Cuộc Sống Ven Đô Sài Gòn 1945
Ông Hồ Thủ Nhâm, một cư dân Sài Gòn sinh ra ở quận 4 hơn bảy mươi năm trước, nguyên là sinh viên các trường Sư phạm Sài Gòn, Đại học Văn khoa trước 1975 và đi dạy học nhiều năm trước khi nghỉ hưu. Trước khi mất vào tháng 5 năm 2016, ông Nhâm đã trao cho tôi quyền sử dụng hồi ký của mình. Dưới đây là phần viết về đoạn đời khi ông còn bé, lưu lạc theo gia đình từ quận 4 ra vùng ven đô Củ Chi thời thực dân Pháp chiếm đóng. Sau đó, cả nhà ông quay về quận Phú Nhuận và định cư cho tới cuối đời. Cuộc sống của những người nghèo Sài Gòn thời tao loạn chiến tranh cách nay hơn 70 năm được mô tả khá sinh động và cảm xúc:
“Năm 1941, mẹ tôi đang sống cùng gia đình ở khu Cầu Ông Lãnh, quận 4 thì lên xe hoa khi mới mười bảy tuổi qua mai mối. Thời đó, lập gia đình ở tuổi 17 là bình thường, nhưng là sự thay đổi lớn của cô gái thành thị lấy chồng vùng quê. Cảnh nhà lúc đó đã không còn sung túc như trước, ông ngoại có bệnh mắt, không còn đi làm lãnh lương cao như thời làm việc cho Tây ở Sở hỏa xa Đông Dương đường la Somme (Hàm Nghi) nữa nên không còn gì luyến tiếc.
Mẹ tôi về làm dâu ở Tân Thạnh Đông, cái làng quê nghèo ở Củ Chi trong những năm nghèo đói nhất của đất nước sau khi chiến tranh thế giới thứ Hai vừa diễn ra. Thời đó, cả vùng này không có dầu lửa thắp đèn ban đêm sáng, phải dùng dầu mù u. Không có vải, phải dùng bao bố may quần mà mặc. Không có chỉ may, phải cạo bẹ thơm lấy sợi làm chỉ vá áo quần. Thậm chí nhiều đàn ông trung niên và cả thanh niên ra đồng làm đất phải hà tiện, quần không dám mặc để tồng ngồng giữa đất và trời. Mẹ tôi kể hồi mới về làm dâu, nhiều lúc bà mắc cỡ, ù té chạy một nước khi nhìn thấy cảnh tượng cười ra nước mắt ấy. Cái nghèo ‘mạt, rận’ của dân làng Tân Thạnh Đông cũng từ đó vì khi mặc bao bố thay vải, thỉnh thoảng dân làng phải lôi nó ra để giết mạt và rận (loại kí sinh ở gà và trâu bò) bằng cách cán chai thủy tinh lên chúng phát ra tiếng kêu lắc rắc.
Bà ngoại kể, mẹ tôi hồi trẻ nổi tiếng là rất đẹp ở vùng Cầu Ông Lãnh, quận 4. Về Tân Thạnh Đông làm dâu, bà còn đẹp hơn sau khi sanh con đến nỗi bà con luôn tấm tắc khen: ‘Con nhỏ ngộ thấy lạnh!’. Lúc chưa có con, bà theo chân cha tôi hoạt động trong phong trào Thanh Niên Tiền Phong, đi khắp lục tỉnh, vừa hoạt động vừa dạy dệt vải để che mắt địch. Rồi mỏi mệt, ông đưa bà về Cầu Ông Lãnh năm 1942, chuyển bụng trong lúc vội vã chạy sang cầu để qua trung tâm Sài Gòn xem đốt pháo bông, để sau đó sanh ra tôi đúng ngày lễ kỷ niệm Cách mạng Pháp. Đầu năm 1945, Pháp oanh tạc Sài Gòn, cả gia đình gồm ông bà ngoại, cha mẹ và tôi, cùng dì Út về Tân Thạnh Đông lánh nạn. Lúc đó, bà nội của tôi nuôi tằm kéo lụa. Cả nhà nội được cả xóm nể nang vì ăn mặc lành lặn hơn các gia đình khác, không ai mặc quần bao áo bố. Món ăn dùng hoài không chán là những con nhộng kén, bỏ vào nồi luộc béo ngậy.
