“Huyền Chi, Cô Ở Đâu?”
Cách nay hơn hai mươi năm, tôi lên huyện Đà Bắc, ngọn nguồn sông Đà bằng xe máy. Đường núi vắng vẻ, trời âm âm như sắp mưa. Đi qua bản Thái, nghe tiếng mõ trâu lộc cộc trong nắng chiều, bỗng nhớ những chuyện ma mị huyền hoặc về xứ này trong Truyền kỳ mạn lục . Đi ven sông Đà mênh mông, rải rác có những ngọn cây nhô lên từ lòng hồ thủy điện, câu hát cũ bỗng hiện về: “Mịt mờ sương khói mênh mông, lũ thùy dương rũ bóng ven sông. Chiều nay trên bến muôn phương, có thuyền viễn xứ nhổ neo lên đường” . Ca khúc gợi cảm về con sóng Đà giang đang vỗ oàm oạp bên chân tôi được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc từ bài thơ của một tác giả bí ẩn tên Huyền Chi.
Trong một tập sách in những ca khúc của ông, Phạm Duy có đưa vào một câu dưới bài Thuyền viễn xứ : “Huyền Chi, cô ở đâu?”. Đó cũng là câu hỏi của tôi, khi nghe lại ca khúc đầy ắp cảm xúc này. Huyền Chi là ai? Cơ duyên nào khiến bài thơ của cô được nhạc sĩ danh tiếng Phạm Duy phổ nhạc? Thông tin ít ỏi trên mạng chỉ cho biết tác giả bài thơ là một cô gái phụ mẹ bán vải ở chợ Bến Thành.
Đầu năm 2016, tôi gặp bà Hồ Thị Ngọc Bút tại quận 2, trước giờ bà dạy Anh văn tại nhà. Trước mặt tôi là một phụ nữ trắng trẻo, da còn căng và vóc dáng cao, khỏe mạnh. Không thể nghĩ rằng bà đã 82 tuổi. Đó cũng chính là nhà thơ Huyền Chi của những năm đầu thập niên 1950. Trong mấy tấm ảnh cũ, Huyền Chi có nét đẹp của một diễn viên điện ảnh với dáng cao, cân đối và trắng trẻo. Cô gái ấy sinh ra ở vùng Tân Định, Sài Gòn, có lúc ra định cư tại Phan Thiết rồi quay về sống ở thành phố này cho tới nay. Cô học tiếng Anh từ trước 1954 khi tiếng Pháp là ngoại ngữ phổ biến đang được học hằng ngày ở các trường Tây tại Sài Gòn. Cô làm thơ khi còn rất trẻ, ra một tập thơ duy nhất năm 18 tuổi rồi để thất lạc. Cô có một bài thơ được nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành ca khúc Thuyền viễn xứ dù cô chỉ gặp ông một lần duy nhất trong đời.
Đầu thập niên 1930, có một kỹ sư Hỏa xa (Ingénieur technique adjoint) tên là Hồ Văn Ánh, từng được đào tạo tại Pháp trong những khóa đầu tiên cho thuộc địa. Năm 1940, ông làm Giám đốc Hỏa xa các tỉnh Phan Thiết, Phan Rang và Nha Trang, có ngôi nhà riêng hai tầng khang trang ở Phan Thiết, một “wagon” riêng trên tàu hỏa đặc biệt cho gia đình tùy nghi sử dụng miễn phí. Công việc của ông là tổ chức, đào tạo, kiểm soát và duy trì hệ thống Hỏa xa toàn quốc. Vì công việc, ông phải di chuyển qua nhiều thành phố nên vợ ông lần lượt sinh sáu người con ở các nơi trên đường công tác. Cô con gái út Ngọc Bút được sinh ra tại Sài Gòn, khi ông làm việc tại thành phố. Khi ông đến Phan Thiết, Ngọc Bút được đi học tại trường nữ Tiểu học Phan Thiết (Mãi đến năm 1952, Phan Thiết mới có Đệ Nhất cấp, gồm các lớp đệ Thất, đệ Lục, đệ Ngũ, đệ Tứ – bây giờ là lớp 6, 7, 8, 9. Vài năm sau mới có thêm đệ Tam, đệ Nhị và đệ Nhất, tức lớp 10, 11, 12).
