngâm.

Ông Phan Lạc Phúc, một ký giả thân cận với những người thực hiện chương trình thuật lại: “Trước ngày thu khoảng một ngày, anh Đinh Hùng trưởng nhóm mới ngỏ ý với Thái Thủy, thư ký của ban biên tập, là trong chương trình sắp tới Đinh Hùng, Thanh Nam, Huy Quang (đôi khi cả Tô Kiều Ngân nữa) mỗi người ‘nói’ bao nhiêu phút, đề tài gì; thư ký Thái Thủy sau khi thiết lập bảng ‘phân công’ có bổn phận sửa soạn sẵn một số bài vở dự trữ để nếu cần ‘lấp khoảng trống’ (bouche trou) và tham khảo với anh Đinh Hùng về việc đề nghị nghệ sĩ diễn ngâm cho từng bài. Ngày ấy kỹ thuật thu thanh còn thô sơ nên trách nhiệm của nghệ sĩ khá nặng nề” .

Nhận xét về nghệ thuật thể hiện của ban Tao Đàn, giáo sư Trần Quang Hải đánh giá: “Trong chương trình này có cách ngâm thơ đặc biệt, và khán giả nghe quen gọi là ngâm thơ theo điệu Tao Đàn. Thang âm hoàn toàn miền Nam: Do, Mib, Fa, Sol, La, Do. Chữ cuối câu thơ nếu là dấu huyền thì ngâm ở nốt Do. Còn nếu không dấu thì ngâm ở nốt Fa hay có thể ngừng ở nốt Sol” .

Hồng Vân (trái) và Hoàng Oanh (phải) – hai giọng ngâm giai đoạn sau của chương trình Tao Đàn.

Ảnh: Đinh Tiến Mậu.

Giọng ngâm được mến mộ trong chương trình Tao Đàn, nghệ sĩ Hồ Điệp.

Nhưng về phần hồn của chương trình, nhà báo Phan Lạc Phúc cho rằng: “Thơ, văn Tao Đàn phần đông là văn hóa Bắc Hà, là những làn điệu của văn minh sông Hồng, sông Mã giao duyên cùng văn minh Hương Giang và Cửu Long Giang” . Ông nhìn nhận: “Sang đến thập niên 1960, sức truyền lan của Tao Đàn có sút giảm đi. Thi ca miền Nam tự do với một thẩm mỹ mới, một thẩm mỹ chênh vênh (esthétique de choc) đã ngự trị thi đàn. Thơ có vần đang chuyển sang không vần của thơ tự do. Người ta ưa đọc thơ hơn là ngâm thơ. Nhưng đó lại là một vấn đề khác. Mỗi thời điểm có vấn đề riêng của nó” .

Tuy không có sức hấp dẫn mãnh liệt như các chương trình cải lương, vọng cổ trên đài phát thanh Sài Gòn, chương trình Tao Đàn vẫn có sức thu hút riêng, nhất là với khán giả có học vấn, thích thơ ca... Những bài thơ được tuyển chọn ngâm nga suốt 20 năm trong chương trình này đã có góp phần ảnh hưởng, nâng cao trình độ thưởng thức thi ca của thính giả nghe đài rất đông đảo thời đó. Nhiều người xác định rằng họ biết và dần thích những bài thơ hay của Hàn Mặc Tử, Thâm Tâm, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Bính, Đinh Hùng là nhờ nghe chương trình này từ hồi còn trẻ. Trong một bài viết trên website RFI, ông Lê Phước cho rằng nghệ sĩ vọng cổ nổi tiếng Thanh Hải đã được mệnh danh là “Vua ngâm thơ Tao Đàn”. Thanh Hải thích giọng ngâm Tao Đàn của nữ nghệ sĩ Hồ Điệp, nên đã nghiên cứu, luyện ngâm và sau đó đã mạnh dạn đưa lối ngâm Tao Đàn vào sân khấu cải lương qua các vai tuồng và các bài vọng cổ mà ông thể hiện. Bài báo cho biết có lẽ vì thế các soạn giả thời đó đã thi nhau đưa tối đa những câu thơ có thể ngâm theo lối Tao Đàn vào các vở tuồng hoặc bài vọng cổ cho Thanh Hải thể hiện theo kiểu đo ni đóng giày.

Chương trình Tao Đàn trên Đài phát thanh Sài Gòn trước đây là một hiện tượng thơ ca có tính liên tục, bền bỉ, giúp người các vùng miền, trước và sau đến chung sống trên đất Sài Gòn hiểu được tiếng lòng của nhau, bằng những cách thức rất đơn giản nhưng có chất lượng và chiều sâu nghệ thuật. Có lẽ đó cũng là tâm huyết của những người đã tạo dựng nên chương trình này.