Năm mươi năm đồng bạc của đời tôi
Ký ức của Ngọa Long
(Giai phẩm Xuân Đuốc Nhà Nam Tết Tân Hợi 1971)
Nói đến đồng bạc Việt Nam, mà đúng hơn là hồi nó còn được gọi là đồng bạc Đông Dương, tôi không thể nhớ là tôi được biết nó vào lúc nào, có thể là sau khi tôi ra đời lâu lắm…
Vì kể từ khi tôi lên bảy lên tám, nghĩa là bắt đầu ngày tôi có được chút trí khôn và trí nhớ, tức vào cuối Đệ nhứt Thế chiến (1914-18) thì đồng bạc đối với tôi hãy còn là một vật vô cùng quí báu, xa lạ mà tôi chưa hề “có quyền” biết tới.
Ngày tôi bắt đầu cặp sách đến trường thì xứ sở hãy còn xài đồng điếu, đây là loại đồng điếu bằng thau, có hình tròn bằng đồng bạc bây giờ (1970) và chính giữa có khoét lỗ vuông.
Tôi không được biết nhà cầm quyền Pháp cho ra loại đồng điếu thau nầy vào lúc nào - năm nào - nhưng được biết là Tây cho ra loại đồng điếu nầy để thay vào cho loại đồng điếu của Việt Nam (của Nam triều thì đúng hơn) vì loại đồng điếu Việt Nam, cũng kêu là “đồng hoẻn” đã bắt đầu hết xài.
Đồng hoẻn của ta hồi ấy đúc bằng một loại chì non, dường như chính nó được gọi là “tiền Gia Long”, nó có công dụng mua chác vừa để đo lường. Ví dụ, người ta dùng nó để mua 50 tiền muối, tức 50 đồng điếu muối, thì cứ lấy 50 đồng tiền đem cân với muối mà bán ra, theo thời giá.
Do đó mà “đồng hoẻn” cũng được coi như một loại “trái cân” và hạng người tham lam, gian manh, lại thường đem mài đồng hoẻn cho mỏng bớt đi để… lường cân trao đấu.
Tuy nhiên, cũng không phải vì vậy mà Tây cho ra loại đồng điếu bằng thau nhằm mục đích tránh sự gian lận ấy. Sở dĩ có thay đổi tiền tệ là do liên quan chánh trị, vì là bắt đầu nhà cầm quyền Pháp bắt buộc dân ta phải xài đồng tiền của họ.
Tại sao gọi “đồng bạc con cò”:
Tôi cũng không rành lắm về việc người Pháp cho ra đồng bạc Đông Dương, cũng kêu là đồng bạc “đầu hình” hay đồng bạc “con cò” từ năm nào. Chỉ được biết đồng bạc ấy khá to lớn và cân nặng 27 gơ-ram bạc, với một mặt chữ có chữ và số và mặt hình có hình bà Marianne, do đó người ta gọi là đồng bạc “đầu hình”.
Cũng gọi là đồng bạc “con cò” vì hình Marianne đó cũng được in vào tem thơ và tờ giấy con niêm mà người miền Nam quen gọi con tem là “con cò” và khi thấy đồng bạc có hình Marianne y như hình con cò (tem thơ) nên người ta cũng gọi nó là đồng bạc “con cò”.
Đồng bạc 27 gơ-ram cũng là đồng bạc để “dằn kho” vì ít lưu dụng, để nặng nề bất tiện, nên thay vào đó có đồng bạc giấy, tức giấy bạc một đồng, cũng có hình bà Marianne nên vẫn được gọi là đồng bạc “con cò” luôn.
Bằng cớ là từ đó có cái câu ca dao:
Cưới em quan tám tiền cheo
Quan năm tiền sính lại đèo buồng cau.
Cũng được đổi lại theo thời, qua những câu hát, câu hò đại khái:
Cưới em bằng bạc con cò
Đâu phải hẹn hò nói chuyện đẩy đưa.
Hoặc giả:
Lễ cheo bằng bạc con cò
Cưới em cho được về lo gia đình.
Cái giá trị của đồng bạc “con cò” bắt đầu đi vào trong dân gian, kể từ ngày ấy mà… tôi cũng không còn nhớ là ngày nào. Tôi cũng chưa hân hạnh được thấy mặt, chớ đừng nói là có dịp “bỏ túi” nó cho đến ngày hoàn toàn khôn lớn.
Nhưng trên đây là một luận cứ, ngoài ra về sau nầy tôi còn có dịp được xem một đồng bạc loại 27 gơ-ram có hình con cò, nguyên một con cò với cổ rất dài tượng trưng của những xứ giàu về nông nghiệp.
Đồng bạc con cò nầy tôi được ngó thấy trong bộ sưu tầm của một nhà hiếu cổ và tôi chỉ được cho xem sơ qua chớ không có thì giờ nghiên cứu, về xuất xứ và nó được phát hành lúc nào.
Rất có thể đây là đồng bạc đầu tiên được phát hành ở Đông Dương và chỉ với số rất ít, sau đó thì loại đồng bạc đầu hình Marianne ra đời, loại con cò được thâu hồi.
