Chuyện Thầy Ba Cầu Bông
Trước khi rời Sài Gòn tản cư về Gò Công năm 1945 do chiến tranh, sản nghiệp của mẹ tôi gồm một kho giầy dép lưu trữ trong căn nhà hẻm số 4 rue d’Espagne, cùng một gian hàng bán giầy dép ở chợ Bến Thành gần đó. Có người trả giá hai mươi tám ngàn đồng Đông Dương, tính theo giá vàng thì khoảng 930 lượng. Mẹ đã đồng ý bán, nhưng người anh trai của mẹ khuyên nên giữ lại để khi hồi cư có nơi buôn bán nuôi con cái. Bác còn hứa khi mẹ tản cư, sẽ trông nom giúp cửa hàng cho. Nghe lời khuyên hợp lý, vả lại khi đó mẹ cũng đã tái giá với người quản lý gian hàng này, nên ngoài ông anh còn có người bạn mới này nữa để có thể an tâm.
Tiếc thay vì quá tin, mẹ để lại toàn bộ tài sản cho hai người này quản lý, rồi dắt díu ba đứa con thơ tản cư về Gò Công theo lệnh của Chính quyền Sài Gòn.
Mẹ mang theo được một ít tiền vàng. Số tài sản này, mẹ khôn khéo cho hết vô túi vải, khâu kín lại rồi nhét vào giữa chiếc gối được nguỵ trang bên ngoài loang lỗ vết dơ do em Minh đái dầm. Bà thuê một người gánh đồ, một đầu gánh là quần áo và đồ dùng, đầu kia là chiếc mền bọc cái gối khai rình và cho em Minh ngồi. Về Gò Công, mẹ sanh thêm đứa em nữa là Tuấn cuối năm 1945 với người chồng sau. Rồi vì cuộc chiến ngày càng gia tăng, mẹ phân tán số vàng ra gửi mỗi người một ít. Nhưng đến hồi mạt vận, toàn bộ số tiền vàng gửi bạn bè đều bị chiếm sạch. Ôi cái thời tan tác từ thời cuộc đến lòng người.
Khi tiếng súng ở Sài Gòn lắng dịu, gia đình tôi hồi cư thì cửa hàng và căn nhà số 4 đã bị thiêu hủy. Nghĩa là cả nhà lâm cảnh vô gia cư. Mẹ xin tá túc nhờ người em gái, dì Sửu ở số 119 rue Legrand de la Liraye. Đây là căn biệt thự khá lớn thời bấy giờ với hai tầng lầu, tầng trên là phòng ngủ cho vợ chồng dì cùng con cái. Chồng dì tên là Sang, người Triều Châu giàu có, chủ lò gốm ở Tân Vạn, Biên Hòa. Tầng dưới là phòng khách, phòng ăn và một phòng nhỏ để bà ngoại tôi ngủ. Biệt thự này có một dãy nhà bồi phía sau, gồm nhà tắm, nhà vệ sinh cho bồi, bếp nấu ăn và bốn phòng ngủ để người giúp việc cư ngụ, mỗi người một phòng. Tất cả người giúp việc đều là chị họ gần xa của dượng Sang, đều là người Triều Châu. Bốn mẹ con tôi được ở một phòng.
Từ ngày hồi cư, tôi thất học, ngày ngày lang thang cùng trẻ con hàng xóm, đói ăn, thiếu mặc. Mẹ sợ tôi lêu lổng rồi hư hỏng, nhưng lực bất tòng tâm. Nghe tiếng tăm về thầy Ba Cầu Bông, mẹ lần mò đến tìm thầy xin thầy cứu giúp. Thầy hẹn với mẹ là trong hạn tối đa là ba ngày tôi sẽ tự tìm về nhà và sẽ ở nhà với mẹ. Quả nhiên khi đang lang thang chơi bời với trẻ nhỏ hàng xóm, bỗng nhiên tôi xìu hẳn, bỏ chúng trở về nhà rồi ở lì trong nhà, không đi đâu. Mẹ thấy lời thầy hiệu nghiệm, nên mua nhang đèn, nải chuối mang đến cúng Phật.