Phải chăng do biết trước định mệnh nên trời cho tôi phát triển trí nhớ rất sớm, chỉ mới bốn tuổi mà nhớ không sót chút chi tiết mọi chuyện chung quanh làng quê tuy không xa đô thị lắm nhưng rất quê mùa này. Những buổi trưa hè, được cha âu yếm đòng đòng trên vai, tôi cười như nắc nẻ trên tấm thân vững chãi của ông. Chúng tôi đi trên đường gập ghềnh mô đất, hai bên bờ là những bụi tre gai. Thỉnh thoảng cha dừng lại, kiễng chân hái mấy chùm nhãn lồng vàng mọc xen vào bụi tre hay mấy trái gấm chua ngọt lủng lẳng trên cành. Chung quanh đầy âm thanh, tiếng chim tu hú kêu rời rạc gọi bầy xen lẫn tiếng cuốc kêu khắc khoải, từ xa là tiếng chày giã gạo nhịp đôi, nhịp tư cắc cum khi nhặt khi khoan. Những âm thanh, hình ảnh mà cho tới bảy mươi tuổi, thỉnh thoảng hiện về trong giấc mộng để rồi có khi tôi bừng tỉnh với nhòe nhoẹt nước mắt.
Mỗi sáng, cha một tay dắt dì Út là em nhỏ nhất của mẹ tôi đưa đến trường và đòng tôi trên vai. Ông ghé nhiều nhà bạn bè, thì thầm những chuyện mà sau này tôi hiểu là chuyện hoạt động bí mật chống Tây. Tôi cười như nắc nẻ trên vai cha, tay níu mớ tóc xoăn của ông, tay kia nắm lấy chùm nhãn lồng. Buổi chiều mẹ đứng đón hai cha con ở ngưỡng cửa. Bữa cơm đầm ấm, tôi luẩn quẩn bên chân cha, con chó mực bên cạnh chực chờ chiếc xương hay đầu cá nướng. Có những buổi tối hãi hùng cả nhà nằm co mình dưới hầm tránh đạn, tiếng giặc Tây bố ráp chạy rầm rập. Đạn bay vèo vèo quanh nhà, vài tiếng chân người chạy vụt qua rồi biến mất.
Nhức nhối trong tôi ký ức về một buổi sáng…
Sáng mùng 5 tháng Chạp năm 1945, cha đột nhiên gọi má tôi: ‘Vú On ạ, tối qua Tây nó bố dữ quá, sáng nay nhà bên có làm heo, hay là mình mua một vài ký về ăn rồi chết cũng đáng!’ (On là tên gọi ở nhà của tôi). Mẹ tôi trước câu nói gở ấy tuy có giật mình nhưng cũng nghe lời ông le te sang mua thịt heo. Thịt về chưa kịp làm thì giặc rần rần kéo tới. Đó là trận càn đầu tiên của giặc Pháp từ Thủ Dầu Một kéo sang. Cả nhà vội vàng kéo nhau chạy sang nhà nội lánh nạn. Vợ chồng cha con đang líu ríu dắt nhau bỗng nhiên cha nằng nặc đòi quay trở lại. Giặc đang đuổi sau lưng, mẹ tôi không cho. Cha bảo phải về vì có một đồng đội kẹt dưới hầm và một mớ tài liệu chưa kịp hủy, nếu lọt vào tay giặc rất nguy hiểm. Mẹ nhất định không chịu, giằng túi xách của cha lại. Cha bực mình tát mẹ một cái và vùng quay trở lại. Không biết làm gì hơn, mẹ lại đành dắt dìu tôi, bà ngoại và dì Út sang ông bà nội. Mấy tiếng đồng hồ sau giặc rút, im tiếng súng, cả gia đình nhận được cái tin khủng khiếp: Cha đã bị Tây bắn chết!