Tuy nhiên, đây cũng là luận cứ, nếu không nói là một bằng cớ về lai lịch của đồng bạc ĐD. Được gọi là đồng bạc con cò.
Từ đồng Điếu đến đồng Xu:
Ngày còn cặp sách đến trường, tôi còn xài đồng điếu (thứ bằng thau) nó được trị giá 1 phần 5 của đồng xu. Một đồng xu là 1 phần 100 của đồng bạc “con cò” có bốn chữ nho đề rõ ràng là “Nhứt phân chi bách”.
Đồng xu được đúc bằng đồng vỏ cua, loại đồng đỏ có pha, cũng không biết ra đời năm nào, nhưng trước đó là loại đồng xu, không có lỗ, người ta cũng quen gọi là “đồng bảng”; kế đó mới tới loại đồng xu có lỗ tròn, thứ nặng, được gọi là đồng xu dầy và sau đó đồng xu mới được hạn chế, nhẹ bớt lại và gọi là xu nhỏ.
Đồng xu nhỏ mà tôi bắt đầu được biết thấy có ghi năm phát hành: 1908 rồi 1909. Không thấy có đồng xu phát hành năm 1910, chẳng hiểu tại sao. Tiếp theo đó, mỗi năm đều có phát hành đồng xu mới, 1911, 1912, 1913 đến 1914 thì bặt vì… Đệ nhứt Thế chiến nổ bùng. Nhưng từ năm 1916 thì đồng xu mới đã thấy có phát hành lai rai cho đến 1920.
Giá trị của đồng xu:
Nếu đồng bạc lúc bấy giờ đã có một giá trị quá lớn, thì đồng xu cũng có giá trị của nó. Với một đồng xu người ta có thể đi được một “ga” xe lửa từ hai đến ba cây số ngàn. Với một đồng xu, người ta ăn được một chén cơm, mua được một cái hộp quẹt (loại sản xuất ở Bến Thủy, Hanoi) hoặc hai điếu thuốc Tây.
Với hai đồng xu, ăn được một chén cơm lớn hay một cái bánh bao (thứ “tài báo”), với ba đồng xu ăn được một tô mì (thứ một vắt) sánh với bây giờ (1970) là tô mì giá 40 đồng.
Hồi đó cũng có danh từ thông thường gọi hai xu là một tiền, ba xu là tiền rưỡi (cũng gọi là tiền rưỡi xu), bốn xu là hai tiền, 5 xu là hai tiền rưỡi, 6 xu là ba tiền, đến năm tiền là một “cắc”.
Một cắc thì có đồng một cắc bằng bạc và nhỏ bằng đồng điếu, và vẫn có hình bà Marianne. Đồng một cắc là 1 phần 10 của đồng một đồng tức đồng bạc “con cò”. Ngoài ra còn có đồng hai cắc cũng kêu là đồng một quan. Trước 1918 chưa có phát hành loại đồng năm cắc mà chỉ có các thứ đồng vừa kể trên.
Về các loại bạc giấy
Riêng về bạc giấy hay giấy bạc thì lúc bấy giờ, trên hết là giấy một trăm cũng kêu là “giấy bộ lư” vì có in hình bộ lư, tờ giấy khá to lớn, gần như cái bằng cấp, in màu sépia có pha đỏ nhiều.
Kế đó là tờ giấy hai chục, chưa có giấy 50 và giấy 10 đồng và dưới đó là giấy năm đồng.
Điều nên ghi chú thêm là tờ giấy hai chục lúc bây giờ có hình con rồng, màu xanh, nên cũng được gọi là giấy “con rồng”, sánh với tờ giấy bạc năm đồng cùng màu xanh và có hình con công, nên cũng được gọi là giấy “con công”.
Trong dân gian lúc bấy giờ, giới tiêu thụ mạnh là giới ăn chơi, cờ bạc thì thường các tay nào bảnh lắm là xài giấy “con công” là hào hoa, vung vít, công tử bột lắm rồi.
Hạng xài giấy “bộ lư” ít lắm, chỉ trừ một vài cậu công tử Bạc Liêu, còn giấy “con rồng” cũng vắng mặt ở lưu hành. Vì tờ giấy “con rồng” (20 đồng) thuở ấy có một khuôn khổ rất vừa với hộp bánh Biscuit, một loại hộp bánh bằng thiếc có nắp đậy rất kín đáo.
Hầu hết các tay nhà giàu trong xứ và hạng người dư ăn dư để thì nhà nào cũng có một vài hộp Biscuit đựng… giấy “con rồng” nầy. Đó là số tiền để dành, thay vì đem gởi ngân hàng và hồi đó việc gởi tiền ngân hàng còn phiền phức, đòi hỏi nhiều thủ tục khó khăn.
Nên phần đông người có dư tiền đều cất vào hộp Biscuit, có nhà kỹ hơn, lại đem bỏ nó vào trong khạp rồi đem chôn, cho chắc ý nữa.