Khi gặp thầy, mẹ ngỏ lời gửi gắm tôi cho thầy nuôi dưỡng và dạy dỗ. Có lẽ do duyên số giữa chúng tôi, thầy nhận lời và nói mẹ đưa tôi đến gặp thầy. Khi diện kiến thầy, tôi cũng thấy thích, muốn đến ở với thầy nên hôm sau tôi ôm quần áo đến nhà thầy.
Thầy Ba Cầu Bông tên thật là Tăng Văn Mùi, sinh năm 1921, có lẽ là người gốc Hoa, nhưng không biết tiếng Hoa. Thầy thứ Ba trong nhà, có người chị và đàn em đông đúc tới người thứ Mười. Gia cảnh thầy ở mức trung lưu, tất cả đều sống trong căn biệt thự ở Bà Điểm. Chỉ có thầy Ba lên Sài Gòn sống, có vợ và hai con gái.
Thầy nói tiếng Pháp sõi như nói tiếng Việt, nên làm thơ ký cho một bác sĩ người Pháp tại xưởng Ba Son. Cứ hết giờ làm việc thì ông bác sĩ về nhà nghỉ ngơi, giao cho thơ ký trực suốt đêm. Nếu công nhân đang làm ca có bị tai nạn hay ốm đau cấp cứu thì thơ ký gọi điện thoại, bác sĩ sẽ đến khám, chữa bệnh. Trong những buổi trực đêm đó, thầy thường lấy sách thuốc của bác sĩ ra đọc, và học luôn cách chữa bệnh trong mớ sách đó.
Có một lần, vợ thầy sinh đứa con thứ ba là con trai. Bé rất khỏe mạnh, lanh lợi, cả nhà rất vui mừng. Một hôm khi thầy xuống nơi sản xuất, người tổ trưởng của nhóm công nhân nhìn thầy rồi nói: “Chút nữa hết giờ của ca này, tôi muốn gặp thầy để báo một tin quan trọng!”. Thầy gật đầu, trở về phòng Y tế trực như thường lệ.
Khi gặp thầy, người tổ trưởng này nói: “Nhìn sắc diện của thầy ký, hình như thầy ký có con trai phải hôn?”. Rồi ông ta nói tiếp: “Thầy nên chuẩn bị tinh thần, cháu bé này sẽ không ở với thầy đâu! Có thể trong tháng này, cháu đi đó!”.
Thầy Ba kinh ngạc và nổi giận trước lời phán của một người công nhân mà thầy chưa quen, vì cháu bé đang rất khỏe mạnh, bụ bẫm. Nhưng đúng hai tuần sau, đứa bé lên cơn sốt rồi qua đời. Thầy suy sụp vì nỗi đau mất con.
Khi bình tĩnh lại, thầy tìm đến nhà người tổ trưởng này để hỏi vì sao lại biết số phận ngắn ngủi của đứa con trai yêu quý nhất của mình. Bước chân vô nhà, thầy thấy ngay gian chính là một bàn thờ Phật. Chủ nhà giải thích: “Tôi không biết tại sao. Khi nhìn thầy, tôi có cảm giác như có điều gì đó không ổn! Và tôi cũng không hiểu tại sao tôi lại nói với thầy câu nói đó nữa. Hôm đó khi về nhà đốt nhang công phu (cúng), tôi càng xác quyết là điều tôi nói với thầy nhất định sẽ xảy ra!”.
Trở về nhà, thầy suy nghĩ nhiều rồi dần cảm thấy mình có nhân duyên với người tổ trưởng đó. Đến một ngày, thầy đến nhà vị tổ trưởng ngỏ ý muốn tu theo đạo của ông và nhận ông làm sư phụ.
Ông này giải thích cho thầy biết về đạo và cách tu dưỡng. Miền Nam vốn dĩ có nhiều môn phái tu hành, tựu trung cũng chỉ là thờ Phật nhưng nội dung tôn thờ và cách cúng lạy thì tùy từng tôn phái mà có những qui định riêng. Với đạo phái này, thờ năm vị bao gồm Phật tổ Di Đà, Phật tổ Thích Ca, Phật tổ Như Lai, Phật tổ Di Lặc và Phật thầy. Về kinh kệ, đơn giản chỉ có một tờ kinh gồm hai trang mà tất cả Phật tử đều phải thuộc lòng. Kinh kệ chỉ niệm thầm, không gõ mõ, mỗi lời kinh niệm xong lạy bốn lạy, có thể đứng lạy và quỳ lạy. Đạo phái này chủ yếu là tu tâm, dưỡng tánh, không mặc áo cà sa, không cạo đầu cũng không bắt buộc phải chay trường mà tự nguyện ăn chay tùy theo từng người, vẫn có thể lập gia đình, hoặc đang có gia đình vẫn tu hành và sống với vợ hay chồng bình thường. Tuy nhiên các đệ tử đều phải phát nguyện: “Xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo”. Khi được “mở phần”, tức được làm lễ thu nhận đệ tử, thầy phát nguyện và tự nguyện sống đơn thân, tách hẳn quan hệ vợ chồng và phát nguyện cứu nhân độ thế.