Cả nhà chết điếng. Mẹ vội vã bồng tôi theo dòng người chạy đến chỗ chồng. Bà không thể nào khóc được, nhưng trên khuôn mặt trẻ trung thể hiện nỗi đau tột cùng của người đàn bà trẻ từ nay góa bụa. Sau này mới biết, khi cha quay trở lại, chị Nghĩa (sau này lớn lên là vợ ông Lê B., một quan chức thể thao) ở hàng xóm lúc đó mới 6, 7 tuổi nhìn thấy giặc trói ông dẫn đi ngang nhà. Chúng bắt ông đào một cái hố bảo đứng xuống, kề súng vào thái dương của ông và bắn chết.
Đám tang cha diễn ra vội vàng. Những năm đó cả làng quê nghèo đói nên cái gì cũng hiếm. Vì thế, rất khó tìm quan tài cho cha. Ông bà nội của tôi, bà ngoại và mẹ dùng một bộ ván gõ và mấy chục thước vải lụa tơ tằm nhà có sẵn quấn vào để mai táng thi hài ông. Mộ nằm ngay nghĩa địa trước nhà nội.
Trong năm 1945, mẹ tôi chịu hai cái tang lớn, ông ngoại tôi mất tháng Ba và tháng 12 chồng mất. Gia đình còn lại gồm bà ngoại, mẹ, dì Út mới lên bảy tuổi và tôi, hai người đàn bà góa và hai đứa trẻ.
Khi tôi sinh ra, ông ngoại vốn giỏi xem tử vi đã bảo rằng tôi và cha ruột có số xung khắc, không thể ở với nhau được. Hễ cha sống là con chết, con còn thì cha mất. Ông ngoại thở dài cho biết chỉ còn một cách gỡ cầu may là đem tôi cho người khác, không nuôi được. Lúc đầu cha gửi tôi cho hai bác nuôi, nhưng sau một vài tháng thương quá lại đem về nhà, buộc tôi gọi mẹ bằng Vú mà không được gọi bằng má. Ông ngoại chỉ còn biết cười huề. Dù sao, ông cũng thương tôi và mong có cháu bên cạnh.
Năm đó, trước khi cha mất, tôi bị bệnh thập tử nhất sinh tưởng không thể qua khỏi. Trong đời nhiều lúc tôi mong rằng: giá ngày đó mình chết để cha được sống cùng mẹ hưởng hạnh phúc!
Sau ngày cha mất, chiến sự tại làng Tân Thạnh Đông ngày càng bùng nổ ác liệt. Lực lượng kháng chiến rút vào bí mật, giặc Tây ngang nhiên xâm chiếm khắp làng. Chúng lùng sục bắt bớ bất kể ngày đêm. Các chú bác bị đuổi bắt, có người chạy vọt vào nhà tôi, nhét tài liệu vào mái tranh rồi biến mất. Có ngày dì cháu tôi phải nhảy xuống hầm liên tục, đạn reo inh ỏi quanh nhà. Mẹ tiếp tục công việc hoạt động của cha, nhưng ngày càng khó khăn. Vì sinh kế và cũng để che mắt giặc, mẹ và ngoại mở quán cóc tại nhà bán đồ lặt vặt và khách hàng chủ yếu lại là lính Tây. Mỗi ngày bà quảy đôi gióng, thoăn thoắt cuốc bộ từ làng xuống tận Hóc Môn rồi gánh hàng về để chiều bán. Tôi và dì Út, chỉ lớn hơn tôi bốn tuổi nên cứ như đôi bạn, đến trưa lại tha thẩn ra đường lộ ngóng mẹ về.