Một hộp Biscuit mà đựng đầy nhóc giấy “con rồng” có thể là…, một, hai ngàn đồng, mà giá một hai ngàn đồng thời bấy giờ là cả một gia tài, sự nghiệp và đây là bằng cớ chứng minh cho cái giá trị của tờ giấy bạc, để có thể đưa tới kết luận là tờ giấy bạc “con rồng” trước 1935 vẫn được thiết tha, yêu quý hơn tờ giấy có hình ông… Trần Hưng Đạo 1970, thời gian chỉ cách nhau có độ 35 năm, nhưng giá trị của đồng bạc đã sai biệt gần một trời một vực.
Suốt quãng đời học trò của tôi, tôi chỉ được xài đồng xu và cắc bạc, chớ không bao giờ đã hân hạnh làm chủ được “con cò”, vì đồng bạc bây giờ còn giá trị ở trên cao lắm, con nít chưa ai rớ tới.
Đồng bạc thuở ấy là cả một ngày lương của hàng Đốc phủ sứ, vì người thợ chuyên môn hồi nầy chỉ lãnh được 7 hoặc 8 cắc một ngày là trên thiên hạ rồi.
Trái phiếu 50 đồng:
Cái thời vàng son của tờ giấy một trăm kêu là “giấy xăng” bộ lư và đồng bạc con cò ấy kéo dài, nếu không muốn nói là ngự trị trên toàn cõi Đông Dương cho đến ngày con đường xe lửa “Xuyên Việt” thành hình.
Hồi ấy, để thực hiện cái công trình vĩ đại nầy, tức con thiết lộ nối liền Hanoi với Saigon, nhà cầm quyền Pháp phải đi vay tiền của dân chúng bằng cách bán “Trái phiếu” cũng gọi là Quốc trái.
Dân chúng đã sẵn sàng đóng góp vào công cuộc xây dựng con đường Hỏa xa khổng lồ nầy bằng cách mua Trái phiếu – tức cho Nhà nước vay tiền – với giá mỗi Trái phiếu là: 50 đồng. Nghĩa là..., vẫn chưa quá nửa cái giá của một tô phở năm 1970.
Cho mãi đến năm 1925, hàng vương tôn công tử ở xứ này, may mặc một bộ “tuýt-xo-ăng-lê” thứ “tuýt xo” hảo hạng mà ngày nay không còn, với giá tiền hàng cả tiền công chỉ độ 2 đồng rưỡi bạc, nhưng… đừng ai tưởng rằng, giá sanh hoạt hồi ấy quá rẻ rề mà sự thật trái lại, đó là chứng minh cho giá trị của đồng bạc “con cò”, vì ngày nay người ta có thể bỏ ra 25 ngàn đồng vẫn không sắm nổi bộ “com lê” “tuýt xo” đó.
Chắc có người sẽ phải lấy làm khó chịu khi thấy tôi đem so sánh cái giá hai đồng rưỡi bạc “con cò” với cái giá 25 ngàn đồng bạc 1970 mà cho là quá đáng, nhưng đó là một sự thật không cãi chối.
Vả lại, đồng bạc “con cò” đã phải trải qua 2 cuộc Thế chiến và một kỳ kinh tế khủng hoảng khắp toàn cầu kéo dài từ 1930 đến 1939. Nhưng “nó” vẫn giữ vững được cái giá trị của nó, lại là điều đáng nói và… tại sao?
Kể ra thì trong quãng những thời gian khó khăn nầy nhà cầm quyền Pháp cũng có lạm phát và một lần phá giá đồng bạc Đông Dương.
Lạm phát bằng cách nào?
Đến đồng “năm cắc” và đồng “nửa xu”
Vào khoảng năm 1930 bắt đầu ngó thấy cái màng màng của một tình hình kinh tế khủng hoảng.
Nhưng lạm phát ở đây để giữ vững giá trị đồng bạc và đồng thời cũng là để cầm giá sinh hoạt ở một mức thấp, thay vì để cho nó gia tăng.
Cho nên, đáng lẽ cho in thêm giấy bạc các loại: 100 đồng, 20 đồng, 5 đồng, và 1 đồng thì lúc bây giờ nhà cầm quyền Pháp lại cho ra loại năm cắc, tức lạm phát “nửa đồng” thôi.
Tuy nhiên, cho ra loại đồng năm cắc, theo các nhà chuyên môn thì đó cũng là một cách phá giá đồng bạc hết 50 phần 100, song le, tình trạng phá giá này ít ai để ý, bởi vì vật giá lúc đó cũng theo cái giá của đồng năm cắc mà hạ xuống, sự mắc mỏ không ngó thấy, với đồng năm cắc người ta vẫn mua sắm phủ phê, trong lúc giá trị của đồng bạc đứng vững và đồng lương của các giới không thay đổi.
Ngoài ra, để quyết lôi kéo vật giá xuống thấp, nhà cầm quyền Pháp lúc này còn có cho ra thêm hai loại tiền tệ, đó là loại đồng năm xu và đồng nửa xu (1/2 cent) thay vì phải “lạm phát” thêm đồng một cắc và đồng một xu.