Cảnh chữa bệnh bằng cách giác lễ ở chợ ngoại ô Sài Gòn.
Ảnh trang 271, 275 trích từ bộ tranh Monographie dessinée de l’Indochine (Chuyên khảo có minh họa về Đông Dương) do học sinh trường Mỹ thuật Gia Định xuất bản năm 1935 đến 1938.
Việc đầu tiên trong việc phát nguyện “cứu nhân độ thế” của thầy là tìm để xin hoặc mua một số toa thuốc gia truyền, như toa thuốc trị các bệnh về ban như ban đỏ, ban trắng... và những bệnh khác để giúp người. Trong xưởng, nếu anh em công nhân bị bệnh thì thầy tìm đến tận nhà tìm hiểu rồi mua thuốc tặng không cho họ. Với kiến thức y học tự học, một số bệnh thông thường thầy chữa bằng thuốc Tây, như cảm, sốt, ghẻ lở.
Sau khi tu hành một thời gian, thầy nghỉ việc, về nhà mở tiệm thuốc.
Khi tôi về ở với thầy tại Rạch Cầu Bông, phía gần Lăng Ông Bà Chiểu khoảng thời gian từ 1947 – 1953 thì khu nhà sát con rạch chủ yếu là nhà sàn, mọi người sống trên mặt nước, chỉ một số ít có nhà trệt. Thầy dành riêng một căn để khám chữa bệnh. Cách chữa bệnh của thầy không giống bất cứ một ông bác sĩ hay thầy thuốc Bắc nào. Lúc tôi về ở đó, thầy hướng dẫn cách gói thuốc bột, học nhận mặt các vị thuốc Bắc. Ban ngày thầy ngồi trong quầy, phía trước mặt là cửa sổ có ô hở như quầy bán vé chiếu bóng vậy. Bệnh nhân đến xếp hàng thứ tự, tới phiên mình. Thầy hỏi tên tuổi, ngày sinh tháng đẻ. Rồi thầy bấm độn (hoàn toàn không hề chạm đến người bệnh nhân) và kể bệnh cho bệnh nhân nghe. Thầy thường nói: nếu tôi nói trúng bệnh mà anh/chị cô/bác xác nhận là đúng thì tôi sẽ hốt thuốc. Nếu không trúng thì đừng hốt thuốc, sẽ không hết bệnh lại tốn tiền. Tuy nhiên, chưa có ai sau khi nghe thầy kể bệnh mà nói là không trúng cả. Thuốc của thầy, nếu là cao đơn hoàn tán thì do một tiệm thuốc Bắc ở Phú Nhuận chế biến riêng cho thầy, loại thuốc này không có nhãn mác, chỉ có những con số ghi trên hộp, như thuốc “điều kinh bổ huyết” là số 80, thuốc đau “nhức khớp xương” số 32. Kể cả thuốc theo toa gia truyền, nếu bị ban đỏ thì thầy hốt cho thang số 46, v.v... Có điều đặc biệt là nếu bệnh nhân quá nặng, khi đến khám thầy cho biết là uống hết thang này thì gia đình chuẩn bị tinh thần lo hậu sự cho bệnh nhân, và thang thuốc đó thầy không lấy tiền...
Tôi ở với thầy khoảng hơn một năm thì số lượng bệnh nhân tăng lên đến mức tôi và một đệ tử lớn tuổi phải ngủ ngoài hiên, để từ 12 giờ đêm đến 5 giờ sáng phát ticket (số thứ tự) cho gia đình bệnh nhân. Tôi để sẵn hộp thẻ số ở đầu sạp nằm, ai gọi cửa thì vẫn nhắm mắt, rút một số, thò ra ngoài cửa cho khách xin thẻ. Mỗi đêm hai anh em tôi cấp cho khách 150 thẻ. Số lượng khách đông như vậy mà căn nhà này không thể chứa được, nên thầy mua một căn nhà gần bên rộng rãi hơn để khi khách đông quá, tới đêm chưa xong thì tôi phải mang chiếu ra phát cho bệnh nhân nằm ngủ dưới sàn theo thứ tự số.