Tuổi còn xuân sắc, mẹ vẫn đẹp mặn mà. Bọn lính Tây mê bà như điếu đổ. Chúng thường đến la cà mua hàng, lượn lờ tán tỉnh. Mẹ và bà ngoại vì miếng cơm manh áo phải cắn răng tiếp chuyện chúng bô lô bu lu cho qua chuyện. Nhưng có phải chỉ giặc Tây thôi đâu, vẫn có các chú và cả đám ‘Việt gian’ theo bà sát nút. Bà không biết làm sao, đành chui nhủi kiếm sống qua từng ngày cho đến khi cảm thấy không thể tiếp tục sống trong ngôi nhà quá nhiều kỷ niệm vui buồn lẫn đau thương, lại bị giặc Tây giặc ta vây hù tứ bề, bà bàn với bà ngoại qua Thủ Dầu Một tìm phương sanh sống. Mẹ gởi dì Út và tôi cho bên gia đình nội, rồi lên đường cùng ngoại.
Rảnh rỗi vì người lớn mải kiếm sống, tôi và dì Út mỗi ngày thơ thẩn dắt tay nhau trên đường lộ, có bữa bị trâu sút chuồng rượt chạy trối chết. Cả hai nếm đủ thứ sản vật quê mùa chung quanh, hái chùm nhãn lồng, quèo trái mắm ăn, ra đồng hái nắm lúa ngậm sữa nhai rồi nhả. Cùng những bạn hàng xóm quanh nhà, dì cháu bày đủ trò chơi không thiếu món. Đám con nít hàng xóm tốt bụng, có gì cũng cho hai dì cháu ăn đỡ buồn. Ban ngày chơi đùa đã đời, tối đến cả hai ngồi trong nhà nhìn ra cánh đồng bà Bái. Những con đom đóm lập lòe bị hù là ma trơi làm cả hai sợ vỡ mật. Tối đến hai dì cháu thủ sẵn gậy hèo đứng đón ma trơi để đập nếu chúng bay vào nhà. Thỉnh thoảng lại có một bóng đen chạy vụt qua, cả hai sợ muốn té… Sau này mới biết họ là những người kháng chiến trên đường công tác.
Dì Út và tôi ngày càng thấm cảnh cô đơn. Tôi theo chú Út đi bắt dế, bắt cá lia thia về đá, đào những con dế cơm mập ú, về chiên lăn bột ăn. Bị bỏ mặc dì Út đâm buồn, thế là nhân mẹ về xin mẹ theo qua Thủ Dầu Một. Một mình tôi ở lại, bám chơi với các chú. Nhà bà nội lúc đó tiếp tục nghề nuôi tằm. Tằm trong nong ăn lên nghe rào rào suốt ngày, lá dâu không đủ cung cấp. Ăn những con nhộng béo ngậy mãi ai cũng ngán. Đêm luôn có tiếng súng xa xa, tiếng kêu thét, tiếng chân chạy, tiếng người thì thầm tạo nên một bầu không khí bí mật đến khó chịu. Tôi ngủ với bà nội, mơ hoài cảnh ba đòng đòng đi trên đường lộ đến quán cà phê. Sáng sớm tôi dậy ngồi cùng bà bên gian bếp, ăn cơm khuya cùng các chú, suốt ngày nghĩ về đất Thủ xa xôi nhớ bà ngoại, mẹ và dì Út, nhất là lúc chiều xuống nghe tiếng hú gọi ba hồn bảy vía văng vẳng xa xa của bà nào đó bên hàng xóm. Ở Củ Chi lúc đó có tục lệ khi có người bệnh thì hú gọi hồn như vậy. Những buổi chiều buồn thê thảm đó tôi lần mò ra ngồi một mình bên mộ cha đến sẩm tối, không thấy sợ.
Một quán nước ở vùng ngoại ô Sài Gòn.