Cuộc sống đang êm đềm thì biến cố xảy ra, bà nội của cô ở quê nhà Bắc Ninh bệnh nặng. Đáng lẽ cả gia đình đều phải về, nhưng trong nhà có một người con đang bị bệnh nên chỉ có ba và hai anh chị cô về Bắc trước. Dự tính khi con bớt bệnh, mẹ cô sẽ dẫn tất cả về luôn. Không ngờ đó là lần cuối cô gặp cha, vì bom đạn, loạn lạc, tản cư và cuối cùng là cuộc chia đôi đất nước thình lình khiến gia đình cô phân cách vĩnh viễn. Sau đó, Ngọc Bút lên Đà Lạt ở với người chị ruột, vừa giúp chị trông hiệu sách nhà in, vừa đi học tư. Hai năm mẹ cô mở sạp bán vải tại Cửa Nam chợ Bến Thành để sinh sống. Ngọc Bút trở về Sài Gòn vừa đi làm, vừa đi học, vừa dọn hàng giúp mẹ.
Trong thời gian hai miền Bắc – Nam được tự do thông thương năm 1954, mẹ trở về Bắc với cha cô, nhưng bốn người con ở lại miền Nam vì lúc ấy ai cũng đã có công ăn việc làm, và cô cũng sắp kết hôn. Cô nhớ khi mới làm đám hỏi, có một chàng trai mỗi ngày lại chặn đường cô để hỏi một câu “N. đã đổi ý chưa?”. Lần nào cô cũng lắc đầu. Sau ngày cô cưới, anh bỏ về Bắc một tháng để quên, không ngờ cũng giống như cha cô, cuộc chia cắt đất nước đã khiến anh kẹt luôn ngoài ấy, bỏ lại mẹ già trong Nam đến… 21 năm. Năm 1975, trở về Sài Gòn, anh lại tìm đường đến nhà cô. Từ đó thỉnh thoảng anh lại đến thăm vợ chồng cô như những người bạn.
Những ngày tuổi nhỏ được theo cha mẹ về thăm quê mỗi năm và đi đây đi đó, Ngọc Bút có nhiều cảm xúc với quê hương xứ Bắc. Hơn nữa sự phân ly, chia cắt gia đình quá sớm khi cô còn bé đã để lại một ấn tượng sâu trong lòng cô. Vì vậy cô đã tưởng tượng ra một cuộc chia ly trên quê hương trước khi nó biến thành sự thực. Đó là lý do ra đời của bài thơ Thuyền viễn xứ. Không ít người hỏi “Tại sao cô còn trẻ mà làm thơ buồn thế?” , cô trả lời: “Tôi tưởng tượng thôi mà!”. Nhưng thật ra nỗi đau âm ỉ trong lòng cô suốt nhiều năm đã bật ra những vần thơ ấy.
Thiếu nữ Ngọc Bút năm 16 tuổi, thời điểm sáng tác bài thơ Thuyền viễn xứ với bút danh Huyền Chi.
Năm 1952, Ngọc Bút đến nhà in báo Sống Chung trên đường Trần Hưng Đạo, quận I để xem tập thơ vừa in xong của mình. Tập thơ mang tên Cởi mở , gồm 22 bài thơ do cô viết từ năm 16 tuổi. Lúc đó, tuy mới 18, cô đã tham gia biên tập thơ cho báo Phụ Nữ của bà Nguyễn Thị Lan Phương và gia nhập nhóm thơ – văn – nhạc Chim Việt. Những bài thơ trong tập đã được đăng rải rác trên một số báo, dưới bút danh Khánh Ngọc, sau đó là Huyền Chi. Thời may, khi Ngọc Bút đến nhà in, nhạc sĩ Phạm Duy cũng vừa đến và được bà Đào, chủ nhà in giới thiệu về cô. Phạm Duy khi ấy còn trẻ, mới 32 tuổi nhưng đã nổi tiếng. Ông vừa đưa gia đình vào Nam và đang thu xếp cuộc sống ổn định ở quê hương mới cho gia đình. Biết cô vừa in xong tập thơ, ông mượn xem và xin cô một tập để nếu có bài nào hay thì xin được phổ thành ca khúc.
Ít lâu sau, cô nghe được ca khúc Thuyền viễn xứ do nhạc sĩ Phạm Duy phổ từ bài thơ lục bát của cô trên sóng phát thanh, rồi thấy ca khúc được in thành tờ nhạc khổ lớn rất thịnh hành lúc đó của hai nhà xuất bản Tinh Hoa và Á Châu. Trên bìa hai ấn phẩm này đều ghi rõ “Nhạc: Phạm Duy, ý thơ: Huyền Chi” . Có lần, trong tờ giấy in ca khúc Thuyền viễn xứ , cô thấy lời nhắn của nhạc sĩ Phạm Duy “Huyền Chi, cô ở đâu?”. Thỉnh thoảng, cô vẫn nghe trên sóng phát thanh giọng hát Lệ Thu. Cô nhận thấy nhạc sĩ Phạm Duy rất tài tình, biến bài thơ lục bát với nhịp điệu chậm rãi, đều đặn của cô thành một ca khúc đầy cảm xúc. Ông chắt lọc ngôn ngữ trong thơ, thêm thắt và tạo nên một tác phẩm âm nhạc hoàn hảo.