Có điều đặc biệt là mỗi sáng thầy ngủ dậy chỉ ăn điểm tâm bằng ổ bánh mì với món súp chay, uống nước xong ra ngồi khám bệnh từ lúc đó cho đến khi người khách cuối cùng rồi mới rời phòng khám về cái am (giống như gác lửng của căn nhà trệt), ăn xong rồi đi ngủ. Suốt một ngày làm việc thầy không ăn, không uống, không giải lao, nghĩa là không rời cái ghế và không ngừng tiếp khách.
Ngày rằm, mồng Một hàng tháng thầy ngưng khám chữa bệnh, để dành cho khách thập phương đến thắp nhang, cúng Phật. Thời gian đầu khách mang nhang, đèn và hoa quả đến cúng xong để lại nhưng vì nơi thờ tự nhỏ quá, nên cứ mỗi đợt khách thắp nhang xong tôi lại phải bê hết trái cây trên bàn thờ để xuống sàn cạnh đó, đến chiều thì mớ trái cây cao gần ngang ngực tôi. Đặc biệt thầy không cho ai cúng tiền cả. Đúng 12 giờ trưa, thầy dành để cúng cho các đệ tử chính thức của thầy. Đến khi thấy khách cúng nhiều trái cây, thầy thông báo trái cây sau khi cúng nên mang về bày trên bàn thờ ở nhà, hoặc là hưởng dụng. Từ đó bà con cúng xong thì mang trái cây về.
Có một hôm, bà nội của thầy từ Bà Điểm đến thăm ở chơi với các cháu. Buổi tối cả nhà đang chuyện trò vui vẻ, bỗng thầy đến vỗ vai nội nói: “Nội ơi, mai nội về đi, con thấy nội không được khỏe đâu!”. Bà nổi giận: “Tao khỏe như vầy mà mầy nói dzậy hả? Thôi được rồi, mai tao dzìa...”. Hôm sau bà đi rồi, thầy kêu hai em gái, nói nhỏ: “Hai đứa bây về với nội đi, nội thèm ăn gì thì nấu cho nội ăn, chừng hai tuần nữa là nội đi đó!”. Các em về rồi, quả nhiên hai tuần sau bà qua đời.
Thời gian đầu thầy xem bệnh cho bệnh nhân đều thông qua bấm độn và hốt thuốc. Ngoại trừ mấy thang thuốc gia truyền mà thầy mua được, còn lại hầu hết là thầy tự bốc mà không biết cách thức ra sao. Khi lời đồn đãi ra nhiều, thầy nói với tôi rằng từ nay đành phải coi bệnh thay vì bấm độn. Thầy cũng bắt mạch như thầy thuốc đông y, nhưng lúc đầu có khi quên thay vì đặt ba ngón tay vô mạch ở cổ tay phía dưới ngón cái, thầy lại đặt ba ngón ở cổ tay dưới ngón út (!). Để hòa đồng với cuộc sống chung trong giới Đông y, thầy nhận một ông thầy thuốc Bắc, mọi người gọi là thầy Chín, chuyên bắt mạch, bốc thuốc như các thầy Đông y khác, đến làm việc chung với thầy. Thầy nhìn cách hành xử của một ông thầy thuốc Bắc như thế nào, học và thực hành. Rồi thầy nhờ người tìm cho thầy quyển sách chép tay kê các vị thuốc, mỗi vị trị bệnh gì, hợp khắc nhau thế nào bằng thơ Lục bát. Tôi đoán đó là quyển Ngư tiều y thuật vấn đáp của Nguyễn Đình Chiểu. Nhờ quyển này, dần dần các loại thuốc cao đơn hoàn tán mà trước đây tiệm thuốc Bắc ở Phú Nhuận cung cấp cho thầy dần dần chỉnh sửa lại hết.
Bên trong một ngôi chùa ngoại ô Sài Gòn.