Ảnh trang 261, 263 trích từ bộ tranh Monographie dessinée de l’Indochine (Chuyên khảo có minh họa về Đông Dương) do học sinh trường Mỹ thuật Gia Định xuất bản năm 1935 đến 1938.
Có một thời gian, bỗng nhiên tôi bị bệnh quáng gà. Cứ đến sáu giờ tối mắt thấy chập choạng, mờ mờ ảo ảo. Chú Út và chú Mười mỗi ngày ra đồng lùng bắt những chú chuột ăn toàn lúa mập ú, đem về mổ bụng chỉ lấy lá gan nướng cho cháu ăn. Mới bắt đầu thì đem thịt xào lăn, gan nướng làm thuốc nhưng riết rồi ai cũng ớn thịt chuột, chỉ lấy mỗi lá gan. Tôi ăn riết quá ngán nhưng phải ráng, ăn gần trăm lá gan chuột thì mắt sáng trở lại, thật là bài thuốc hay mà bây giờ chắc chẳng ai áp dụng. Thực chất là bổ sung nguồn vitamin A từ động vật.
Tình hình miền quê Củ Chi ngày càng lộn xộn, tôi và chú Út lúc đó chỉ hơn nhau bốn năm tuổi chẳng biết gì cả. Khi rảnh, chú Út lại xách cần câu, xách nón đi câu, nơm cá. Siêng thì ngăn ruộng tát đìa, biếng thì câu cắm để cả đêm. Ngày nào chú cũng kiếm lưng nửa giỏ cá lớn cá nhỏ lôm côm. Cá lớn đem về bỏ rơm vùi vào cà ràng lửa, cá nhỏ để nguyên nướng. Nước mắm không, chọt vào trái ớt, chấm rau mớp nhúng hèm (nước bã nấu rượu), rau hẹ (một thứ rau cọng như lá cỏ sống dưới nước) chấm mắm đậu ăn mát cả ruột gan. Rau sống đủ thứ mượt mà được trồng trên gian hành (một thứ gian bếp hư dùng để trồng rau trên cao để tránh gà bươi phá) cuốn bánh tráng cá nướng. Lại còn có món bánh đập (bánh tráng nướng bao ngoài bằng bánh tráng ướt mới ra lò) cuốn cá ăn hoài không biết chán. Rảnh rỗi hai chú cháu lại đi đào dế cơm về khoét ruột nhét hạt đậu phộng vào chiên ăn. Cá lia thia thỉnh thoảng len lỏi trong mương ruộng chú cháu bắt về nuôi. Đá cá, đá dế ăn kí đầu hoặc quẹt lọ nghẹ, bẻ gốc mía xướt nhai nghe lộp rộp, đào khoai mì, nấu nước dừa, bóp khoai trộn mỡ phi hành, đâm đậu phộng rang bỏ lên mặt cuốn bánh tráng rau sống ăn thay cơm lúc hết gạo. Các thứ trái cây mộc mạc thì không thiếu, hết nhãn lồng trái mắm, thì hái trái mây, trái trường màu đỏ đẹp mã nhưng ăn chua lét cũng qua cơn thèm. Nhiều bữa hai chú cháu đi cả ngày trưa không về, giở sẵn mo cơm ém cứng, cùng câu cá xong rồi kiếm bóng cây bên bờ ruộng, trải rơm nằm ngửa nhìn lên khung trời thăm thẳm nghe tiếng cuốc kêu khắc khoải, gió đồng hây hây đưa cả hai vào giấc mơ màng nghĩ chuyện đâu đâu. Tôi lại nhớ về những ngày cũ có đủ cha mẹ, có ông ngoại đôi mắt mù lòa vô cùng thương cháu. Ông chú nằm bên mà tôi ngỡ vòng tay cha ấm áp, nghe hơi thở cha nồng nàn bên tai, vui không kể xiết nhưng khi tỉnh dậy thấy buồn não ruột. Tôi cau có đòi về mặc cho chú Út theo dỗ dành.