Ngoài đồng năm cắc và đồng nửa xu, nhà cầm quyền Pháp còn có cho ra thêm, vô số, các loại giấy bạc, thứ giấy năm cắc, hai cắc và một cắc và cũng là hình thức lạm phát nhưng lạm phát ở hạ tầng cơ sở, trái lại, giá trị của đồng bạc, đối nội và đối ngoại vẫn giữ vững.
Rốt cuộc rồi, các nhà kinh tế lý tài có xoay xở cách nào, đến năm 1934 sang năm 1935 là thời kỳ kinh tế khủng hoảng trầm trọng đến “hết thuốc chữa” nên rồi đồng bạc cũng phải chịu phép… rửa tội, để phá giá. Từ một đồng bạc 27 gơ-ram đổi ra đồng bạc mới nhỏ hơn và nhẹ hơn, chỉ còn đúng 20 gơ-ram, đó là giá trị quốc tế của nó.
Thế là đồng bạc bị phá giá, nhưng phá giá cái kiểu này thì chỉ có hạng tư bản, lý tài, kinh doanh, đại thương gia và đại địa chủ kêu là thiệt hại mà thôi.
Chớ đối với đại đa số dân chúng hầu hết là dân làm mướn ăn lương và dân nghèo thì đồng bạc 27 gơ-ram hay đồng bạc 20 gơ-ram đối với họ cũng chỉ là đồng bạc ăn 10 cắc và 100 xu, như không có thay đổi gì hết.
Trái lại, hạng tư bản, đại thương gia, đồng bạc của họ có dùng mua bán ra các nước ngoài, nay bị phá giá họ sẽ bị thiệt thòi nên Saigon mới xảy ra cuộc biểu tình phản đối.
Đây là cuộc biểu tình có thể nói là “vô tiền khoáng hậu” trong lịch sử Đông Dương vì là một cuộc biểu tình do… phe tư bản tổ chức, đa số là người Pháp trại chủ các đồn điền.
Mỉa mai nhứt là người cầm đầu cuộc biểu tình phản đối nầy lại là ông Gannay, Giám đốc Đông Dương ngân hàng (Banque de l’indochine) và để làm coi cho được, họ có kéo theo một thiểu số đại địa chủ và thương gia Việt Nam.
Tôi còn nhớ, một sáng sớm, đoàn biểu tình nầy ồ ạt xuất phát từ Phòng Thương mãi (Chambre de Commerce) và bây giờ là trụ sở Thượng Viện kéo qua trước Đông Dương ngân hàng đến đầu đường Charner (bây giờ là Nguyễn Huệ) để kéo trở lên Dinh Xã Tây (Tòa Đô Chánh) diễn thuyết, đưa kiến nghị.
Tôi không còn nhớ hết các khẩu hiệu và biểu ngữ của phe Tư bản Pháp đưa ra để “hoan nghinh đả đảo” trong dịp này. Tôi chỉ nhớ được có mỗi cái biểu ngữ của “phe ta” (dân tư bản bổn xứ) với một cái “băng-đơ-rôn” dài, hai đầu có vẽ hình hai đồng bạc, một bên là đồng 27 gơ-ram và một bên là đồng 20 gơ-ram, ở giữa có hàng chữ:
“Anh đi đàng anh, tôi đàng tôi”.
Thấy cái biểu ngữ này, hồi đó có mấy thằng nhà báo An-nam kêu ngạo, cho rằng họ biểu tình đồng bạc bị phá giá mà mình tưởng đâu là đám ma của… Thế Lữ chớ!
Nhưng rồi cuộc biểu tình cũng không làm cho nhà cầm quyền Pháp phải biết ngán, nên sau đó, trong một phiên nhóm của Hội đồng Quản hạt, Thống đốc Cognacq đã đứng ra bênh vực cho bộ Thuộc địa, nói lên câu lịch sử nầy:
“Les chiens aboient, la caravane passe”. Nghĩa là “mặc chó sủa đoàn lữ hành cứ đi”, thế là đồng bạc Đông Dương vẫn bị phá giá tuốt.
Đến giấy 50 và đồng 500 ra đời
Sau khi “đồng bạc mới” (20 gơ-ram) ra đời, dĩ nhiên nhà cầm quyền có nhơn dịp nầy cho in lại giấy một đồng mới, một cách lạm phát, tức in nhiều hơn số “bạc đồng” dằn kho: nhưng cũng không trang trải nổi tình thế, nên sau đó mới có thêm loại giấy bạc mười đồng ra đời.
Cho đến năm 1939 bắt đầu Đức quốc xã tấn công vào nước Pháp và mở màn Đệ nhị Thế chiến, thì mới có thêm hai loại giấy bạc nữa, đó là loại giấy năm trăm đồng và giấy 50 đồng. Tôi không nhớ rõ hai loại giấy này phát hành vào năm nào, một phần vì…, sau đó lâu lắm, tôi mới hân hạnh biết mặt loại giấy bạc nầy.