Trước tình hình khách lễ đông quá, thầy có ý định xây một ngôi chùa khang trang để khách thập phương có nơi cúng Phật. Nhưng làm sao có tiền? Trong khi mỗi thang thuốc thầy hốt cho bệnh nhân từ 15 đến 25 vị (trong ở tiệm thuốc Bắc của thầy Đông y chỉ có từ 6 tới 8 vị thuốc một thang), hoặc một thang thuốc ngâm rượu từ 30 đến 50 vị thuốc Bắc nhưng giá mỗi thang chỉ 7 – 8 đồng mà thôi. Thế rồi thầy gọi tôi lên am, hai thầy trò nhỏ to với nhau, thầy giải thích là thầy xin ơn trên cho thầy xây một ngôi chùa... và được ơn trên cho phép và cũng cho thầy một khoản tiền lấy từ… số đề ở khu Kim Chung (Sài Gòn) và Đại Thế Giới (Chợ Lớn). Thầy dặn việc này tuyệt đối không được để cho một ai biết, ngoài thầy và tôi. Bắt đầu từ hôm sau, thầy đưa cho tôi năm trăm đồng bạc Đông Dương cùng với tiền thuê xích lô máy đi từ Cầu Bông đến Kim Chung. Vô đó mua 5 con số đề, rồi ở lại đó chờ xổ, xổ xong thì lãnh tiền mang về cho thầy (Đề thời đó có 36 con, đánh 1 đồng, trúng 32 đồng). Như vậy mỗi ngày tôi mang đi mỗi lần xổ 500 đồng, và mang về 3.200 đồng. Tiền trả xích lô thầy cho riêng và cho tôi mua một ổ bánh mì ăn chờ nhận tiền. Tôi đi như vậy tất cả 10 lần trong 5 ngày. Nhưng có một điều mà sau này tôi mới biết là chỉ sau một ngày đi làm chuyện này, thì hàng xóm thân thiết đều biết, nên mỗi lần tôi ra kêu xích lô máy chạy đến Kim Chung hay Đại Thế Giới thì có ít nhất vài ba người bám theo. Họ đi taxi con cóc. Những người đi theo đều là thân nhân của những người quen nhưng tôi không biết là ai. Khi xếp hàng để mua vé đánh đề xong, tôi vừa bước ra thì người đứng sau lưng tiến đến mua đúng những con số mà tôi mới mua. Ngày đó trong chuyện chơi đề, khi mua số đề thì nhân viên tại quầy bán qua lỗ cửa sổ nhỏ, họ ghi con số vô vé bằng viết mực và giữ lại cuống vé... do đó người đứng sau dễ dàng mua vé theo con số mới bán ra. Đúng năm ngày sau, thầy dừng lại không mua nữa. Hàng xóm không thấy tôi rời nhà, chờ cả ngày. Hôm sau họ đến hỏi lý do, tôi mới biết mấy ngày qua họ đều nối bước theo và kiếm được bộn tiền!
Với số tiền này, thầy mua một miếng đất ruộng ở khu “Khăn Đen Suối Đờn” gần Lăng Ông Bà Chiểu rồi thuê người xây lên một ngôi chùa khang trang, ba phần tư là tầng trệt, phần còn lại là sàn gỗ trên mặt ruộng. Chùa gồm có chính điện thờ năm vị Phật tổ, Phật bà Quan Âm và các đấng hiển linh. Bên trái từ ngoài vào là khu khám chữa bệnh, bán các loại thuốc thông thường. Hết giờ chữa bệnh, thầy có cái liêu dưới gầm tượng Phật đài. Hôm nào trời nóng thì thầy trải chiếu ngủ dưới đất trước Phật đài, rất đơn sơ giản dị.
Khách khứa ngày càng đông, ắt có người nghĩ tiền thu vào sẽ rất cao, trong đó có những người xấu. Một tối kia, thầy gọi tất cả đến dặn dò: “Từ đêm hôm nay trở đi các bác, anh, chị cứ ngủ nghỉ như thường, dù có động tĩnh gì cũng không được náo động...”. Mọi người đều nghĩ rằng lời đó chỉ là dặn dò bình thường trong sinh hoạt của nhà chùa.