Cảnh quê.
Đến năm 1947, mẹ tôi đi bước nữa với cha dượng tôi. Cả nhà dắt díu về quận Phú Nhuận ở tạm.
Phú Nhuận, một xã nhỏ ở quận Tân Bình những năm đó đất không chật người không đông. Nằm giáp Bình Hòa và Thạnh Mỹ (thuộc quận Tân Bình, tỉnh Gia Định), Phú Nhuận với những hàng cây dầu cây sao rợp mát và những khu đất thênh thang. Đường Trần Huy Liệu lúc bấy giờ là đường Trương Tấn Bửu chễm chệ một sân cỏ rộng mênh mông mà chúng tôi vẫn thường xuyên đến đá banh và tha hồ chạy nhảy. Khu cư xá Chu Mạnh Trinh do chiến tranh còn để lại dấu tích những căn nhà cháy nham nhở đổ nát. Khu Nguyễn Trọng Tuyển dọc phường 8 ngày nay rợp bóng giàn che cải xà-lách-son xanh mát mắt của người Tiều. Khu Ong Mật (nay là Công ty Ong mật) là một nghĩa địa rộng mênh mông mà mỗi chiều sau khi đi học về tôi cùng đám bạn thường nắm chặt tay nhau khi nhìn những ngôi mộ ẩn hiện dưới trời chập choạng. Khu chợ Ga phường 9 bát ngát không kém với bãi cỏ cao mà mỗi lần có lễ lạt là mấy anh lính Tây tổ chức cho leo cây thoa mỡ bò trộn lọ nghẹ… Những dịp như thế dù còn nhỏ, tôi cảm thấy khó chịu khi nhìn những gói quà treo lủng lẳng trên cao, các anh lớn hớn hở leo lên, người nào có cố gắng lắm mới đến hơn nửa chừng rồi tụt xuống, mình trần loang mỡ, những vết lọ chảo đen sì vằn vện khắp mình. Chẳng ai được gì ngoài những tràng cười của bàn dân thiên hạ bao quanh những tên Tây thực dân khoái chí rung đùi ngất ngưởng.
Cả gia đình ở đậu một căn phố cũ kỹ vách ván xiêu vẹo, mái ngói dọi trứng gà loang loáng trong hẻm nhỏ sau nhà thờ Nam. Chủ nhà vì vào thế bắt buộc phải giúp đỡ gia đình bà ngoại tôi nhưng rất khó chịu dù có trả tiền thuê nhà. Tuy đã cố thu mình lại, cả nhà không tránh khỏi lời ong tiếng ve cùng nỗi bực mình của gia chủ nên từ chiếc tủ thờ, bộ ván gõ, cái giường mang theo đều phải tháo rời cho vào xó bếp. Đêm đêm bà cháu nằm co quắp trên chiếc chiếu trải dưới sân gạch ngoài. Cả nhà tạm yên, ba dượng của tôi về Biên Hòa dạy học, để bà ngoại ở lại lo cho mọi người. Bà ngoại bày ra làm đầu thảo hụi để kiếm chút tiền tiêu xài.
Tôi đến tuổi đi học. Ngôi trường chỉ là mấy gian nhà ngói cũ kỹ ọp ẹp, chi nhánh của trường Võ Tánh (trường Trung Nhất bấy giờ) nhưng đối với tôi thật cuốn hút. Ngày tựu trường nghiêm chỉnh xếp hàng vào lớp, tôi vui sướng hơn rất nhiều mấy đứa bạn sợ sệt chung quanh. Học xong buổi sáng tưởng chiều được học tiếp nên tôi lại đến trường vào buổi chiều, vào lớp mới thấy toàn những gương mặt lạ, đã vậy còn bị thầy Đốc phụ đá cho mấy cái nên thân. Tôi phụng phịu ra về, giận không thèm đi học nữa. Báo hại bà ngoại phải dắt vào lớp gởi cho cô giáo.