Rồi tới cuộc “bạo hành” ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhựt Bổn lật đổ chánh quyền Pháp ở Đông Dương, bây giờ họ lại tung ra - để khỏi phải dùng đến danh tự “lạm phát” nữa – hằng hà sa số tờ giấy 500, cũng kêu là loại giấy 500 đồng Nhựt Bổn.
Tiền tệ của Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng đã đi vào thời kỳ hỗn loạn, cho đến khi Nhựt đầu hàng, Việt Minh lên cướp Chánh quyền rồi… Tây trở lại. Đất nước qua bao nhiêu lần thay đổi chủ, nhưng cũng còn có được một điều may mắn là đồng bạc vẫn chưa đến đỗi mất giá căn bản của nó.
Nghĩa là trải qua thời kỳ Quốc trưởng Bảo Đại cho đến 1953 bị Ngô Đình truất phế và thành lập Đệ nhứt Cộng hòa, “đồng bạc Đông Dương” bây giờ là đồng bạc Việt Nam, vẫn còn ăn… được 10 tô hủ tiếu, hút được một gói thuốc “bao xanh” hay uống được một chai “la ve” và cái giá trị của đồng bạc nầy giữ vững đến năm 1963.
Như trên đã kể, đó là đồng bạc mà tôi được biết qua… bán thế kỷ, nghĩa là trong suốt một quãng đời dài ngót 50 năm từ đầu Đệ nhứt Thế chiến (1914) đến cuối Đệ nhứt Cộng hòa (1963). Tuy trải qua bao nhiêu lần đổi chủ thay triều, kinh tế khó khăn và mặc dầu nó đã mất giá trị gần 300 phần 100 (sánh với 3 xu một tô mì 1914 và 10 đồng bạc một chai la ve 1963) nhưng…
Đồng bạc đối với tôi vẫn được coi là “huyết mạch”, là một vật gì rất mắc mỏ khó kiếm chớ… nó không đến quá rẻ như ngày nay, phải có tới 90 đồng bạc ấy mới ăn được một tô phở, cái thứ tô phở mà ông Tổng Ngọc đã bảo… nhìn vào nó để sẽ biết được tình trạng kinh tế hiện ra làm sao.
Nhớ lại Tết “kinh tế” năm xưa (trích)Tế Xuyên
(Giai phẩm Xuân Đuốc Nhà Nam Tết Tân Hợi 1971)
Năm ấy là năm 1932, suốt cả năm tôi đã từng thấy cả dãy phố đường Hàm Nghi (hồi ấy gọi là Boulevard de la Somme) – đường Tự Do (Catinat) [13] – đường Tạ Thu Thâu (Sabourain) hầu hết bỏ trống khóa cửa, chỉ vài căn có người mướn. Chợ Bến Thành buôn bán ế ẩm. Một con vịt quay treo tòn ten ở quán thịt bán có 6 xu một con nhỏ, 8 xu con lớn. Thỉnh thoảng cao hứng bà xã của tôi xách một con về cho gia đình ăn một bữa, khỏi phải nấu nướng, làm món ăn mất công. Gạo thì bốn cắc một giạ mà lại là thứ gạo nấu cơm mềm dẻo, thơm phức ngày nay nhớ lại mà thèm...
Những kẻ thất nghiệp dám mướn phố lầu mà ở. Những căn phố ở khu trung tâm, gần chợ Saigon. Chúng tôi đã có một “phép mầu nhiệm” để ở khỏi tốn tiền: chỉ xoay đủ tiền trả tiền phố tháng đầu rồi từ tháng sau không trả tiếp nữa, ở lì luôn cả năm. Khi người thâu tiền phố đến đưa biên lai thâu tiền thì chỉ cười trừ. Tiền đâu mà trả, người thâu tiền cũng thông cảm vì hoàn cảnh của thầy ta chắc cũng không hơn gì mình.
Có khi ngượng quá thì lánh mặt, cho vợ con “đại diện” mà trả lời rằng: “Tháng này túng quá, thôi để tháng sau trả luôn thể”. Tháng sau? Rồi tháng sau nữa… kéo dài cả mười tháng, mười hai tháng như vậy. Thầy thâu tiền thét rồi thối chí, sau hai ba lần sẽ không đến nữa, báo cáo cho chủ đối phó.
Đối phó cách gì? Nhiều lắm là đưa ra tòa xin trục xuất thôi vì người mướn phố không có một món đồ gì đáng giá để tịch thâu. Kẻ nghèo chỉ có vỏn vẹn một cái ghế bố để ngủ và một cái rương hay cái va li cũ kỹ đựng ba bộ quần áo rẻ tiền.
Cái lối mướn phố “luân chuyển” đã thành “lối ở” của dân nghèo: ở căn này một thời gian rồi lại ở đến căn kia, trả tiền phố có một tháng mà ở đến một năm hay tám tháng, ít lắm cũng sáu tháng.