Đêm đó tôi và anh Hai (một đại ca giác ngộ quy y Phật pháp) cùng trải chiếu một bên hành lang của chùa ngủ. Khoảng 12 giờ đến 1 giờ sáng, tôi đang ngủ say thì bỗng giật mình vì có người dựng anh Hai dậy rồi đưa vô trong điện thờ Phật. Vì tôi còn nhỏ, nên để nằm tại chỗ. Tôi giả bộ ngủ say nhưng biết có người ngồi xuống cạnh tôi, lục mò trong túi áo quần kiếm tiền. Thấy không có gì, họ lại bỏ tôi nằm đó và cùng những người khác tập trung quần thảo, tra tấn thầy Ba, anh Hai, chú Năm...
Câu đầu tiên bọn cướp hỏi: “Tiền để đâu?”.
“Tôi cất trong tủ, dưới liêu thờ Phật.”
“Ở đâu?”
“Anh đi thẳng tới cửa liêu, đúng rồi, mở cửa đi đến tủ, đúng rồi, lật tờ giấy lót tầng trên, đúng rồi, số tiền bán thuốc hôm nay nằm ở đó.”
“Tại sao chỉ có hai ngàn đồng. Mỗi ngày hàng trăm khách mà sao chỉ có bấy nhiêu? Còn giấu ở đâu nữa?”
“Hàng ngày tài phú mang thuốc đến và ở đây đến chiều. Khi hết khách tài phú đưa bảng tính tiền và tôi trả cho anh ấy. Mấy hôm trước số tiền còn ít hơn, hôm nay tôi chưa trả hết nên mới còn số đó.”
Thầy Ba trả lời họ trong khi vẫn đang bị trói nằm ngửa dưới đất, hai mắt bị bịt kín bằng khăn mặt dài.
Rồi tôi nghe tiếng nước chảy róc rách. Chúng xuống bếp đổ nồi cơm to bằng nhôm xuống đất, lấy nồi đó múc nước ao lên để trấn nước thầy. Tiếng đánh đập huỳnh huỵch trong điện, tiếng nước chảy xuống ao sau chùa. Sợ quá! không dám rục rịch. Một lúc sau tôi bỗng nghe có tiếng chửi thề: “Đ.M, thằng này khỏe quá tụi bây! Nó bứt đứt hết dây trói. Xuống bếp lấy sợi dây kẽm phơi đồ lên đây!”. Chúng dùng dây thép đó trói thầy, rồi tiếp tục tra tấn. Một hồi tôi bỗng nghe có tiếng nói: “Nó chết rồi tụi bay, thôi rút!”. Khi tiếng chân bước rời khỏi chùa chấm dứt, tôi ngồi dậy nhìn ra ngoài trên con đường nhỏ từ chùa ra đường Lê Văn Duyệt, lố nhố chừng năm, sáu người bước nhanh xa dần. Thấy yên tĩnh, tôi chạy lại mở cửa bên hông chùa, bước vô trong điện thờ thì phát hiện thầy Ba bị trói hai tay quặt ra sau lưng bằng một bó dây kẽm phơi quần áo, mặt bị bịt bằng chiếc khăn mặt, bên cạnh là bó dây lác dùng để cột các thang thuốc Bắc, nước chảy lênh láng khắp nơi thờ tự. Tôi cởi trói cho thầy rồi bước sang cởi trói cho anh Hai và chú Năm. Hai người này bị trói hai tay ra phía trước, ngồi co hai đầu gối, một thanh củi đòn (loại củi đước rất chắc, tròn nhỏ) xuyên qua giữa hai tay và phía dưới đầu gối. Kiểu trói này rất chuyên nghiệp, không thể nào tự tháo gỡ được. Mọi người thoát nạn. Câu đầu tiên mà thầy Ba nói là: “Thôi, quét dọn sạch xong mọi người đi ngủ. Đừng tiết lộ chuyện này ra ngoài”. Dọn dẹp xong, tôi bê nồi xoong, dây kẽm, dây lác xuống bếp thì hai bà cụ công quả vẫn nằm trên tấm ván ngủ. Vì sợ quá cả hai bà đều tè luôn ra quần (đó là tiếng nước róc rách chảy phía sau chùa khi chúng tập trung tra tấn khổ chủ), không dám ngồi dậy, chờ mọi người trở về chỗ ngủ mới dám dậy thay quần áo.