Đó là khoảng thời gian cô vừa lập gia đình với ông Trần Phụng Tường, một giáo sư trung học. Cô rời khỏi công việc biên tập, theo chồng về Phan Thiết, lo toan làm ăn, mở hiệu sách, dạy tiếng Anh và chăm sóc tới bảy người con. Hầu như không tiếp tục làm thơ nữa.
Mãi đến năm 1975, bà Ngọc Bút cùng gia đình mới về lại Sài Gòn, nơi chôn nhau cắt rốn của bà và sống ở đây đến nay. Phu quân của bà đã tạ thế năm 2010 sau mười năm nằm một chỗ vì bệnh. Trong khoảng thời gian này, bà được tin nhắn mong muốn có cuộc gặp của nhạc sĩ Phạm Duy sau khi ông hồi hương về Việt Nam nhưng bà xin từ chối vì bận chăm sóc chồng. Sau đó, bà nhận được một khoản tiền tác quyền cho phần lời của ca khúc Thuyền viễn xứ từ nơi sở hữu tác quyền ca khúc này.
Nhà thơ Huyền Chi và chồng sau ngày cưới, năm 1954.
Sau khi lập gia đình, bà Ngọc Bút hầu như không còn làm thơ nữa.
Đọc lại bài thơ của bà Ngọc Bút, người đọc có thể nghĩ rằng với một người sáng tác thơ nhuần nhuyễn như vậy, vì sao bà không đi tiếp con đường sáng tác của mình? Giọng điệu thơ của một cô gái mới 16, 17 tuổi đã rất đằm sâu và mênh mang, với giọng điệu và ngôn ngữ phóng khoáng: “ ... Có thuyền viễn xứ Đà Giang/ Một lần dạt bến qua ngàn lau thưa/ Hò ơi! Câu hát ngàn xưa/ Ngân lên trong một chiều mưa xứ người/ Đường về cố lý xa xôi/ Nhịp sầu lỡ bước, tiếng đời hoang mang/ Sau mùa mưa gió phũ phàng/ Bến sông quay lại, hướng làng nẻo xa/ Lệ nhòa như nước sông Đà/ Mái đầu sương tuyết lòng già mong con... ” Qua tài năng của nhạc sĩ Phạm Duy, ca khúc lại mang sắc thái khác: “ Chiều nay sương khói lên khơi. Thùy dương rũ bến tơi bời. Làn mây hồng pha ráng trời. Sóng Đà Giang thuyền qua xứ người. Thuyền ơi, viễn xứ xa xưa. Một lần qua dạt bến lau thưa. Hò ơi, giọng hát thiên thu. Suối nguồn xa vắng, chiều mưa ngàn về… ”
Có thể sáng tác thơ chỉ là một cuộc chơi thời mới lớn của bà Ngọc Bút, nhưng âm hưởng của nó lan xa, từ một duyên may khi gặp được sự đồng điệu đồng cảm của người phổ nhạc là Phạm Duy. Có thể vì ông cũng là một người xa xứ, khi đọc được bài thơ cũng là lúc ông vừa giã từ quê hương miền Bắc để trở thành cư dân của Sài Gòn, nơi ông có thời hoạt động âm nhạc sôi nổi nhất và cũng là nơi ông nằm xuống.
Đến nay, ca khúc này rất gắn bó với người Việt hải ngoại. Họ thấy mình trong đó, như vẫn còn đang đi trên con thuyền viễn xứ.
Thuyền viễn xứ
Ra khơi sương khói một chiều
Thùy dương rũ bến tiêu điều ven sông
Lơ thơ rớt nhẹ men lòng
Mây trời pha ráng lụa hồng giăng ngang
Có thuyền viễn xứ Đà Giang
Một lần dạt bến qua ngàn lau thưa
Hò ơi! Câu hát ngàn xưa
Ngân lên trong một chiều mưa xứ người
Đường về cố lý xa xôi
Nhịp sầu lỡ bước, tiếng đời hoang mang
Sau mùa mưa gió phũ phàng
Bến sông quay lại, hướng làng nẻo xa
Lệ nhòa như nước sông Đà
Mái đầu sương tuyết lòng già mong con
Chiều nay trời nhẹ xuống hồn
Bao nhiêu sương khói chập chờn lên khơi
Hai bờ sông cách biệt rồi
Tần Yên đã nổi bốn trời đao binh
Ngàn câu hát buổi quân hành
Dặm trường vó ngựa đăng trình nẻo xưa
Biết bao thương nhớ cho vừa
Gửi về phương ấy mịt mờ quê hương
Chiều nay trên bến muôn phương
Có thuyền viễn xứ lên đường… lại đi…
Thơ Huyền Chi