Đi ngoài đường thấy vắng vẻ buồn hiu. Những căn phố đóng cửa im lìm. Những căn phố chết… Saigon là một thành phố chết, hay đang hấp hối. Nạn thất nghiệp tràn lan, kiếm được một việc làm là cả một cái may mắn như trúng “số đuôi”. Công chức, tư chức có “sở mần” rồi thì cố mà giữ lấy, cố chiều chuộng ông “sếp” để khỏi bể nồi gạo.
Lao động lại càng cực khổ hơn vì phải đổ mồ hôi đổi lấy chén cơm manh áo và ít người có lấy một cái gì gọi là “nhà” để ở. Phần nhiều họ “đóng đô” ở ngay hàng ba những căn phố trống. Với tất cả “nồi niêu xoong chảo”, cả “thê tử đùm đề”. Họ sống cố thổ tại đó, vì có ai mướn căn phố ấy đâu. Đêm đến họ bẻ khóa cửa, di cư bớt bầy con vào ngủ trong nhà; sáng đến lại móc khóa vào cửa để khóa hờ, khóa tượng trưng cho người quản lý dãy phố khỏi rầy la.
…
Một ông “bác sĩ kinh tế” ra đời
Trước cơn bịnh kinh tế trầm trọng như đã phác họa trong vài nét đan thanh trên kia, một nhà thầu khoán ở miền Trung đã từng đậu “agent technique” ở trường Công chánh Hanoi, nhảy lên sân khấu với một cái áo trắng dài và cái mũ trắng của bác sĩ. Ông tự xưng là “bác sĩ kinh tế” lên sân khấu một nhà hát ở Phan Thiết, diễn thuyết về nạn kinh tế khủng hoảng và tuyên bố đem tài “kinh bang tế thế” giải quyết nạn đồ thán cho đồng bào.
Nhơn vật ấy là ông Trần Quang An.
Ông còn chạy vào Saigon để kê toa, toan chữa bịnh kinh tế “lủng lẳng” cho toàn dân.
Toa thuốc của ông giản dị lắm: tìm biết đúng nhu cầu hàng tháng của mỗi gia đình (bao nhiêu gạo, bao nhiêu than, bao nhiêu mắm muối tương cà) rồi mua tích trữ trong kho, để phân phối cho từng nhà.
Tóm lại là mua tận gốc, bán tận ngọn, mua gộp lại để có thể trả giá rẻ. Một hình thức “hợp tác xã” nhưng “bác sĩ kinh tế’ gọi là “Entrepots Warrant”.
Ông dùng Saigon làm vật thí điểm. Ông in ra cả mấy vạn tập “câu hỏi” về nhu cầu bếp núc của mỗi gia đình, phát cho từng nhà xin trả lời để ông ước lượng số hàng phải mua trữ trong những “Entrepots Warrant” của ông.
Ông thuê một dãy 24 căn phố trệt ở đường Trịnh Minh Thế (Jean Eudel) [14] , Khánh Hội để làm kho chứa hàng.
Nhưng ông thất bại lớn. Vì người Việt Nam thế hệ trước quen sống với nếp sống cổ truyền “tém vén tương cà” – đâu có hiểu lợi ích của một biện pháp kinh tế xa lạ mà họ còn nghi ngờ là một thủ đoạn gì đây? Toa thuốc kinh tế của “bác sĩ” Trần Quang An chưa kịp cứu dân độ thế đã bị xếp xó, 24 căn nhà phố của ông thuê bị bỏ trống cả năm rồi trả lại cho chủ phố…
Về quê ăn Tết con Trâu (trích)Phóng sự vui như Tết của Trường Bình
(Giai phẩm Xuân báo Điện Tín Tết Quý Sửu 1973)
Tết nhứt mà ở Sài Gòn thì quả thật là không có Tết gì cả. Gần mấy mươi năm biến loạn, chỉ có đồng ruộng, thôn quê mới giữ được cái hương vị đằm thắm của ngày thiêng liêng dân tộc.
Đặc biệt năm nay, trong những ngày cuối tháng Chạp, dân chúng cứ ngẩng lên… trời, trông coi Hòa Bình tới chưa mà sao người ta cứ hẹn như hẹn nợ. Ăn Tết ở miệt vườn, ăn miếng mứt, uống chút rượu, mặc bộ bà ba mới cũng thấy có ý nghĩa.
Ê, khăn đóng tao mới rớt mà sao rã rồi ta?
Tết nhứt ở dưới ruộng, nhà nào cũng mua rượu đế năm ba lít để dành… đãi khách. Trong nhà ba ngày đầu năm mà không có rượu chẳng khác nào “Autobus sans manivelle”. Nhất là chừng năm năm sau này, nghĩa là bắt đầu từ tết Mậu Thân đến giờ, uống rượu đến gần như là cái… đạo. Từ 12 tuổi cho tới già, ai cũng uống được hết.
Người ta uống rượu để quên nhiều thứ lắm như quên thời cuộc rối rắm, quên thằng con đi lính đầu năm bị cấm trại 100 phần trăm em ơi không được về, và đôi khi vào quán, uống để quên… không trả tiền.
Nói vậy, chớ còn bây giờ về ruộng uống rượu đầu năm, mới thấy người ta tổ chức ngon lành lắm.