Sáng sau nhà chùa treo bảng thầy bị bệnh, miễn tiếp khách. Kể từ hôm đó, chùa ngưng hoạt động, thầy trở về căn gác, nơi vẫn còn cái am của thầy. Tôi cũng theo thầy về đó, ngày ngày thuốc thang chăm sóc thầy.
Do sống chung với thầy nên tôi được nghe thầy kể lại chuyện bọn cướp như sau: Biết đêm đó sẽ có biến, nên sau khi dặn dò mọi người xong, thầy lấy một khúc gỗ dài cỡ một mét, dựng ngay sau cửa, vì chắc chắn khi chúng đến thì sẽ nhè nhẹ mở cửa chính, thò đầu vô quan sát trước khi bước thẳng vào điện thờ. Quả nhiên đúng như đoán, khi nghe bước chân đến gần cánh cửa, thầy vụt ngồi dậy, chạy lại núp sau cánh cửa, tay cầm thanh gỗ giơ lên. Chỉ cần đập nhẹ một cái là người này sẽ lăn ra. Nhưng thầy kịp ngưng lại vì nghĩ rằng họ đến đông người chứ không phải một, và kẻ tu hành không được gây thương tích cho chúng sanh nên đặt đoạn cây đó vô chỗ cũ, cất tiếng hỏi họ cần gì? Thế là cánh cửa được mở rộng cùng lúc nhiều người bước vô trong điện thờ. Chúng bắt thầy, dùng bó dây lác trói hai tay. Nhưng khi bắt đầu trấn nước thì thầy gồng lên vặn đứt dây trói. Sau đó chúng lấy dây kẽm trói rồi tiếp tục trấn nước để khảo tiền. Thầy nín thở. Đây là môn luyện công phu hàng ngày để thổi bùa, cúng cho bá tánh do đó chúng tưởng thầy đã chết nên bỏ đi. Chừng gần một tháng sau, Tòa án ở Gia Định mời thầy đến nhận diện những tên cướp này và cho biết chúng là lính người Việt của quân đội Pháp, đóng ngay đường Phan Đăng Lưu. Nhưng thầy xin vắng mặt, báo là không bị mất mát gì.
Trước chuyện như vậy, thầy thấy khó mà an toàn tu hành tại ngôi chùa này nên biểu tôi đến Chánh Hưng, qua khỏi cầu chữ Y mời ông Sư tổ đến vì thầy bị bệnh không đến ông được. Ông đến gặp và được thầy ngỏ lời hiến tặng ông ngôi chùa, để ông đưa về dựng lại ở Chánh Hưng cho các đệ tử đến cúng.
Là đệ tử trẻ nhất của thầy, lại sống bên cạnh thầy lúc vui, khỏe, bình yên cũng như khi hoạn nạn ốm đau nên thầy tin và thương tôi hơn bất cứ ai trong gia đình. Mãi sau 22 năm xa cách, tôi mới biết ý định của thầy là nếu tôi ở với thầy đến tuổi trưởng thành, sẽ được thầy gả người em gái út cho. Nhưng, như ngay từ đầu thầy đã coi và nói với tôi nhiều lần như sau: “Phú muốn đi tu, thầy chiều ý Phú, nhưng thầy biết là Phú sẽ không tu được đâu! Một ngày nào đó Phú sẽ xa thầy... đi xa lắm!”. Và đến năm 1954, tôi xa hẳn Sài Gòn cho đến 22 năm sau.
Khi trở về Sài Gòn, việc đầu tiên là tôi tìm đến mộ thầy (ở nghĩa trang giữa đoạn đường từ ngã năm Chuồng Chó đến ngã ba Cây Thị), thắp nén nhang viếng thầy.
Thầy Ba Cầu Bông là một con người kỳ lạ. Thầy theo Tây học nhưng sống theo đạo lý phương Đông và biết vận dụng những kỹ năng tâm linh có sẵn trong việc làm phước, không học nghề y nhưng tự học lóm cả nghề thuốc của Tây và y học cổ truyền Việt Nam, không nặng vật chất nhưng khi cần xây chùa, vẫn biết cách kiếm tiền bằng môn cờ bạc tuy hợp pháp thời đó nhưng bị thành kiến trong xã hội. Thầy như người tìm ra được con đường, kiên quyết đi theo và dùng mọi phương tiện để đạt đến.
(Ghi theo lời kể của ông Nguyễn Cương Phú, sinh 1936, hiện sống tại Melbourne, Australia)