Cuối năm đó cậu Tư về. Chưa biết mặt cậu, nhưng đang tắm sau nhà, tôi tồng ngồng chạy lên, nhảy vào lòng cậu. Cậu là em ruột của mẹ, lúc đó chỉ mới hơn hai mươi tuổi, dong dỏng cao, mày rậm, mắt sáng. Thiếu hơi ấm của cha, cậu là người đàn ông vững chãi mà tôi thật vui khi gần gũi. Cậu vừa được tha sau mấy năm làm cách mạng bị tù đày ở Cẩm Giang, Tây Ninh và được thả ra vì thiếu chứng cớ buộc tội. Cậu dẫn theo một người đàn bà gọi là đồng chí, hớt tóc bum bê, sau này là mợ tôi. Nhà thêm người mới, ngoại vui hơn một chút nhưng người chủ nhà trọ bắt đầu bất mãn ra mặt và yêu cầu chúng tôi dọn đi nơi khác.
Cho đến một đêm mưa vừa tạnh, bất chợt nghe tiếng ễnh ương kêu inh ỏi, cậu đột nhiên vùng dậy. Sau nhà lúc đó là chiếc ao tù quanh năm nước đọng đầy ứ loăng quăng, ruồi muỗi, ếch nhái ễnh ương. Sáng dậy, cậu Tư suy nghĩ lung lắm. Cậu thầm thì với bà ngoại điều gì đó quan trọng và ngoại gật đầu liên tục. Cậu mặc áo ra đi, tìm chủ đất là bà Huỳnh Thị Ngà, hiệu trưởng một trường trung học có tiếng. Cậu xin bà lấp cái ao để san nền, xây một cái nhà và trả tiền thuê đất cho bà. Bà Ngà vui vẻ chấp thuận.
Việc thuận lợi như vậy nhưng việc san nền không đơn giản vì nó chỉ là một vũng nước sâu. Cậu Tư có nhiều đồng chí cùng hoàn cảnh vừa mới ở trại ra nên lập tức huy động đến phụ giúp đắp nền, xây nhà. Mợ Tư tương lai cũng đến lo cơm nước. Mỗi ngày họ xúm nhau cuốc đất, san vũng. Không bao lâu một nền nhà đã hình thành, trông cũng tươm tất. Đất móc lên sau nhà lại thành một cái hầm, những đêm mưa tối trời ếch cóc ễnh ương lại xúm nhau tấu nhạc nhưng bây giờ những kẻ tha hương không bận tâm nữa. Xong nền là xây nhà. Một tháng sau ngôi nhà tranh tươm tất hiện ra trước mắt cả nhà ngoài sức tưởng tượng. Có hàng rào bao quanh với dàn tigôn do dì Út gieo bắt đầu đơm nụ. Có phòng khách, buồng ngủ, có chái bếp bên nhà với nồi đồng được lau sáng bóng. Di ảnh ông ngoại ngồi chễm chệ trên chiếc tủ thờ được đặt ở vị trí trang trọng nhất là phòng khách ngó ra đường sau mấy năm để bụi bám nhện giăng. Bộ ván gõ cũ hàng năm sáu chục năm được ráp lại nằm bóng loáng trên nhà trước. Chúng tôi đã có nhà có cửa hẳn hoi trên vùng đất mới Phú Nhuận.