Có nhiều cách uống rượu… đế. Tất cả các cách đó đều được đặt chung trong bộ luật… nhậu sau đây:
Người cầm nhạo rót ra, được gọi là… ca nhạo.
Theo phép, ca nhạo phải làm trước một ly mới được xây tua. Quyền của ca nhạo là chỉ đâu là ở đó phải có bổn phận uống. Người nào không uống, khai bệnh, như đau bụng nhức đầu, bác sĩ cấm này nọ, gọi là đắp mô, một danh từ hết sức thời sự (?)… nông thôn. Vậy thì uống rượu tới chỗ đắp mô, cản trở lưu thông. Ông ca nhạo phải phá mô, nghĩa là phải uống giùm.
Những người ngồi trong bàn, phải kiểm soát lẫn nhau, nhất là phải coi chừng không cho người bên cạnh… lặn. Luật nhậu gọi là Liên gia kiểm soát. Ai ngồi uống rượu mà người bên cạnh bỏ đi mất thì phải phạt một ly.
Đó là cách thứ nhất, nhưng sôi nổi hơn hết là cách thứ hai. Ban đầu còn chén tạc chén thù, nhậu tới lúc khuya… nhang (kiểu gà cá độ) người ra bày ra trò quay đầu gà.
Con gà xé phay đã được thanh toán từ đầu chỉ duy có cái đầu là chưa ai rớ tới, vì không ai dám lãnh, bởi lẽ, nhất phao câu nhì đầu cánh, ai mà rớ tới thứ đó phải chịu trước một ly.
Chú Năm Đồ khăn be áo dài đi chúc tết thầy Cai, chú được anh em nể mặt là cao thủ… rượu đế từ lâu, do đó sau tuần trà nước, ông Hội đồng Che bắt đầu bày ly nhạo ra bàn tròn. Sắp nhỏ được huy động tối đa để chạy mời hàng xóm. Xóm thầy Cai này có Hội đồng Che là chơi ngọt với anh em nhứt. Cho nên không đầy nửa tiếng, là hàng xóm láng giềng lục tục kéo tới vui vẻ.
Đặc biệt bữa nay cuối năm không ai dám làm… ca nhạo. Do đó, người này “lỳ một lam” thì người bên cạnh “làm một ly”. Chai rượu thứ nhứt cạn. Chai rượu thứ hai đem lên. Hội đồng Che uống rượu đế đựng trong bình rượu chát loại năm lít của Bồ Đào Nha.
Tới chai thứ ba thì mọi người bắt đầu nói chuyện nghe có mùi… hèm. Chú Năm Đồ, khều nhẹ Hội đồng Che:
– Ê, Hội đồng, chú mày cho tao cởi áo dài nghe.
– Thì cởi đi anh Năm.
Chín Hảo đóng đáy bàn vô:
– Nè, thôi không xây tua nữa, tôi đề nghị quay đầu gà.
Cả bàn giơ tay:
– Rồi làm liền đi.
Cái đầu gà, được gắp bỏ vào trong cái dĩa có chén đậy lại. Mấy anh em căn dặn:
Nè nghe chú Năm, mỗi người lắc một cái rồi có quyền xây cái dĩa đi. Chừng nào không ai rờ mó nữa.
Màn quay đầu gà bắt đầu. Ai nấy coi bộ cũng sứa hết rồi.
– Ê, xong chưa, giở nghe ta.
– Rồi, giở đi.
– Chú Năm.
Nhiều tiếng cười khoái trá nổi lên. Năm Đồ làm một ly nghe cái trót rồi úp đầu gà lại. Lại lắc lắc, xoay xoay, mở ra lần nữa…
– Ê, cũng chú Năm bây ơi…
Chú Năm bồi thêm phát nữa.
– Chú Năm nữa ta ơi, chú Năm hên quá.
Năm Đồ làm một ly còn càu nhàu:
– Hên con mẹ họ. Con gà này nó chết rồi mà còn hại tao.
Tới lúc tiệc tàn, chú Năm Đồ vắt áo lên vai về. Bận này chú băng bờ ruộng. Ruộng khô nhiều lỗ chân trâu, thằng Bé đi cặp chú một khúc đường. Thằng Bé hồi này cũng đã quá. Hai người ôm nhau đi khập khiễng nói chuyện lè nhè, bỗng thình lình, chú Năm lọt bàn chân vô lỗ chân trâu chúi nhủi, áo dài khăn đóng văng tung ra. Thằng Bé lạng quạng đỡ chú lên. Chú Năm lè nhè:
– Khoan mày Bé, để tao lấy khăn đóng lên cái đã.
Miệng nói hai tay chú đưa ra bợ cái khăn đóng tròn tròn trước mặt. Nhưng lạ quá, chú vừa giơ lên định đội thì khăn đóng rớt lịch bịch xuống đất.
Chú càu nhàu một mình:
– Ê, khăn đóng tao mới rớt mà sao rã hết vậy ta.