Năm 1952, năm Nhâm Thìn, một trận bão khủng khiếp tràn vào Saigon, Biên Hòa và mấy tỉnh lân cận. Lần đầu tiên trong đời và có lẽ duy nhất gia đình tôi và rất nhiều người miền Nam biết thế nào là bão. Gió gào rú suốt đêm, mưa xối xả sầm sập kéo đến. Lúc đó cả nhà ngoại còn lợp lá nên thật là kinh khủng. May là cậu Tư và đám bạn sinh hoạt buổi tối khi cơn bão kéo đến nên không về được, họ ở lại giúp chống bão. Tiếng cây gãy đổ răng rắc, tiếng gió gào ầm ĩ khiến cả nhà lo lắng. Cậu Tư phân phát cho mỗi người trong nhà một cây chống bằng gỗ, tre có sẵn trong nhà, bất cứ cây gì có thể chống được lên mái nhà. Qua một đêm kinh khủng, trận bão kết thúc buổi sáng hôm sau. Ngoài đường giao thông ách tắc vì hàng me, cây sao, cột điện gãy ngã ngổn ngang, nhà sập khá nhiều. Không hiểu sao nhà ngoại không sập cũng lạ, chỉ bị trốc một vài hàng mái lá, nước thụt vào nhà ướt đẫm hết mọi thứ đồ đạc. Bữa đó tôi và lũ bạn khoái quá hò reo ầm ĩ vì được một ngày nghỉ học. Trận lụt đó, lớp học của ba trên Biên Hòa (mở ra dạy sau khi nghỉ dệt) bị nước ngập tới nóc nhà, bàn ghế trôi đi mất theo cơn lũ và thế là ba giải nghệ luôn.
Năm sau mẹ sanh em Dung, ba về ở nhà thường xuyên. Nhân dịp này, ba sắm được một cây đèn măng-xông nên nhà sáng sủa hẳn. Em Dung có tật khóc đêm, ngoại bảo đó là khóc dạ đề. Cả nhà vất vả vô cùng. Tối đến là Dung bắt đầu khóc vang cả nhà, khóc đến khuya. Mẹ phải giăng võng trong mùng đưa và dỗ suốt đêm nhưng vô hiệu lực. Năm đó chiến sự vẫn tiếp diễn, lính lê dương được tăng cường đầy dẫy khắp Sài Gòn. Tối cứ đến tám giờ là giới nghiêm, ai ra đường không có lý do báo trước hoặc thấy bóng là bắn. Ai có việc bệnh hoạn sinh nở cần di chuyển phải cầm đèn bão đi theo, xét đúng mới cho đi. Dung lại hay nóng sốt ban đêm, mẹ thường hay dùng khăn thấm giấm đánh lưng cho hạ nhiệt. Một đêm đã khuya, trán Dung nóng quá, mẹ rầu rĩ nói phải chi có được lá trầu về đánh lưng cho em hạ sốt. Hôm đó, ba dượng của tôi và cậu Tư lại đi vắng mấy hôm trước. Nhà cách vườn trầu chỉ khoảng năm chục mét nhưng đi qua khoảng sân trống không phải là chuyện dễ dàng. Cái lô cốt có lính lê dương gác sừng sững trước mặt hễ thấy bóng người là bắn ngay lập tức. Thương em và thương cả mẹ, tôi quyết định đi hái lá trầu. Chui ra khỏi nhà, tôi lơ luôn tiếng gọi giật của mẹ, cúi xuống bò chầm chậm trong đêm tối. Vài mét đầu, thấy mình thật hăm hở dù tim đang đập thình thịch. Những bước sau là khoảng thời gian đằng đẵng, năm chục mét đất trong vườn như dài dằng dặc, tưởng chừng sẽ có một phát súng và mình ngã lăn ra, bỏ mẹ và đứa em thơ. Ác liệt là đêm đó lại có trăng sáng. Tôi vừa bò vừa van vái vong hồn cha phù hộ cho đến khi đụng cây trầu, hái vội nắm lá rồi bò về. Trong đêm khuya, suốt cuộc hành trình kỳ dị đó, tôi thấy rõ cảm giác cô đơn lạ thường, chỉ mỗi mình đối diện với sống chết.
Mấy lá trầu mang về đã giúp hạ nhiệt cho em. Sau đêm đó, tôi thấy mình lớn lên và cảm thấy mẹ có thể dựa vào đôi tay bé nhỏ này lúc cần thiết...”