Thằng Bé quờ quạng thấy ướt ướt, nó giơ lên mũi ngửi:
– Đâu phải khăn đóng chú Năm, bãi cứt trâu mà.
Năm Đồ cười, miệng méo xệch:
– Vậy mà tao cứ tưởng khăn đóng. Chắc tao đã quá.
Đầu năm điếm con gặp điếm ông nội
Cái thú giải trí miệt vườn ba ngày Tết là đánh bài. Bài bạc mau ăn thua nhứt là… bài cào.
Cắt tê sáu lá cầm chừng
Bài cào ba lá, tuột chừng không hay.
Ông Chín Cổ như thói quen, năm nào, bữa Hai Mươi Chín dẫn tới mồng Bốn, nhà cũng chứa bài cào. Đánh ở nhà ông toàn tay có máu mặt, như xã trưởng Lân, trung đội trưởng Thọ, thầy Bảy Quỳnh, chú Hai Nghĩa lái lúa, Ba Bạch sở đáy v.v…
Nói nào cho ngay, Tết nhứt làng xã cũng dễ dãi. Ở Cuộc Cảnh sát Quốc gia cũng lờ đi cho mọi người sát phạt nhau buổi đầu năm. Ông Chín Cổ chơi rất ngọt, rất sòng phẳng. Mấy năm rồi có khi ăn khi thua. Năm nay trên miệt Gia Định, Xã Lân có đưa thêm mấy tay mới đến chơi. Như vậy có ăn thua lớn rồi.
Sòng bài là chiếc đệm phơi lúa trải ở góc nhà. Ông Chín Cổ đã lớn tuổi lại có tật nhai trầu bỏm bẻm. Ông bận bộ bà ba mới may bằng sa tin.
Mới vô tụ đầu, ông làm cái. Tiền đặt ra như nước, chỗ nào cũng giấy năm trăm một ngàn xấp lớp. Chia bài xong, ông Chín liếc sơ qua tay em rồi mới cầm lên mạy. Bên ngoài mọi người nín thở hồi hộp theo dõi. Tay em chỗ này bảy nút chỗ kia tám nút, toàn là lớn không.
Ông Chín nặn từng lá, rồi bỗng ông lắc đầu thở ra:
– Thôi chết mẹ rồi.
Vừa kêu trời, ông Chín Cổ vừa quay mình ra phía sau để phẹt bãi cổ trầu vào góc nhà. Như một cái máy, các tay em lùa thêm tiền vào thật nhanh. Lúc ông Chín Cổ phun cổ trầu xong, quay lại, thả bài ra: hai thằng tây một tấm đệm, bù trất. Nhiều người thấy ông bị mấy tay em của Xã Lân vô tiền ăn thêm, không ai dám nói gì cả. Ông Chín hình như cũng biết như vậy, nhưng vẫn làm thinh.
Tụ đó, ông chung gần ba chục ngàn. Ông vẫn tỉnh bơ.
Cây bài lại xoay qua cho người khác làm cái luân phiên. Chừng mười phút sau, lại tới vòng ông Chín Cổ làm cái nữa.
Như bận trước, lúc chia bài xong, ông lại liếc tay em, rồi cầm lên mạy. Ông ăn thua đủ mà.
Bài tay em đã bỏ ra, sáu bảy nút có đủ. Lần này ông Chín coi bài rất chậm rất kỹ. Thôi rồi, ông lại thở ra.
- Chết cha tôi rồi. Cái gì mà xấu quá.
Ông nắm cứng ba lá bài như bận trước, rồi quay ra phía sau phẹt cổ trầu. Cả đám tay em Xã Lân lại lùa tiền vào thêm như chớp. Có người rút kinh nghiệm bận rồi, lần này dám nhét vào năm bảy ngàn phía dưới. Hồi ông Chín mới chia bài tổng cộng tay em chơi chừng bốn mươi ngàn. Nhưng bây giờ họ lùa thêm vào, tròm trèm có bảy tám mươi ngàn.
Ông Chín quay lại.
Cả sòng bài chờ.
Ông Chín nhìn qua tay em, xong ông thả bài ra.
Chín nút.
Ông Chín vùa hết tiền.
Xong ông đứng lên, ngó mọi người chung quanh, ông chia cho mỗi người đàn bà đứng coi mấy đồng. Ông lại ghế giữa, ngồi uống nước.
Đám tay em Xã Lân đau như hoạn, mời vồn vã.
– Đánh nữa chớ ông Chín.
Ông Chín Cổ cười khà khà:
– Thôi, hồi nãy tôi biết tôi bị mấy ông vô tiền, tôi đâu có nói. Bây giờ tôi cũng biết mấy ông vô tiền, tôi cũng đâu có nói. Điệu chơi mình phải như vậy. Thôi, sắp nhỏ có đứa nào đó, coi sửa soạn rồi cúng rước ông bà đi bây.
________________________________
Chú thích:
[13] Ðường Tự Do (Catinat): Ðồng Khởi ngày nay.
[14] Ðường Trịnh Minh Thế (Jean Eudel): Nguyễn Tất Thành ngày nay.